Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị

Tóm tắt

Nâng cao chất lượng dạy và học nói chung, dạy và học các môn Lý luận chính trị ( LLCT) nói

riêng, là vấn đề thường trực, luôn được quan tâm và đã được luận bàn khá nhiều ở các khía cạnh

khác nhau. Nhân kỷ niệm 55 năm Đại học Ngoại thương, bài viết này lại tiếp tục bàn về việc nâng

cao chất lượng dạy và học các môn LLCT nhưng đặt trong điều kiện đào tạo theo tín chỉ và trên tinh

thần quán triệt quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo Nghị quyết 29-NQ/TƯ

của Hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ 8 khóa XI. Theo đó, trên cơ sở làm rõ đặc điểm các môn LLCT,

bài viết trình bày các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn học này trong

điều kiện đào tạo theo tín chỉ và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học.

pdf 8 trang yennguyen 6440
Bạn đang xem tài liệu "Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị

Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn Lý luận chính trị
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
106 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
1. Đặc điểm các môn Lý luận chính trị
Thứ nhất, các môn LLCT vốn là các môn 
lý luận, mang tính tổng hợp, khái quát và trừu 
tượng cao, nhất là môn triết học, nên khó dạy 
và khó học. Bởi vậy, để người học dễ hiểu, 
nắm được nội dung bài giảng, đòi hỏi người 
dạy phải giảng giải thấu đáo vấn đề, biết sử 
dụng tổng hợp các phương pháp giảng dạy 
phù hợp và với sự minh họa thuyết phục bằng 
các ví dụ sinh động, cụ thể. Làm được như vậy 
sẽ giúp cho người học chẳng những dễ hiểu, 
nắm được kiến thức môn học, mà còn cảm 
nhận được sự gần gũi của môn học với cuộc 
sống. Mặt khác, người học cũng phải làm 
quen, thích nghi với kiểu tư duy trừu tượng, tư 
duy khái quát, không dừng lại ở tri thức miêu 
tả, thu nhận các hiện tượng bề ngoài sự vật, 
mà phải nhận thức lý tính, tìm ra bản chất, quy 
Tóm tắt 
 Nâng cao chất lượng dạy và học nói chung, dạy và học các môn Lý luận chính trị ( LLCT) nói 
riêng, là vấn đề thường trực, luôn được quan tâm và đã được luận bàn khá nhiều ở các khía cạnh 
khác nhau. Nhân kỷ niệm 55 năm Đại học Ngoại thương, bài viết này lại tiếp tục bàn về việc nâng 
cao chất lượng dạy và học các môn LLCT nhưng đặt trong điều kiện đào tạo theo tín chỉ và trên tinh 
thần quán triệt quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học theo Nghị quyết 29-NQ/TƯ 
của Hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ 8 khóa XI. Theo đó, trên cơ sở làm rõ đặc điểm các môn LLCT, 
bài viết trình bày các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy và học các môn học này trong 
điều kiện đào tạo theo tín chỉ và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học.
Từ khóa: nâng cao chất lượng, lý luận chính trị, giải pháp.
Mã số: 188.051015. Ngày nhận bài: 13/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: / /2015. Ngày duyệt đăng: 05/10/2015.
Summary 
 Improving the quality of teaching and learning in general, teaching and learning political 
theories subjects in particular, is a regular issue, which has been in attention and discussed in 
many aspects. On the occasion of 55th anniversary of Foreign Trade University, under credit-
system condition and based on the spirit of grasping thoroughly the content of Decision 29-NQ/
TƯ on fundamental and comprehensive renovation for graduate education, this paper continues 
discussing about improving the quality of teaching and learning political theories subjects. By that 
way, after clarifying the characteristics of political theories subjects, the paper suggests sulutions 
to improve the quality of teaching and learning these subjects under the condition of credit system 
and fundamental and comprehensive renovation for graduate education
Key words: quality improvement, political theories, solution 
Paper No.188.051015. Date of receipt: 13/10/2015. Date of revision: / /2015. Date of approval: 05/10/2015.
GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
Đoàn Văn Khái*
* PGS, TS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: doanvankhai@gmail.com
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
107Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
luật bên trong sự vật. 
Thứ hai, lý luận nói chung, LLCT nói riêng 
có nguồn gốc từ thực tiễn. Bởi vì lý luận là 
một hệ thống tri thức biểu hiện qua các khái 
niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý, được 
khái quát từ thực tiễn, phản ánh những thuộc 
tính bản chất, những mối liên hệ bản chất, 
những tính quy luật của các sự vật, hiện tượng 
trong thế giới. Lý luận được hình thành không 
phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên 
hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có 
mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động 
qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn giữ vai 
trò quyết định. Đặc điểm này đòi hỏi khi dạy 
và học các môn lý luận ( theo nghĩa rộng, tất 
cả các môn khoa học lý thuyết đều thuộc lĩnh 
vực lý luận), trong đó có các môn LLCT, phải 
biết gắn lý luận với thực tiễn, dùng thực tiễn 
để minh họa, làm sáng tỏ lý luận; đồng thời 
biết dùng lý luận để chỉ đạo, định hướng hoạt 
động thực tiễn của con người, đây chính là các 
phương pháp luận được rút ra từ nội dung các 
bài giảng (nhất là các bài giảng triết học). Việc 
dạy và học các môn LLCT nếu chỉ dừng lại 
ở lý luận chung chung thì người học rất khó 
hiểu bởi tính trừu tượng vốn có của nó, do đó 
họ không thấy được vai trò, giá trị, sự cần thiết 
của lý luận, lại càng không biết vận dụng lý 
luận vào thực tiễn, cũng bởi vậy mà ích lợi của 
việc học các môn LLCT rất hạn chế, không 
đạt được mục đích đặt ra.
Thứ ba, các môn LLCT vốn có tính tư 
tưởng, nhất là tư tưởng chính trị, vì thế nó tác 
động trực tiếp không chỉ đến thế giới quan, 
phương pháp luận của người học, mà còn đến 
nhân sinh quan, niềm tin, bản lĩnh, ý thức 
chính trị của họ. Mặt khác, ở nước ta, chủ 
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 
được xác định là nền tảng tư tưởng của Đảng 
cộng sản Việt Nam và của toàn xã hội. Vì thế, 
các môn LLCT có quan hệ trực tiếp đến quan 
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà 
nước. Nó trở thành bộ phận chủ đạo tạo nên cơ 
sở lý luận của đường lối, chính sách của Đảng 
và Nhà nước (các môn: Những nguyên lý cơ 
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ 
Chí Minh); đồng thời nó cũng phản ánh quan 
điểm, đường lối của Đảng về những vấn đề 
cơ bản trong cách mạng giải phóng dân tộc 
trước đây, trong bảo vệ, xây dựng và phát triển 
đất nước hiện nay (môn Đường lối cách mạng 
của Đảng cộng sản Việt Nam). Vì vậy, các 
môn LLCT là các môn học bắt buộc trong các 
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên 
nghiệp và dạy nghề ở nước ta. Ban Tuyên giáo 
trung ương trực tiếp chỉ đạo và Bộ Giáo dục 
& Đào tạo tổ chức biên soạn và quản lý nội 
dung chương trình môn học, tài liệu giảng 
dạy và học tập, thời lượng,các môn học này 
và được thực hiện thống nhất trong cả nước. 
Các trường không được biên soạn nội dung 
chương trình, giáo trình các môn LLCT. Bộ 
Giáo dục & Đào tạo cũng quy định cụ thể về 
công tác tổ chức giảng dạy, học tập các môn 
LLCT, việc đi tập huấn, đi thực tế cũng như 
các chế độ, chính sách đối với đội ngũ giảng 
viên LLCT.
Đặc điểm trên đòi hỏi giảng viên LLCT 
không chỉ có kiến thúc chuyên môn và thực 
tiễn tốt, phương pháp giảng dạy phù hợp, am 
hiểu về đường lối chính sách của Đảng và Nhà 
nước, mà còn phải có ý thức chính trị đúng 
đắn, biết gắn giảng dạy chuyên môn với việc 
liên hệ, vận dụng vào đường lối, chính sách 
của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, cũng đòi 
hỏi các cơ sở đào tạo, nhất là đội ngũ lãnh 
đạo các nhà trường phải có nhận thức đúng về 
vai trò, vị trí, sự cần thiết của các môn LLCT 
trong chương trình đào tạo, từ đó coi trọng 
và thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
108 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
và học các môn LLCT cũng như các chế độ, 
chính sách đối với đội ngũ giảng viên LLCT. 
2. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và 
học các môn Lý luận chính trị
Quán triệt những nội dung cơ bản về mục 
tiêu cụ thể, nội dung giáo dục, phương pháp 
giảng dạy và cách đánh giá kết quả học tập đối 
với giáo dục đại học được xác định trong Nghị 
quyết 29-NQ/TƯ nói trên, gắn với đặc điểm 
các môn LLCT và trong điều kiện đào tạo theo 
tín chỉ, để góp phần nâng cao chất lượng dạy 
và học các môn LLCT, cần thực hiện đồng bộ 
các giải pháp cơ bản sau:
2.1. Nhóm giải pháp từ phía đội ngũ giảng 
viên Lý luận chính trị
Một là, bản thân đội ngũ giảng viên LLCT 
phải thường xuyên nâng cao chất lượng bài 
giảng, thể hiện ở nội dung học thuật và tính 
cập nhật của kiến thức chuyên môn cũng như 
thực tiễn.
Hai là, áp dụng tốt các phương pháp giảng 
dạy tích cực, phù hợp với đặc thù môn học và 
khai thác có hiệu quả các phương tiện giảng 
dạy hiện đại. Thực tiễn giảng dạy cho thấy, đối 
với các ngành khoa học xã hội (nhất là những 
môn học có tính lý luận cao), để giờ giảng đạt 
được hiệu quả, phải sử dụng tổng hợp nhiều 
phương pháp như: thuyết trình, nêu vấn đề, 
gợi mở, tạo tình huống, người học cùng tham 
gia,Trong các phương pháp đó, thuyết trình 
vẫn là phương pháp chủ đạo, nhưng phải là 
thuyết trình có đổi mới, cách tân theo hướng 
kích thích tính tích cực của người học, nghĩa 
là trong thuyết trình có nêu vấn đề, phát vấn, 
tạo tình huống, người học cùng tham gia, v.v..
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc lựa chọn, 
sử dụng những phương pháp nào và mức độ 
sử dụng ra sao tùy thuộc vào nội dung và đặc 
điểm môn học ( thậm chí phụ thuộc vào từng 
bài trong môn học), vào mục tiêu mà chủ thể 
giảng dạy đặt ra, vào đối tượng người học và 
điều kiện, phương tiện vật chất cần thiết phục 
vụ cho quá trình dạy và học. Chẳng hạn, các 
khái niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý trong 
triết học rất trừu tượng vì nó có tính khái quát 
cao, do đó giảng viên thường phải giảng giải, 
phân tích dưới hình thức diễn dịch hoặc quy 
nạp, tức là sử dụng phương pháp thuyết trình. 
Đồng thời, để dễ hiểu khi thuyết trình, giảng 
viên hay dùng thủ pháp dẫn người học từ cái 
họ đã biết đến cái họ cần phải biết thông qua 
các ví dụ sinh động, nghĩa là đi từ cụ thể đến 
trừu tượng, từ đơn lẻ đến khái quát. Nhưng khi 
giảng phần ý nghĩa phương pháp luận được 
rút ra từ các nguyên lý, quy luật, thì giảng 
viên lại có thể sử dụng các phương pháp nêu 
vấn đề, gợi mở, tạo tình huống để người học 
suy nghĩ, tự lý giải, tự liên hệ, vận dụng vào 
hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm phát 
huy tính tích cực, sáng tạo của họ. Nghĩa là, 
giảng viên phải biết khai thác, sử dụng tổng 
hợp các phương pháp giảng dạy một cách linh 
hoạt và khéo léo. Mặt khác, cần nhận thức rõ 
rằng, dù áp dụng phương pháp giảng dạy nào 
thì cũng phải nhằm đạt được mục tiêu là giúp 
cho người học dễ hiểu bài, nắm được bản chất 
của vấn đề; kích thích được tư duy sáng tạo, 
tính tich cực của người học; biết vận dụng lý 
luận vào thực tiễn; giờ giảng hấp dẫn, thu hút 
người học và nhất là làm cho họ hiểu được ý 
nghĩa, giá trị, ích lợi của môn học, từ đó họ 
yêu mến môn học. Đây cũng chính là cái đích 
mà chủ thể giảng dạy phải hướng đến, đồng 
thời cũng là căn cứ để đánh giá tính hiệu quả 
của việc sử dụng phương pháp giảng dạy.
Cũng xin nói thêm rằng, các phương tiện 
giảng dạy hiện đại, công nghệ thông tin có 
ý nghĩa rất quan trọng, hỗ trợ cho quá trình 
giảng dạy, nhưng không thể thay cho vai trò 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
109Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
của người thầy, vì thế không được lạm dụng 
chúng; đặc biệt, không được đồng nhất việc 
sử dụng phương tiện giảng dạy hiện đại với 
phương pháp giảng dạy hiện đại. Trong điều 
kiện đào tạo theo tín chỉ, người học có thể tiếp 
nhận tri thức qua nhiều kênh: thầy, thư viện, 
công nghệ thông tin,... nhưng “kênh người 
thầy” vẫn là kênh chủ đạo và quan trọng nhất. 
Bởi lẽ, người thầy không chỉ đơn thuần cung 
cấp tri thức mà còn hướng dẫn, chỉ ra cho 
người học hướng khai thác và xử lý thông tin, 
giúp họ không phải đi đường vòng trong quá 
trình nhận thức chân lý. Chúng ta phê phán 
kiểu dạy: thầy đọc, trò ghi máy móc và “học 
vẹt”, chứ không phải phê phán cách dạy: thầy 
giảng, trò ghi. Vì khi giảng bài, thông qua nội 
dung bài giảng, cách thức và phong thái giảng 
dạy, người thầy tác động không chỉ đến lý trí 
mà còn đến tâm lý, tình cảm của người học, 
qua đó tạo hứng thú cho người học, giúp họ dễ 
hiểu bài, đồng thời góp phần hình thành ở họ 
tình cảm, niềm tin, ý chí, khát vọng hướng tới 
những giá trị chân, thiện, mỹ. 
Ba là, tăng cường gắn lý luận với thực tiễn 
trong quá trình giảng dạy, coi đây là một yêu 
cầu bắt buộc đối với giảng viên. Bởi vì, xét 
về bản chất, lý luận được hình thành từ thực 
tiễn, nên việc gắn lý luận với thực tiễn trong 
giảng dạy không chỉ giúp người học dễ hiểu 
bài, thấy được vai trò của lý luận đối với thực 
tiễn và mối liên hệ giữa chúng, mà còn giúp 
họ làm quen việc gắn lý luận với thực tiễn 
ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. 
Đó cũng chính là cách gắn học với hành, khắc 
phục tình trạng “ năng học bất năng hành” 
hoặc áp dụng lý luận, lý thuyết một cách giáo 
điều, rập khuôn, máy móc. Suy cho cùng, việc 
biết vận dụng lý luận, lý thuyết vào thực tiễn 
chính là mục đích cao nhất và là giá trị đích 
thực của sự học, là một trong những tiêu chí 
quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động 
giáo dục, đào tạo.
Để gắn được lý luận với thực tiễn trong 
giảng dạy, giảng viên phải có vốn thực tiễn 
rộng, phong phú (thực tiễn của ngành, của đất 
nước, của thế giới, v.v.), mà muốn có thực tiễn 
này, giảng viên phải có óc quan sát, thu thập 
thông tin từ thực tiễn, từ cuộc sống bằng nhiều 
phương tiện, biện pháp khác nhau (đọc, nghe, 
nhìn, trực tiếp, gián tiếp,v.v.). Tuy nhiên, thực 
tiễn không bao giờ đứng im, nó là một quá 
trình luôn vận động và phát triển, rất đa dạng, 
phong phú và nhiều chiều. Vì vậy, giảng viên 
phải biết phân tích, chọn lọc, tổng hợp, khái 
quát, nghĩa là phải xử lý tốt thông tin để tìm ra 
những thực tiễn phù hợp, điển hình, phổ biến, 
cập nhật và sinh động. Đồng thời, giảng viên 
phải biết cách gắn sao cho đúng, cho trúng lý 
luận với thực tiễn, biết cách khai thác thực 
tiễn từ các khía cạnh khác nhau; liều lượng 
gắn cũng phải hợp lý, tránh tình trạng sử dụng 
những thực tiễn sơ sài, vụn vặt, đơn lẻ, không 
mang tính phổ biến hoặc lạm dụng, sa đà vào 
thực tiễn (biến giờ học thành buổi nói chuyện 
thời sự hoặc kể chuyện phiếm), mà xem nhẹ 
việc cung cấp những tri thức khoa học, những 
lý luận, lý thuyết cần và đủ cho người học.
Mặt khác, cần gắn dạy chữ với dạy người; 
gắn việc giảng dạy chuyên môn với việc liên 
hệ, vận dụng vào đường lối, chính sách của 
Đảng và Nhà nước, vào thực tiễn phát triển 
kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này đòi hỏi 
giảng viên phải có vốn liếng thực tiễn rộng, 
phong phú, nắm vững đường lối, chính sách 
của Đảng, Nhà nước và phải am hiểu các vấn 
đề kinh tế, chính trị, xã hội, v.v..
Bốn là, tăng cường tổ chức cho sinh viên 
thảo luận, đảm bảo đủ thời lượng theo qui 
định, vì đây là một hình thức dạy và học tích 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
110 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
cực thông qua trao đổi, chất vấn, đối thoại 
giữa giảng viên với sinh viên, giữa sinh viên 
với sinh viên, qua đó giúp sinh viên nắm kiến 
thức lý luận và thực tiễn của môn học tốt hơn, 
phát huy tính tích cực, sáng tạo của cả người 
dạy và người học. Để nâng cao chất lượng và 
hiệu quả các buổi thảo luận, phải quan tâm 
thực hiện tốt các công việc: lựa chọn hình thức 
thảo luận cũng như vấn đề thảo luận, công tác 
chuẩn bị cho thảo luận, cách tổ chức, điều 
hành trong thảo luận, việc nhận xét, đánh giá, 
cho điểm, tạo động lực kích thích tinh thần 
tham gia thảo luận của sinh viên,Trong đó, 
cần đặc biệt lưu ý mấy điểm sau:
- Lựa chọn vấn đề thảo luận phù hợp: Vấn 
đề được lựa chọn để thảo luận ở hình thức 
thảo luận nhóm (giảng viên chia lớp sinh viên 
thành các nhóm, giao đề tài cho các nhóm 
chuẩn bị và sẽ trình bày trong các buổi thảo 
luận sau) thường lớn hơn ở hình thức thảo luận 
nêu vấn đề (giảng viên nêu vấn đề, yêu cầu 
sinh viên chuẩn bị và sẽ trình bày trong các 
buổi hoặc các phần thảo luận sau ). Tuy nhiên, 
dù áp dụng hình thức thảo luận nào thì vấn đề 
thảo luận phải không quá dễ, không quá khó, 
là những nội dung chính của môn học, có tính 
thực tiễn, tính thời sự và kích thích tư duy của 
sinh viên.
- Làm tốt công tác chuẩn bị thảo luận: Giảng 
viên cần giới thiệu tài liệu, địa chỉ nơi khai 
thác thông tin, kiến thức có liên quan đến vấn 
đề thảo luận. Cùng với đó, sinh viên phải tích 
cực, chủ động chuẩn bị nội dung thảo luận; 
đối với thảo luận nhóm, nhóm trưởng phải lên 
kế hoạch phân công cho từng thành viên với 
nhiệm vụ, thời gian hoàn thành cụ thể, tổ chức 
thảo luận trong nhóm, lập báo cáo và thông 
qua toàn nhóm trước khi nộp cho giảng viên 
để phục vụ cho việc trình bày của nhóm trước 
toàn lớp trong buổi thảo luận.
- Trong điều hành thảo luận: Giảng viên 
cần khuyến khích chất vấn, tranh luận, lôi 
cuốn sự tham gia đông đảo của sinh viên, kích 
thích tính tích cực, tư duy sáng tạo của họ. 
Đồng thời, giảng viên phải có nhận xét, đánh 
giá tinh thần làm việc, sự hợp tác, chất lượng 
bài thảo luận, của các cá nhân và nhóm sinh 
viên (nếu là thảo luận nhóm); khích lệ, động 
viên đúng mức, tạo động lực (cộng điểm cho 
sinh viên chẳng hạn) để gia tăng tính tích cực 
thảo luận của sinh viên.
Năm là, tích cực hướng dẫn sinh viên viết 
tiểu luận môn học. Tiểu luận là một bài tập 
lớn, trong đó sinh viên phải luận giải những 
vấn đề lý luận và thực tiễn. Nó có tác dụng 
giúp sinh viên làm quen với nghiên cứu khoa 
học, hiểu sâu hơn những vấn đề cơ bản của 
môn học, bước đầu biết gắn lý luận với thực 
tiễn, góp phần rèn luyện kỹ năng viết của sinh 
viên. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của 
việc viết tiểu luận, giảng viên cần khuyến 
khích, định hướng sinh viên lựa chọn những 
đề tài có ý nghĩa thực tiễn cao, giúp sinh viên 
tập làm quen phát hiện các vấn đề thực tiễn 
và dùng lý luận để luận giải các vấn đề thực 
tiễn đó.
Sáu là, chủ động và tích cực hướng dẫn sinh 
viên tự học, tự nghiên cứu, đây là một nhiệm 
vụ mà giảng viên phải thực hiện khi áp dụng 
đào tạo theo tín chỉ. Ngay từ buổi lên lớp đầu 
tiên, giảng viên phải cung cấp cho sinh viên đề 
cương môn học; nêu rõ những nội dung sinh 
viên tự học, tự nghiên cứu; giới thiệu tài liệu 
học tập; có biện pháp thường xuyên kiểm tra, 
đánh giá hoạt động tự học của sinh viên (một 
trong những biện pháp đó là các vấn đề thảo 
luận, đề kiểm tra, đề thi không loại trừ những 
nội dung giao cho sinh viên tự học, tự nghiên 
cứu), qua đó buộc họ phải tự giác trong công 
việc tự học, tự nghiên cứu.
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
111Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
Bảy là, do các môn học có tính lý luận, đòi 
hỏi người học phải hiểu được bản chất của vấn 
đề và biết vận dụng lý luận vào thực tiễn, nên 
khi đánh giá kết quả học tập của sinh viên, 
không áp dụng hình thức trắc nghiệm mà thực 
hiện dưới 2 hình thức: vấn đáp (cho sinh viên 
biết trước bộ câu hỏi) hoặc viết tự luận (có 
thể là đề mở) và trong đề thi, đề kiểm tra luôn 
có 2 phần: kiến thức môn học và liên hệ, vận 
dụng vào thực tiễn. Theo đó, khi đánh giá bài 
thi, bài kiểm tra, không dừng lại ở việc xem 
xét mức độ thuộc bài của người học, mà phải 
nhìn nhận và đánh giá cao sự hiểu biết bản 
chất vấn đề, năng lực tư duy lý luận và khả 
năng vận dụng lý luận vào thực tiễn của người 
học. Đồng thời, đánh giá theo quá trình với 3 
điểm thành phần: chuyên cần (trọng số 10%), 
kiểm tra giữa kỳ (trọng số 30- 40%), thi hết 
môn (trọng số 50 - 60%).
Tám là, nêu cao ý thức trách nhiệm của 
người thầy. Thực hiện nghiêm túc qui chế 
giảng dạy về nội dung chương trình, thời 
lượng, đánh giá kết quả học tập của sinh 
viên,v.v..
Để thực hiện được những yêu cầu, nhiệm 
vụ nói trên, giảng viên phải không ngừng nâng 
cao năng lực, trình độ chuyên môn (cả lý luận 
và thực tiễn), phương pháp giảng dạy, ngoại 
ngữ, tin học. Điều này đòi hỏi giảng viên phải 
tích cực, chủ động tham gia các khóa đào 
tạo (thạc sĩ, tiến sĩ, bồi dưỡng chuyên môn, 
phương pháp,...) và tự đào tạo; tăng cường 
nghiên cứu khoa học (tham gia đề tài nghiên 
cứu khoa học các cấp, tham gia các hội nghị, 
hội thảo khoa học, viết các bài báo khoa học, 
viết sách,...); thường xuyên cập nhật kiến thức 
thực tiễn dưới nhiều hình thức, thực hiện chế 
độ đi thực tế (được đi thực tế 1 lần khoảng 7 
ngày / năm).
2.2. Nhóm giải pháp từ phía sinh viên 
Để nâng cao chất lượng học tập các môn 
LLCT trong điều kiện đào tạo theo tín chí, bản 
thân sinh viên cần:
Thứ nhất, rèn luyện năng lực nhận thức, 
năng lực tự học, tự nghiên cứu, nâng cao khả 
năng tiếp thu bài giảng.
Thứ hai, biết lựa chọn phương pháp học tập 
thích hợp, đạt hiệu quả cao; có kỹ năng đọc 
sách, nghe giảng và ghi chép tốt. Rèn luyện 
cách học hiểu bản chất vấn đề, không dừng 
lại ở hiện tượng, từ đó biết rút ra phương pháp 
luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn 
cũng như trong cuộc sống nói chung.
Thứ ba, phải nắm được nội dung chương 
trình của chuyên ngành đào tạo, nắm vững 
mục tiêu môn học cũng như mục tiêu của từng 
bài; xây dựng kế hoạch học tập phù hợp và 
nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó; chú ý đăng 
ký số tín chỉ một cách hợp lý, phù hợp với 
năng lực học tập, sức khỏe, điều kiện của bản 
thân và quy chế đào tạo. 
Thứ tư, phải chủ động, tích cực đọc giáo 
trình, tài liệu tham khảo, chuẩn bị cho thảo 
luận, làm bài tập đầy đủ, trước khi lên lớp, 
tránh tình trạng học thụ động.
Thứ năm, rèn luyện tư duy phê phán, tư 
duy sáng tạo, biết hoài nghi khoa học với các 
câu hỏi luôn thường trực trong đầu như: Tại 
sao như vậy? Bản chất của nó là gì? Liệu có 
thể khác được không? v.v.; mạnh dạn đưa ra 
những ý kiến, nhận xét, thắc mắc, với thầy 
và bạn. Làm quen với việc phát hiện các vấn 
đề thực tiễn và dùng lý luận để luận giải các 
vấn đề thực tiễn, có ý thức gắn lý luận với 
thực tiễn, gắn học với hành ngay trong quá 
trình học tập.
Thứ sáu, xác định động cơ học tập đúng 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
112 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
đắn, tự giác, chăm chỉ, có quyết tâm cao trong 
học tập.
Muốn đạt được những điều nêu trên, ngoài 
sự tự thân nỗ lực của sinh viên, cơ sở đào tạo 
cần phải dạy cho sinh viên phương pháp học 
tập và nghiên cứu khoa học ngay từ năm thứ 
nhất (Trường Đại học Ngoại thương đã và 
đang thực hiện). Trong tuần giáo dục công dân 
đầu khoá, phổ biến rõ cho sinh viên biết kế 
hoạch học tập toàn khoá, chương trình đào tạo 
của ngành học, qui chế đào tạo và các qui định 
liên quan đến sinh viên,Cũng cần khích lệ 
tinh thần học tập của sinh viên, kịp thời khen 
thưởng động viên họ.
2.3. Nhóm giải pháp từ phía cơ sở đào tạo
Cơ sở đào tạo có vai trò rất quan trọng 
trong việc nâng cao chất lượng dạy và học nói 
chung, chất lượng dạy và học các môn LLCT 
nói riêng. Vì vậy, Nhà trường cần lưu ý một số 
điểm sau: 
- Tổ chức giảng dạy các môn LLCT một 
cách khoa học và hợp lý, nên tiếp tục xếp các 
môn học này rải ra ở năm thứ nhất và năm thứ 
hai như hiện nay, bảo đảm tính lôgíc giữa các 
môn học. Hơn nữa, không chỉ riêng các môn 
LLCT, mà tất cả các môn (trừ môn ngoại ngữ), 
nên xếp mỗi lớp không quá 120 sinh viên, lớp 
thảo luận bằng một nửa số đó.
 - Nghiên cứu, cải tiến sao cho việc quản lý 
hoạt động giảng dạy trên mạng như thời khóa 
biểu, danh sách lớp học, danh sách lớp thi, vào 
điểm, đổ điểm,được thuận tiện, không hay 
bị trục trặc, bảo đảm sự thống nhất giữa danh 
sách lớp học và danh sách lớp thi để giảng 
viên không phải mất khá nhiều thời gian và 
công sức như hiện nay. Nên chăng, các khoa 
chuyên môn có các trợ lý hành chính đảm 
trách các công việc hành chính nói trên thay 
cho các giảng viên.
- Tăng cường hơn nữa công tác quản lý, 
kiểm tra việc giảng dạy của các giảng viên. 
Khoa Lý luận chính trị cần tiếp tục duy trì tốt 
việc dự giờ giảng của các giảng viên để góp ý, 
rút kinh nghiệm.
- Trên cơ sở kế hoạch xây dựng đội ngũ của 
Nhà trường, Khoa Lý luận chính trị cần thực 
hiện tốt kế hoạch cụ thể của Khoa đã được xây 
dựng trong việc cử giảng viên đi đào tạo tiến 
sĩ, bồi dưỡng chuyên môn, trong và ngoài 
nước.
- Tiếp tục lấy ý kiến phản hồi từ phía người 
học với hình thức thích hợp về việc giảng dạy 
của giảng viên, coi đây là một kênh thông tin 
quan trọng để giảng viên rút kinh nghiệm.
- Thư viện có đủ giáo trình môn học để cho 
sinh viên mượn. Nhà trường nên dành thêm 
phòng cho sinh viên tự học ( nếu có thể).
- Cần chú ý sao cho các trang thiết bị cần 
thiết ở giảng đường như: micro, máy tính, máy 
chiếu, màn hình, luôn vận hành tốt, hỗ trợ 
hiệu quả cho công tác giảng dạy và học tập. 
2.4. Nhóm giải pháp từ phía Bộ Giáo dục 
và Đào tạo
Với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước 
về giáo dục - đào tạo, trong đó có giáo dục 
LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân, Bộ 
Giáo dục và Đào tạo cần:
- Nhận thức đúng vị trí của các môn LLCT 
trong chuơng trình giáo dục đại học để phân 
bổ thời lượng hợp lý và có qui định phù hợp 
về việc dạy và học các môn LLCT.
- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra 
việc dạy và học các môn LLCT của các trường 
đại học và cao đẳng.
- Tổ chức xây dựng nội dung chương trình, 
biên soạn giáo trình các môn LLCT bảo đảm 
tính khoa học, tính tư tưởng, tính thực tiễn, 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
113Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
phù hợp với thời lượng môn học và đối tượng 
người học.
- Cho phép các trường biên soạn sách tham 
khảo môn học, gắn với ngành nghề đào tạo.
- Thực hiện chế độ tập huấn hàng năm và 
cung cấp tài liệu phục vụ công tác giảng dạy 
và nghiên cứu về LLCT cho giảng viên LLCT.
Tóm lại, nâng cao chất lượng dạy và học 
các môn LLCT là nhiệm vụ quan trọng và cần 
thiết, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục 
đại học nói chung, cũng là góp phần thiết thực 
triển khai thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TƯ về 
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào 
tạo. Có thể nói, những giải pháp được đề cập 
trên đây là những giải pháp cơ bản và chúng 
có quan hệ hữu cơ với nhau. Vì thế, chúng chỉ 
phát huy tác dụng khi được thực hiện một cách 
đồng bộ, trong đó sự quan tâm đúng mức của 
Đảng và Nhà nước, của lãnh đạo các cơ sở đào 
tạo về việc dạy và học các môn LLCT cũng 
như việc nâng cao năng lực, trình độ, trách 
nhiệm của đội ngũ giảng viên LLCT có ý nghĩa 
quyết định.q
Tài liệu tham khảo
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị BCHTU lần thứ 8 khóa XI, Nxb. CTQG, 
Hà Nội, 2014.
2. Đoàn Văn Khái, Một số ý kiến về đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã 
hội và nhân văn ở bậc đại học, T/c Kinh tế đối ngoại, số 5/ 2003.
3. Đoàn Văn Khái, Gắn lý luận với thực tiễn - biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng 
và hiệu quả giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, T/c Kinh 
tế đối ngoại, số16/2006.
4. Phùng Thị Quỳnh Trang, Một số trao đổi về phương pháp thảo luận nhóm, www.ctet,edu.vn

File đính kèm:

  • pdfgop_phan_nang_cao_chat_luong_day_va_hoc_cac_mon_ly_luan_chin.pdf