Hệ số CAR và rủi ro của ngân hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tại ngân hàng Việt Nam

Snhững hoạt động trọng tâm nhất mà cả thế giới đang tập trung vào. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam au cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, kiểm soát ngân hàng đã trở thành một trong

đã thắt chặt chính sách quản lý và kiểm soát trong ngành ngân hàng, trong đó hệ số an toàn vốn là một

công cụ hữu ích để đánh giá và kiểm soát hiệu suất hoạt động của ngành. Bài báo này nhằm mục đích trình

bày một cái nhìn về mối quan hệ giữa mức độ an toàn vốn, rủi ro của ngân hàng và những chỉ số lợi nhuận

của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Sử dụng dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu đánh giá tác động của một

số biến độc lập đối với CAR của ngân hàng. Nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ rủi ro về vốn, vốn chủ sở

hữu, tài sản rủi ro, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và lợi nhuận trên tổng tài sản có ảnh hưởng đáng kể về

mặt thống kê đối với CAR của ngân hàng Việt Nam.

pdf 9 trang yennguyen 5540
Bạn đang xem tài liệu "Hệ số CAR và rủi ro của ngân hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tại ngân hàng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ số CAR và rủi ro của ngân hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tại ngân hàng Việt Nam

Hệ số CAR và rủi ro của ngân hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tại ngân hàng Việt Nam
Sè 140/2020 thương mại
khoa học
1
2 
12 
22 
33 
44 
54 
65 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Nguyễn Thị Minh Nhàn và Bùi Thị Ánh Tuyết - Nghiên cứu tác động đến quản lý nhà nước về 
phát triển nguồn nhân lực y tế trình độ cao ở Sơn La. Mã số: 140.1HRMg.11 
A Study on the Factors Affecting Government Management in the Development of High 
Quality Medical Human Resources in Sơn La Province 
2. Kiều Quốc Hoàn - Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến mô hình phân phối của các 
doanh nghiệp Việt Nam. Mã số: 140.1IIEM.12 
The Impacts of the Industrial Revolution 4.0 on the Distribution Models of Vietnamese 
Enterprises 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
3. Nguyễn Văn Huân, Nguyễn Thị Hằng và Bùi Thị Thu - Đánh giá sự hài lòng của khách hàng đối 
với website thương mại điện tử của doanh nghiệp - Một nghiên cứu tại Công ty Cổ phần Đầu tư và 
Thương mại TNG Thái Nguyên. Mã số: 140.2BMkt.21 
Assessing Customer Satisfaction with Enterprise’s E-commerce Website – Case Study at TNG 
Thái Nguyên Investment and Trade JSC 
4. Bùi Thị Quỳnh Trang - Nghiên cứu tác động của trải nghiệm khách hàng đến lòng trung thành tại 
các khách sạn ở Việt Nam. Mã số: 140.2BMkt.21 
A Study on the Effects of Customer Experience on Loyalty at Hotels in Vietnam 
5. Lưu Thị Minh Ngọc và Hoàng Trọng Trường - Sự phiền toái của các loại quảng cáo video trên 
YouTube và hàm ý cho doanh nghiệp Việt Nam. Mã số: 140.2TrEM.21 
Trouble by Video Advertisements on YouTube and Implications for Vietnamese Enterprises 
6. Nguyễn Thu Quỳnh - Quản trị quan hệ khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện 
nay. Mã số: 140.2BMkt.22 
Customer Relationship Management at Vietnamese Commercial Banks at Present 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
7. Đào Thanh Bình - Hệ số CAR và Rủi ro của Ngân hàng - Nghiên cứu thực nghiệm tại ngân hàng 
Việt Nam. Mã số: 140.3FiBa.32 
CAR and Banking Risk – an Experimental Study at Vietnam Commercial Banks 
ISSN 1859-3666
1
1. Giới thiệu về tính hợp lý của yêu cầu đủ vốn 
trong ngân hàng 
Các nhà phân tích và chuyên gia thường mở đầu 
một cuộc thảo luận về yêu cầu an toàn vốn trong 
ngân hàng bằng cách nhắc đến vai trò của chúng 
trong việc tạo ra một bộ đệm an toàn, hỗ trợ những 
thiệt hại của ngân hàng và bảo vệ chủ nợ khỏi sự 
sụp đổ của ngân hàng. Vì vậy, vốn đệm, làm giảm 
xác suất thất bại, là rất quan trọng đối với chủ nợ. 
Trong hệ thống ngân hàng, một ngân hàng không 
được kiểm soát, trong đó tổng tài sản bằng tổng nợ, 
sẽ phải đối mặt với thời kỳ khó khăn bất cứ khi nào 
các tài sản giảm giá trị do một sự kiện không mong 
muốn, thậm chí là phá sản. Nghiêm trọng hơn, thất 
bại trong các ngân hàng sẽ dẫn đến hiệu ứng “domi-
no” ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, ví dụ như 
sự phá sản của Lehman Brothers mở rộng phạm vi 
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lớn nhất trong 
thế kỷ 21. 
Về mặt lý thuyết, việc thiết lập yêu cầu về vốn 
phải đối mặt với một tình huống tiến thoái lưỡng 
nan khi phải đánh đổi giữa sự ổn định trong hoạt 
động và chi phí vốn cao. Trong khi những chủ nợ 
thận trọng yêu cầu sự bảo đảm trong việc nhận được 
đầy đủ số tiền nghĩa vụ của người vay, thì chủ sở 
hữu có xu hướng sử dụng một tỷ lệ lớn các khoản nợ 
để tạo ra một khoản lợi nhuận rất cao. Xin lưu ý 
rằng, Koehn và Santomero (1980), Kim và 
Santomero (1988), và Rochet (1992) nhận thấy chi 
phí vốn cao hơn nhiều so với chi phí nợ vay; do đó, 
việc giảm tỷ lệ đòn bẩy sẽ dẫn đến hạ tỷ suất lợi 
nhuận của ngân hàng. Trong trường hợp này, theo 
quan điểm kinh doanh, chủ sở hữu của ngân hàng sẽ 
xem xét các chính sách mà trong đó rủi ro cao hơn 
nhưng lợi nhuận cũng cao hơn, chính sách này có 
thể dẫn đến xác suất vỡ nợ cao hơn. Chủ nợ, những 
người luôn luôn nhận được một khoản thanh toán cố 
định không phục thuộc vào mức lợi nhuận hoạt động 
của người vay, không muốn phải trải qua giai đoạn 
tài chính không lành mạnh. Tuy nhiên, thực tế là chủ 
sở hữu các ngân hàng có lợi thế trong việc tiếp cận 
thông tin nội bộ được sử dụng trong các quyết định 
đầu tư, làm tăng sự lo ngại của bên cho vay về khả 
năng vỡ. Vì vậy, các nhà quản lý ngân hàng đã dành 
thời gian để thiết lập một kế hoạch hợp lý để làm hài 
lòng tất cả các bên liên quan, trong đó quy định một 
lượng nguồn vốn cố định đầy đủ, cụ thể là vốn cốt 
lõi, để bù trừ cho những khoản lỗ bất ngờ, có thể làm 
giảm những rủi ro đạo đức, qua đó chia sẻ gánh 
nặng tiềm năng với người gửi tiền. 
Trong lịch sử, các quy định về vốn đã được triển 
khai bởi chủ nợ lớn nhất của ngân hàng là Chính phủ 
với mong muốn tránh những chi phí phát sinh trong 
khủng hoảng tài chính. Giống như những người cho 
65

Sè 140/2020
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
HỆ SỐ CAR VÀ RỦI RO CỦA NGÂN HÀNG - 
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI NGÂN HÀNG VIỆT NAM 
Đào Thanh Bình 
Đại học Hà Nội 
Email: binhdtt@hanu.edu.vn
Ngày nhận: 03/02/2020 Ngày nhận lại: 27/02/2020 Ngày duyệt đăng: 03/03/2020 
Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, kiểm soát ngân hàng đã trở thành một trong những hoạt động trọng tâm nhất mà cả thế giới đang tập trung vào. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
đã thắt chặt chính sách quản lý và kiểm soát trong ngành ngân hàng, trong đó hệ số an toàn vốn là một 
công cụ hữu ích để đánh giá và kiểm soát hiệu suất hoạt động của ngành. Bài báo này nhằm mục đích trình 
bày một cái nhìn về mối quan hệ giữa mức độ an toàn vốn, rủi ro của ngân hàng và những chỉ số lợi nhuận 
của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Sử dụng dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu đánh giá tác động của một 
số biến độc lập đối với CAR của ngân hàng. Nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ rủi ro về vốn, vốn chủ sở 
hữu, tài sản rủi ro, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và lợi nhuận trên tổng tài sản có ảnh hưởng đáng kể về 
mặt thống kê đối với CAR của ngân hàng Việt Nam. 
Từ khóa: hệ số an toàn vốn - CAR, rủi ro của ngân hàng, hiệu suất hoạt động, dữ liệu bảng. 
vay tư nhân, Chính phủ hoặc Ngân hàng Trung ương 
yêu cầu hệ thống bảo hiểm tiền gửi bảo vệ họ khỏi 
những thiệt hại không mong muốn. Đóng vai trò là 
người cho vay cuối cùng, thực tế, Ngân hàng trung 
ương vẫn phải hỗ trợ cho nghĩa vụ của ngân hàng 
bằng một vài điều khoản hợp đồng liên quan đến tài 
chính hay chính trị. Bên cạnh đó, hệ thống này 
không có khả năng hỗ trợ các nhà quản lý trong việc 
theo dõi liệu rằng một khoản tiền gửi mới có được 
bảo đảm hay không. Do đó, Chính phủ ban hành yêu 
cầu đủ vốn liên tục để duy trì hoạt động của ngân 
hàng. Ngoài ra, một lý do khác nữa chính là chính 
phủ có thể sử dụng yêu cầu về vốn để giảm xác suất 
của vỡ nợ của ngân hàng. Vỡ nợ của một ngân hàng 
có thể gây nguy hiểm cho một ngân hàng khác có 
liên quan thông qua thị trường cho vay liên ngân 
hàng hoặc thông qua tài khoản của khách hàng đang 
chờ chuyển tiền từ ngân hàng đầu tiên trong hệ 
thống thanh toán, sau đó lây lan mạnh mẽ đến toàn 
bộ ngành, thậm chí toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt, 
những tranh luận xung quanh vấn đề “quá lớn để sụp 
đổ” cho rằng các ngân hàng lớn biết được vị trí quan 
trọng của mình trong hệ thống nền kinh tế; do đó, họ 
có động lực để chấp nhận rủi ro cao hơn. Kết quả là, 
chính phủ phải hỗ trợ để ổn định nền kinh tế nếu các 
ngân hàng này trải qua giai đoạn khó khăn. Nếu các 
gói cứu trợ là không đủ, một thảm họa lớn sẽ xảy ra. 
Những chi phí xã hội này, không chỉ những nhà đầu 
tư vào ngân hàng phải gánh chịu, còn buộc các nhà 
quản lý yêu cầu lượng vốn lớn như là một nỗ lực để 
kết hợp chặt chẽ lợi ích xã hội với chi phí hoạt động. 
Một yếu tố ngoại vi tiêu cực khác là thất bại của 
ngân hàng có thể mang lại những thông tin gây rối 
và gây thiệt hại đối với sự tín nhiệm tín dụng của 
người vay, điều đó là vô cùng tốn kém khi phát triển. 
Một ngân hàng luôn luôn phát triển các đội ngũ 
chuyên môn trong quy trình xử lý thông tin. Các 
chuyên gia chịu trách nhiệm thu thập, phân tích, 
đánh giá và bảo mật thông tin có giá trị trong hệ 
thống ngân hàng. Sau đó, trong trường hợp ngân 
hàng phá sản, toàn bộ thông tin hữu ích về đánh giá 
khách hàng để tham khảo có thể bị mất mãi mãi, 
điều này ảnh hưởng đến toàn bộ ngành ngân hàng. 
Bài viết nhằm mục đích tạo một liên kết giữa rủi 
ro của ngân hàng và yêu cầu an toàn vốn. Điều này 
góp phần vào quan điểm về quy định vốn trong một 
số khía cạnh. Thứ nhất, nó giải thích ngắn gọn lý do 
của yêu cầu an toàn vốn, đưa ra đánh giá ngắn gọn 
về những nghiên cứu trước đó liên quan đến các yếu 
tố quyết định trong yêu cầu đủ vốn, đó là rủi ro và 
chỉ số lợi nhuận, và tóm tắt các Hiệp ước vốn Basel. 
Thứ hai, nghiên cứu này xem xét các quy định ngân 
hàng chính ở Việt Nam, sau đó so sánh với các tiêu 
chuẩn quốc tế. Thứ ba, dựa trên dữ liệu thứ cấp như 
các ấn phẩm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 
các báo cáo chính thức từ các ngân hàng thương 
mại, nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu tác 
động của rủi ro và lợi nhuận trên mức độ đủ vốn một 
cách thực nghiệm. Cuối cùng, bài viết thảo luận về 
các kết quả nghiên cứu và đưa ra kết luận về tình 
hình điều chỉnh vốn. 
Phần còn lại của bài được sắp xếp như sau. Phần 
thứ hai là tổng quan nghiên cứu về quy định an toàn 
vốn, những nghiên cứu trước đó về các yếu tố quyết 
định mức vốn, và những ý tưởng cơ bản trong Hiệp 
ước vốn Basel, và các quy định đối với ngân hàng 
Việt Nam. Phần thứ ba xem xét các nghiên cứu thực 
nghiệm về các ngân hàng Việt Nam, kiểm tra mối 
quan hệ giữa sự thay đổi về vốn so với thay đổi 
trong các yếu tố rủi ro và đo lường lợi nhuận, bao 
gồm giải thích các biến, mô tả dữ liệu và kết quả hồi 
quy. Trong phần cuối cùng, kết luận và thảo luận kết 
quả cũng như những cơ hội nghiên cứu sâu hơn sẽ 
được trình bày. 
2. Tổng quan nghiên cứu về quy định an 
toàn vốn 
Ban đầu, Moldigliani và Miller (1958) chứng 
minh rằng trong một thị trường hiệu quả, cơ cấu vốn 
của doanh nghiệp không liên quan đến giá trị của nó. 
Vì ngân hàng là các công ty cổ phần, nên khoản lỗ 
của cổ đông được giới hạn trong khi lợi nhuận của 
họ lớn hơn nhiều so với số tiền thanh toán lãi cố 
định cho người gửi tiền và người cho vay. Trong một 
thị trường hiệu quả với tất cả các thông tin được 
công bố, các chủ nợ yêu cầu lãi suất cho vay cao hơn 
để bù đắp rủi ro cao hơn, điều đó thúc đẩy những 
người quản lý ngân hàng tối đa hóa cả giá trị cổ 
phiếu và tổng giá trị của ngân hàng. Do đó, giá trị thị 
trường của ngân hàng là độc lập với cơ cấu vốn. Nói 
cách khác, quy định về vốn là không cần thiết trong 
cơ cấu này. 
Tuy nhiên, Sealey (1985), Baltensperger & 
Milde (1987) lập luận rằng lý thuyết M & M là 
không thích hợp đối với các ngân hàng. Theo lý 
thuyết thông tin, nếu thị trường là hiệu quả, những 
ngân hàng không sở hữu những thông tin đặc biệt sẽ 
không thể tồn tại. Do đó, sự xuất hiện của ngân hàng 
chứng minh rằng giả thuyết trong M & M có vấn đề. 
Vì các chủ nợ không có khả năng đánh giá chính xác 
rủi ro của danh mục đầu tư, nên ngân hàng có động 
Sè 140/202066
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
lực để tăng đòn bẩy và chịu rủi ro cao hơn. Kết quả 
là, những nhà quản lý cần triển khai những yêu cầu 
nhất định đối với các ngân hàng, đặc biệt là về vốn, 
để tránh khả năng vỡ nợ. 
Ngoài ra, Koehn & Santomero (1980) thấy rằng 
yêu cầu về vốn vẫn chưa đủ để làm giảm xác suất 
thất bại. Bởi vì một mức vốn yêu cầu cao sẽ có 
những hiệu quả không mong muốn đối với lợi nhuận 
kỳ vọng các ngân hàng; buộc các ngân hàng phải 
cân bằng mất mát của họ bằng cách đầu tư vào các 
tài sản rủi ro cao. Nói cách khác, mức độ lo ngại rủi 
ro đóng một vai trò quan trọng trong xác suất phá 
sản. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng xác suất thất bại 
trong các ngân hàng có mức độ lo ngại rủi ro cao là 
thấp hơn so với những ngân hàng có mức lo ngại rủi 
ro thấp. Do đó, những quy định về vốn cần phải kết 
hợp với các yêu cầu về tài sản và tính đến vấn đề 
thanh khoản. 
Trong những thảo luận sau đó, Kim và 
Santomero (1988) cũng cho rằng các nhà hoạch 
định chính sách có thể thực hiện các yêu cầu về vốn 
nhạy cảm với rủi ro. Cụ thể, trong lượng rủi ro được 
lựa chọn tối ưu với một cận trên trong xác suất phá 
sản nên phụ thuộc vào lợi nhuận kỳ vọng và 
phương sai của chúng - cấu trúc hiệp phương sai. 
Do đó, chúng sẽ độc lập đối với mức độ lo ngại rủi 
ro của từng cá nhân. 
Mpuga (2002) tin rằng những yêu cầu vốn tối 
thiểu không đủ có thể khiến các ngân hàng phá sản. 
Ông phân tích những quy định vốn Uganda mới đã 
dẫn đến một số lượng lớn của các ngân hàng sụp đổ 
như thế nào khi họ nỗ lực để đáp ứng các yêu cầu về 
vốn trong cuộc khủng hoảng năm 1998. Một cách 
thực nghiệm, nghiên cứu kết luận thêm rằng một khi 
quy định mới đã tính đến những yếu tố bổ sung, như 
tiền gửi, vốn đã góp, vốn cốt lõi, tổng số vốn, hiệu 
suất hoạt động của ngân hàng sẽ được tăng cường. 
Tương tự như vậy, Choi (2000) thấy rằng các ngân 
hàng thay đổi hành vi của họ khi một quy định cũ 
được thay thế. Đặc biệt, những ngân hàng đáp ứng 
CAR đã mở rộng tín dụng và những ngân hàng với 
mức CAR thấp phải giảm hoạt động cho vay của họ 
để thích ứng với vốn bắt buộc. 
Dowd (1999) đã chứng minh rằng các quy định 
vốn tối thiểu có thể được coi như là một phương tiện 
để tăng cường sự an toàn và lành mạnh của ngành 
ngân hàng. Ông đánh giá cao hệ thống bảo hiểm tiền 
gửi trong việc đối phó với vấn đề thông tin bất đối 
xứng. Rủi ro đạo đức của vấn đề này buộc Chính 
phủ thiết lập sự can thiệp vào hoạt động của ngân 
hàng bằng cách đưa ra quy định về vốn. Đồng thời, 
Harold (1999) độc lập phát hiện ra rằng không chỉ 
những nhà quản lý mà cả người dân cũng lo ngại về 
sự ổn định của hệ thống tài chính. Bằng cách sử 
dụng các phương pháp tiếp cận vốn của ngân hàng 
dựa trên rủi ro đối với ngân hàng và so sánh sức 
mạnh của những liên hiệp tín dụng, nghiên cứu suy 
ra rằng quy mô tài sản không phải là một nguồn 
chính tạo nên sự khác biệt trong tỷ lệ vốn dựa trên 
rủi ro của những ngân hàng này. Do đó, các ngân 
hàng sẽ duy trì một mức vốn phù hợp để tối ưu hóa 
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cũng như thích nghi 
với các quy định an toàn vốn. 
Jackson et al. (1999) đã tiến hành một nghiên 
cứu để chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận của ngân 
hàng và yêu cầu vốn trong ngành ngân hàng của 
Đức, Canada, Hà Lan, Nhật Bản, Anh, Mỹ, và Thụy 
Sỹ. Tuy nhiên, tác giả tìm ra những kết quả khác 
nhau một cách không rõ ràng từ dữ liệu có được. 
Bensaid (1995) nghiên cứu sâu sắc chức năng 
của yêu cầu về vốn trong việc đối phó với lựa chọn 
đối nghịch và rủi ro đạo đức. Về mặt lý thuyết, lựa 
chọn đối nghịch bắt nguồn từ chất lượng cá nhân 
của các khoản cho vay trong ngân hàng đối với chủ 
sở hữu của ngân hàng trong khi rủi ro đạo đức xuất 
hiện do lợi nhuận của các ngân hàng phụ thuộc vào 
quyết định không quan sát được. 
Furlong và Keeley (1989) lập luận rằng khuôn 
khổ mà trong đó lãi suất cho vay là không đổi và chi 
phí là độc lập với rủi ro của danh mục đầu tư là 
không chính xác, bởi vì nó bỏ qua trạng thái khi 
ngân hàng thất bại. Một khi ngân hàng thất bại, 
người gửi tiền được trả một khoản bồi thường cơ 
quan bảo hiểm tiền gửi, giảm chi phí của các khoản 
nợ. Do đó, xác suất  ...  mại nên cải thiện mức độ an toàn 
vốn như thế nào để thích nghi với các quy định?”. 
3.2. Thống kê mô tả 
Các thống kê mô tả cho tất cả các biến được tóm 
tắt như bảng sau: 
Thống kê mô tả của các biến này có thể được 
tóm tắt như sau: Biến CAR (hệ số an toàn vốn) đạt 
giá trị cao nhất 45,89% của Eximbank và có giá trị 
thấp nhất là 8% của VIB trong 6 năm. Biến CPR - 
rủi ro vốn nằm trong khoảng từ 97% đến 516% 
trong suốt sáu năm qua, với 177% trên trung bình. 
Biến CR - rủi ro tín dụng có giá trị tối thiểu là 
32,86% với ACB, giá trị tối đa là 82,9% với BIDV 
trong giai đoạn này. Trong thực tế, các ngân hàng 
Việt Nam chỉ chịu một rủi ro tín dụng trung bình, ở 
53,67%. Biến IR dao động từ 43,4% của MB đến 
111% của BIDV trong giai đoạn từ 2010 đến 2015. 
69

Sè 140/2020
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 1a: Thống kê mô tả 
 CAR CPR CR ER IR LR ATO ROE ROA 
Trung bình 0.130583 1.768699 0.536691 0.136863 0.690902 0.214140 0.036499 0.164983 0.013429 
Trung vӏ 0.120900 1.722226 0.531941 0.136739 0.645954 0.183057 0.037761 0.150100 0.013250 
Cao nhҩt 0.458900 5.161399 0.829032 0.414206 1.110227 0.490566 0.054023 0.365200 0.026800 
Nhӓ nhҩt 0.080000 0.971555 0.328605 0.064424 0.434056 0.021580 0.009734 0.006400 0.000700 
Ĉӝ lӋch chuҭn 0.055229 0.546425 0.124469 0.053819 0.171825 0.116813 0.010208 0.080965 0.006154 
Cӥ mүu 66 66 66 66 66 66 66 66 66 
Biến LR - rủi ro thanh khoản biến dao động từ 2,1% 
đến 49%, với điểm trung bình là 21%. Trong tất cả 
các thông tin, VIB đứng ở thứ hạng cao nhất, ở mức 
bình quân 49% và Eximbank ở mức thấp nhất, bình 
quân 2,1%. Biến ER nhìn chung đạt mức tối đa 
41,42%, giảm xuống mức tối thiểu 6,4%, và trung 
bình là 13,68%. Biến ROE (lợi nhuận trên vốn chủ 
sở hữu) dao động từ 0,64% và 36,5%, với điểm 
trung bình là 16,49%. Biến ATO đạt giá trị cao nhất, 
ở mức 5,4%, và giá trị thấp nhất, khoảng 0,9%, với 
trung bình và độ lệch chuẩn tương ứng là 3,64% và 
1% trong suốt sáu năm qua. ROA dao động từ 
0,07% đến 2,68%, với điểm trung bình là 1,34%. 
Tính trung bình, MBBank hoạt động hiệu quả nhất, 
ở mức 2,15% trong khi VIB chỉ đạt mức 0,65% với 
tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản. 
Như có thể thấy, hệ số an toàn vốn (CAR) có mối 
quan hệ tích cực với các rủi ro vốn (CPR), tỷ lệ tài 
sản rủi ro của chủ sở hữu (ER), hệ số quay vòng tài 
sản (ATO), và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA). 
Ngược lại, mức độ an toàn vốn có quan hệ tiêu cực 
với rủi ro tín dụng (CR), rủi ro lãi suất (IR), rủi ro 
thanh khoản (LR), và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở 
hữu (ROE). Ngoài ra, từ ma trận hệ số tương quan, 
tương quan nghịch giữa ROE và yếu tố nguy cơ, 
ngoại trừ rủi ro vốn, xác nhận thuyết “rủi ro cao thì 
lợi nhuận cao”. Các ngân hàng hoạt động hiệu quả 
với hệ số quay vòng tài sản cao có xu hướng phải 
đối mặt với rủi ro tín dụng cao và rủi ro lãi suất. Bên 
cạnh đó, vấn đề đa cộng tuyến có thể chỉ xảy ra giữ 
hai cặp biến, cụ thể là rủi ro tín dụng CR và rủi ro 
lãi suất IR, và ROE và ROA với tương quan tương 
ứng là 91% và 80%. Tuy nhiên, các tính toán cho 
thấy các thông tin độc lập giữa hai quan sát này. 
Nghiên cứu cũng kiểm tra lỗi này sau khi chạy mô 
hình hồi quy. 
3.3. Phân tích hồi quy 
Nghiên cứu này sẽ sử dụng mô hình hồi quy về 
biến phụ thuộc dựa trên ba cách: hồi quy gộp, mô 
hình hiệu ứng cố định (FEM), và mô hình hiệu ứng 
ngẫu nhiên (REM). Phương thức đầu tiên là phương 
thức đơn giản nhất để hồi quy dữ liệu bảng. Về mặt 
lý thuyết, hồi quy này giả định các giá trị trung bình 
và mối quan hệ liên tục giữa tất cả các biến, bỏ qua 
thời gian và hiệu ứng cắt ngang. Mô hình hiệu ứng 
cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên 
(REM) được đưa vào phân tích bảng. Mô hình trước 
xem xét riêng các đặc tính ảnh hưởng đến biến độc 
lập đồng thời loại bỏ các tính năng thời gian bất biến 
để đánh giá hiệu quả thực của các biến giải thích. 
Đây là nguyên nhân tại sao FEM giả định rằng 
không có sự tương quan trong mô hình. Mặt khác, 
REM gồm các biến thời gian bất biến trong quá trình 
của nó. Các biến thể trên các thực thể ở đây được coi 
là ngẫu nhiên và không tương quan giữa các lỗi và 
các biến. Như vậy, tương quan là một vấn đề nghiêm 
trọng mà REM phải đối phó với. Lưu ý rằng, REM 
có thể loại bỏ các lỗi ngẫu nhiên khỏi mô hình. 
Nghiên cứu này biến đổi sang dạng logarit để làm 
giảm xác suất biến ngẫu nhiên. Để đánh giá tình phù 
hợp của hai mô hình, thử nghiệm Tương quan ngẫu 
nhiên - Haussemann được thực hiện với sự giúp đỡ 
của Eviews. 
Phân tích hồi quy được sử dụng để khám phá các 
mối quan hệ định lượng giữa biến phụ thuộc, CAR, 
và các biến độc lập bao gồm CR, IR, CPR, LR, ER, 
ATO, ROE và ROA. Như đã đề cập ở trên, nghiên 
cứu thực hiện cả mô hình hiệu ứng cố định (FEM) 
và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM), cho thấy 
mối quan hệ giữa các biến cụ thể trên hai phương 
diện trước khi đánh giá sự phù hợp. 
Sè 140/202070
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 1b: Ma trận hệ số tương quan 
HӋ sӕ WѭѫQJ
quan CAR CPR CR ER IR LR ATO ROE ROA 
CAR 1.0000 
CPR 0.0261 1.0000 
CR -0.1995 0.0787 1.0000 
ER 0.8357 -0.1423 -0.3713 1.0000 
IR -0.1388 0.1865 0.9171 -0.3076 1.0000 
LR -0.0232 0.0333 -0.1644 0.1762 -0.0535 1.0000 
ATO 0.0392 0.0326 0.2614 0.0783 0.3225 -0.0315 1.0000 
ROE -0.4040 0.0431 -0.3229 -0.2774 -0.2552 -0.2866 0.0979 1.0000 
ROA 0.0102 -0.0664 -0.3919 0.2105 -0.2774 -0.2841 0.2272 0.8078 1.0000 
Phương trình cuối cùng 
LOG(CAR) ước lượng = -0.35 + 
0.16*LOG(CPR) + 0.56*LOG(ER) – 
0.46*LOG(ROE) + 0.35*LOG(ROA) 
t-Statistic lần lượt là -2.070777, 2.950422, 
5.138834, -4.340772, 3.167528. R2 = 92.39% 
Biến phụ thuộc là hệ số an toàn vốn (CAR), các 
biến độc lập có ý nghĩa thống kê lần lượt là rủi ro 
vốn (CPR), tỷ lệ tài sản rủi ro của chủ sở hữu (ER), 
tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ 
suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) 
Các phương trình hồi quy trước, chỉ ra không ý 
nghĩa của rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro 
thanh khoản và hệ số quay vòng tài sản, như đã 
được phát triển trong mô hình Al-Tamimi (2013) 
dường như không có hiệu quả áp dụng trong tình 
hình Việt Nam. 
Phân tích thống kê cho thấy mối tương quan tích 
cực, đáng kể giữa hệ số an toàn vốn CAR và CPR 
rủi ro vốn, đặc biệt, khi các rủi ro vốn tăng thêm 1%, 
hệ số an toàn vốn của các ngân tăng thêm trung bình 
0,16%. Các giá trị p ≈ 0.00 đó là nhỏ hơn α = 0,05 
cho thấy tác dụng đáng kể của rủi ro vốn với hệ số 
an toàn vốn. 
Các kết quả hồi quy cho thấy mối quan hệ tích 
cực, đáng kể giữa hệ số an toàn vốn CAR của chủ sở 
hữu và tỷ lệ tài sản rủi ro của chủ sở hữu ER. Biến 
tỷ lệ tài sản rủi ro của chủ sở hữu có ảnh hưởng 
mạnh nhất với hệ số an toàn vốn. Trong thực tế, hệ 
số an toàn vốn được dự kiến sẽ tăng trung bình 
0.56%, nếu tỷ lệ tài sản rủi ro của chủ sở hữu tăng 
thêm 1%, các yếu tố khác không đổi. Với giá trị p ≈ 
0.00, tác dụng với hệ số an toàn vốn có ý nghĩa ở 
mức α = 0,05. 
Kết quả thực nghiệm cho thấy mối quan hệ tiêu 
cực, đáng kể giữa hệ số an toàn vốn CAR và tỷ suất 
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE. Đặc biệt, giá trị 
p ≈ 0.00 nhỏ hơn so với α = 0.05 hỗ trợ cho việc 
nghiên cứu bác bỏ giả thuyết không. Điều này khẳng 
định chỉ số lợi nhuận trực tiếp ảnh hưởng đến mức 
độ vốn ngân hàng. Nói cách khác, nếu tỷ suất lợi 
nhuận trên vốn chủ sở hữu giảm 1%, mức vốn của 
các ngân hàng sẽ tăng trung bình 0,46%, các yếu tố 
khác không đổi. 
Phân tích hồi quy chứng minh mối quan hệ tích 
cực, đáng kể giữa mức độ an toàn vốn CAR và tỷ 
suất lợi nhuận trên tài sản ROA. Các giá trị p ≈ 0.00 
nhỏ hơn nhiều so với α = 0,05 hỗ trợ cho việc nghiên 
cứu bác bỏ giả thuyết. Cụ thể là, vốn của các ngân 
hàng dự kiến sẽ tăng lên trung bình 0,35% nếu tỷ 
suất lợi nhuận trên tài sản tăng thêm 1%, các yếu tố 
khác không đổi. 
Tóm lại, ba yếu tố rủi ro vốn - CPR, tỷ lệ tài sản 
rủi ro của chủ sở hữu ER và tỷ suất lợi nhuận trên 
tài sản ROA có tác động tích cực đến mức độ an 
toàn vốn CAR của ngân hàng, tỷ suất lợi nhuận trên 
vốn chủ sở hữu ROE ảnh hưởng tiêu cực đến mức 
vốn của ngân hàng. Như vậy trong ngành ngân 
hàng, một ngân hàng có ROA cao thì tốt hơn rất 
nhiều một ngân hàng chỉ có ROE cao và ROA thấp. 
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, rủi ro tín dụng, rủi ro 
lãi suất, rủi ro thanh khoản và hệ số quay vòng tài 
sản có ảnh hưởng không rõ ràng đến mức độ an toàn 
vốn của các ngân hàng. 
4. Kết luận và thảo luận về các kết quả 
nghiên cứu 
Thứ nhất, rủi ro vốn - CPR là có ý nghĩ tích cực 
về mặt thống kê với hệ số an toàn vốn. Tuy nhiên, 
điều này là trái với kết luận của Al-Tamimi (2013) về 
việc không có ý nghĩa thống kê, trong nghiên cứu về 
ngân hàng Jordany. Điều này có thể xuất phát từ sự 
khác biệt trong tình hình ngành ngân hàng ở Jordany 
và Việt Nam. Theo đánh giá về biến rủi ro vốn, tỷ lệ 
này dao động trong một phạm vi rộng trong 6 năm 
qua, minh họa cho môi trường không ổn định của 
ngành ngân hàng Việt Nam. Những lý do thích hợp 
cho vấn đề này có thể là cách tiếp cận quản lý rủi ro 
khác nhau dưới áp lực từ Chính phủ, cạnh tranh và xu 
hướng rút vốn ngân hàng của các tập đoàn khổng lồ. 
Những hoạt động này trực tiếp ảnh hưởng đến cả vốn 
đầu tư và rủi ro, dẫn đến một sự thay đổi lớn trong rủi 
ro vốn. Mặt khác, lĩnh vực ngân hàng của Jordany 
dường như ổn định trong một thời gian dài. 
Dựa trên mô hình hồi quy cuối cùng, bởi vì một 
ngân hàng tuân theo danh mục đầu tư thường rủi ro 
hơn về thu nhập, nên nhìn chung nó phải đối mặt với 
mức rủi ro vốn cao hơn do sự gia tăng của tài sản có 
rủi ro. Tỷ lệ rủi ro vốn, do đó, giảm một cách hợp lý, 
theo sau là tỷ lệ an toàn vốn. Sau đó, ngân hàng 
thương mại có động cơ để tăng vốn chủ sở hữu hoặc 
dành nhiều thu nhập được giữ lại nhiều hơn cho việc 
bảo hiểm rủi ro này để bảo vệ quyền lợi của người 
gửi tiền. Tăng trưởng lượng vốn có thể đóng góp 
vào vốn đầu tư cũng như Vốn cấp 1 (Lõi), được quy 
định tại Thông tư 13 của Ngân hàng Nhà nước. Do 
đó, trong nỗ lực kiểm soát rủi ro vốn, các ngân hàng 
thương mại Việt Nam cũng tăng cường mức vốn đầy 
đủ. Nói cách khác, mức độ an toàn vốn càng cao, 
các ngân hàng càng an toàn trong việc đối phó với 
rủi ro vốn. 
71

Sè 140/2020
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Thứ hai, tỷ lệ tài sản rủi ro vốn chủ sở hữu đã 
được minh họa có ý nghĩa thống kê đối với mức vốn 
đầy đủ. Dữ liệu cho thấy các tài sản rủi ro vốn chủ sở 
hữu có mối quan hệ tích cực với vốn ngân hàng, phù 
hợp với những phát hiện trước đó của Al-Tamimi 
(2013). Chỉ tiêu này chú ý nhiều đến chức năng của 
vốn chủ sở hữu đối với người gửi tiền trong trường 
hợp phá sản. Khi rủi ro được coi là tăng vì một số lý 
do, các ngân hàng có xu hướng điều chỉnh dự án rủi 
ro của họ ở mức hợp lý, làm giảm mức độ an toàn 
vốn. Do đó, sự gia tăng tỷ lệ tài sản rủi ro vốn chủ sở 
hữu làm tăng cường tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng. 
Tuy nhiên, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có ý 
nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 95% cho tỷ lệ an 
toàn vốn. Kết quả này cho thấy mối tương quan 
nghịch giữa lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và mức 
độ an toàn vốn, tương tự như kết quả của Al-Tamimi 
(2013). Tuy nhiên, nó trái ngược với mối quan hệ 
tích cực giữa an toàn vốn và lợi nhuận, được đề xuất 
bởi Kosmidou (2008), Ben Naceur (2003), Valverde 
và Fernandez (2007), Brock và Suarez (2000), và 
Saunders và Schumacher (2000)). Như được trích 
dẫn trong các phần tài liệu trước đây, mức vốn chủ 
sở hữu ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các 
ngân hàng. Để thích ứng với các quy định an toàn và 
lành mạnh của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng 
Việt Nam buộc phải tăng số vốn hoặc giảm mức độ 
tài sản rủi ro. Vì chi phí vốn cổ phần cao hơn nhiều 
so với chi phí nợ, chi phí vốn trung bình tăng lên, 
làm giảm lợi nhuận ròng. Mặt khác, chi phí nợ làm 
giảm xác suất lợi nhuận bất thường, trực tiếp làm 
giảm khả năng thu lợi nhuận. Do đó, phát sinh tỷ lệ 
vốn làm cho lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu thấp hơn. 
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu thực nghiệm về 
lợi nhuận trên tài sản cho thấy nó có tác động tích 
cực đáng kể ở mức độ tin cậy 95% đối với mức độ 
an toàn vốn, chứng minh kết luận tương tự với Al-
Tamimi (2013). Lợi nhuận trên tài sản ROA thể hiện 
mức độ hiệu quả của các ngân hàng trong việc tạo 
lợi nhuận cơ bản trên cơ sở tài sản. Theo công thức, 
các ngân hàng có thể tăng cường chỉ số này bằng 
cách tăng lợi nhuận hoặc giảm tổng tài sản. Trong 
khi tùy chọn thứ hai là không thực tế vì tín hiệu tiêu 
cực của nó về hiệu suất của các ngân hàng, thì lựa 
chọn trước đây dường như là một lựa chọn tốt cho 
họ. Nhìn chung, nhờ chi phí tài trợ thấp, các ngân 
hàng thường chủ yếu dựa vào thu nhập giữ lại để 
tăng vốn. Do đó, nếu các ngân hàng hoạt động có 
lãi, họ có thể sẽ dành một khoản thu nhập giữ lại để 
lấy vốn, điều này làm tăng mức vốn của ngân hàng. 
Kết quả thực nghiệm này cũng tương tự như Gropp 
và Heider (2007). Ngoài ra, ROA và tỷ lệ vốn có thể 
có mối tương quan tích cực vì các ngân hàng dự kiến 
sẽ tăng rủi ro tài sản để có được lợi nhuận cao hơn 
(Jeitschko và Jeung, 2007). 
Về cơ hội nghiên cứu trong tương lai, các nhà 
nghiên cứu có thể xác định và so sánh các loại hình 
ngân hàng khác nhau, bao gồm các ngân hàng 
thương mại Nhà nước trước đây, ngân hàng thương 
mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và các công ty tài 
chính, để có thể kiểm định loại hình ngân hàng có 
ảnh hưởng đến quyết định thiết lập hệ số CAR. Một 
hướng khác để nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này là 
nghiên cứu hệ phương trình, đồng thời xem xét mối 
quan hệ giữa rủi ro và quy định vốn như được nghiên 
cứu trong bài báo của Shrieves và Dahl (1992). 
Tài liệu tham khảo: 
1. Al-Tamimi, Khaled., Obeidat, Samer., (2013), 
Determinants of Capital Adequacy in Commercial 
Banks of Jordan an Empirical Study, International 
Journal of Academic Researchin Economics and 
Management Sciences, Vol. 2, No.4. 
2. Dowd, K., (1999), Does Asymmetric 
Information Justify Bank Capital Adequacy 
Regulation, Cato Journal, Vol. 19, pp. 39 - 47. 
3. Koehn, M., Santomero, M. A., (1980), 
Regulation of Bank Capital and Portfolio Risk, The 
Journal of Finance, pp. 1235 - 1243. 
4. Mpuga, P., (2002), The 1998 - 99 banking cri-
sis in Uganda: What was the role of the New Capital 
Requirements?, Journal of Financial Regulation and 
Compliance, Vol. 10, pp. 224 - 242. 
5. Rime, B., (2001), Capital requirements and 
bank behavior: Empirical evidence for Switzerland, 
Journal of Banking and Finance, Vol. 26, pp. 1 - 23 
6. Shrieves, R., Dahl, D., (1992), The relationship 
between risk and capital in commercial banks, Journal 
of Banking and Finance, Vol. 16, pp. 439 - 457 
Summary 
Since the crisis 2008, Supervisory has become 
one of the most centric activities that the whole 
world is focusing on. SBV is required to tighten 
financial policies in banks, especial CAR. This 
paper aims to reveals that the combination of capital 
risk, owner’s equityrisky assets ratio, return on equi-
ty, and return on assets have influenced on CAR. 
Sè 140/202072
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfhe_so_car_va_rui_ro_cua_ngan_hang_nghien_cuu_thuc_nghiem_tai.pdf