Hoạt động bao thanh toán tại các công ty tài chính: Cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển

TÓM TẮT

Bài viết nghiên cứu khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán tại các công ty tài

chính, bên cạnh đánh giá những kết quả đạt được, nghiên cứu nêu ra những hạn chế cần

khắc phục, bao gồm: (i) thiếu tính đồng bộ trong quy định pháp luật về chuyển nhượng

các khoản phải thu; (ii) chưa xác định đầy đủ bản chất của hoạt động bao thanh toán; (iii)

việc xác định các khoản phải thu hiện tại và khoản phải thu trong tương lai chưa cụ thể;

(iv) chưa ban hành quy định giao dịch chuyển nhượng các khoản phải thu phải đăng ký

qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền và (v) còn thiếu nhiều thông tin về hoạt động bao

thanh toán trong hệ thống thông tin tín dụng. Bài viết sử dụng chủ yếu phương pháp mô

tả, so sánh, đối chiếu và suy đoán để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn và đề xuất một số giải

pháp bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý, góp phần thúc đẩy hoạt động bao thanh toán của

các công ty tài chính trong tương lai.

pdf 9 trang yennguyen 9840
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động bao thanh toán tại các công ty tài chính: Cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động bao thanh toán tại các công ty tài chính: Cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển

Hoạt động bao thanh toán tại các công ty tài chính: Cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 5 NUMBER 3 
45 
HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN 
TẠI CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH: 
CẦN HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ ĐỂ PHÁT TRIỂN 
Trương Văn Khánh1, Vũ Thanh Long2 
1, 2 Trường Đại học Văn Hiến 
2 LongVT@vhu.edu.vn 
Ngày nhận bài: 03/01/2017; Ngày duyệt đăng: 20/06/2017 
TÓM TẮT 
Bài viết nghiên cứu khung pháp lý cho hoạt động bao thanh toán tại các công ty tài 
chính, bên cạnh đánh giá những kết quả đạt được, nghiên cứu nêu ra những hạn chế cần 
khắc phục, bao gồm: (i) thiếu tính đồng bộ trong quy định pháp luật về chuyển nhượng 
các khoản phải thu; (ii) chưa xác định đầy đủ bản chất của hoạt động bao thanh toán; (iii) 
việc xác định các khoản phải thu hiện tại và khoản phải thu trong tương lai chưa cụ thể; 
(iv) chưa ban hành quy định giao dịch chuyển nhượng các khoản phải thu phải đăng ký 
qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền và (v) còn thiếu nhiều thông tin về hoạt động bao 
thanh toán trong hệ thống thông tin tín dụng. Bài viết sử dụng chủ yếu phương pháp mô 
tả, so sánh, đối chiếu và suy đoán để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn và đề xuất một số giải 
pháp bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý, góp phần thúc đẩy hoạt động bao thanh toán của 
các công ty tài chính trong tương lai. 
Từ khóa: bao thanh toán, công ty tài chính, khoản phải thu. 
ABSTRACT 
Factoring service in financial companies – 
regulatory framework to be improved for development 
This article studies the regulatory framework for the factoring service in financial 
companies. Apart from reviewing the findings, the study addresses limitations that require 
corrective actions, including: (i) inconsistency in the regulatory instruments pertaining to 
transfer of receivables; (ii) failure to comprehensively identify the nature of the factoring 
service; (iii) unspecified identification of current and future receivables; (iv) failure to 
issue the rule that registration of receivables transfer at the competent authority is 
mandatory; and (v) lack of information on factoring in the financing information system. 
The article mainly adopts the methods of description, comparison and projection to study 
and review the practices and propose some solutions regarding additions to and 
improvements in the regulatory framework, making contributions to the promotion of the 
factoring service of financial companies in the future. 
Key words: factoring, financial companies, receivables. 
1. Đặt vấn đề 
Bao thanh toán (BTT), một trong 
những hình thức cấp tín dụng góp phần 
thúc đẩy giao thương quốc tế và thương 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 5 SỐ 3 
46 
mại trong nước tại nhiều quốc gia trên thế 
giới. Tại Việt Nam, qua gần 10 năm, các tổ 
chức tín dụng (TCTD) triển khai hoạt động 
BTT vẫn còn ở quy mô nhỏ, BTT chủ yếu 
được một số ngân hàng thương mại 
(NHTM) thực hiện và hầu hết các công ty 
tài chính chưa triển khai được hoạt động 
này. Nguyên do, ngoài những tác động từ 
môi trường kinh tế vĩ mô, nhiều TCTD hạn 
chế năng lực kinh doanh,...hoạt động BTT 
còn thiếu các điều kiện cần thiết về khung 
pháp lý, chưa tạo điều kiện cho các TCTD 
phát triển hoạt động BTT trong những 
năm qua. 
Gần đây, Chính phủ ban hành Nghị 
định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 
về hoạt động của công ty tài chính và công 
ty cho thuê tài chính; trong đó, quy định 
công ty tài chính tổng hợp và công ty tài 
chính BTT được thực hiện hoạt động BTT. 
Đồng thời, quy định công ty tài chính BTT 
phải đạt dư nợ BTT tối thiểu chiếm 70% 
tổng dư nợ cấp tín dụng, là một trong 
những định hướng quan trọng thúc đẩy lĩnh 
vực chính yếu của công ty tài chính BTT. 
Tuy vậy, khung pháp lý cho hoạt động BTT 
đến nay vẫn chưa được đồng bộ và hình 
thành đầy đủ để tạo thuận lợi cho cho các 
TCTD mở rộng hoạt động BTT. Bài viết 
tập trung vào nghiên cứu những quy định 
pháp luật liên quan đến hoạt động BTT và 
đề xuất những giải pháp hoàn thiện khung 
pháp lý, là một nhân tố quan trọng góp phần 
thúc đẩy hoạt động BTT, cung cấp nhiều 
tiện ích cho các doanh nghiệp trong quá 
trình tiếp cận nguồn vốn tín dụng của 
CTTC nói riêng và TCTD nói chung. 
2. Cơ sở lý luận về hoạt động bao 
thanh toán tại các công ty tài chính 
Hoạt động BTT được Hiệp hội bao 
thanh toán quốc tế định nghĩa là một gói 
tài chính hoàn chỉnh kết hợp tài trợ vốn lưu 
động, bảo vệ rủi ro tín dụng, quản lý các 
khoản phải thu (KPT) và thu hồi công nợ 
(Factors Chain International-FCI, 2014). 
Quy định chung về hoạt động BTT 
quốc tế theo ấn bản tháng 06/2013 của FCI 
(General Rules for International Factoring 
Verion FCI June 2013), BTT là hoạt động 
thực hiện theo hợp đồng, theo đó nhà cung 
cấp sẽ chuyển nhượng các KPT (hay một 
phần của các KPT) cho một đơn vị BTT, 
để thực hiện ít nhất một trong các chức 
năng theo dõi công nợ (sổ sách kế toán) 
liên quan đến các khoản phải thu, thu tiền 
các khoản nợ phải thu, phòng ngừa rủi ro 
nợ xấu. 
Như vậy, BTT là hoạt động tài trợ vốn 
lưu động (là hoạt động cấp tín dụng), là 
một gói tài chính hoàn chỉnh, bao gồm sự 
kết hợp tài trợ vốn lưu động, bảo vệ rủi ro 
tín dụng, quản lý các KPT và thu hồi công 
nợ. Qua đó, BTT đem lại nhiều lợi ích cho 
doanh nghiệp trong việc quản lý, thu hồi 
công nợ, giúp các TCTD giảm áp lực về 
hạn mức tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín 
dụng. 
Về cơ chế hoạt động BTT được tóm 
tắt như sau: 
(i) Khách hàng ký kết hợp đồng mua 
bán hàng hóa, dịch vụ và cung cấp hợp 
đồng này cho đơn vị BTT thẩm định để 
quyết định ký kết hợp đồng BTT 
(ii) Khách hàng cung cấp các tài liệu 
bán hàng (Hợp đồng thương mại, chứng 
từ, hóa đơn) để đơn vị BTT thực hiện 
thanh toán cho khách hàng và theo dõi các 
KPT. 
(iii) Đơn vị BTT gửi báo cáo hàng 
tháng cho khách hàng và thông báo thu hồi 
nợ khi đến hạn. 
(iv) Đơn vị BTT thu hồi nợ vào ngày 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 5 NUMBER 3 
47 
đến hạn thanh toán của hoá đơn. 
Đơn vị BTT (Factor), đây là một tổ 
chức tài chính cung cấp dịch vụ liên quan 
đến quản lý tài chính và các khoản nợ phát 
sinh từ doanh thu tín dụng thương mai. Tổ 
chức tài chính này hoạt động như một 
trung gian tài chính giữa người mua và 
người bán (Rai University, 2012). 
Theo Nghị định số 39/2014/NĐ-CP 
ngày 07/05/2014, công ty tài chính tổng 
hợp và công ty tài chính BTT là các công 
ty tài chính hoạt động trong lĩnh vực BTT. 
Qua các khái niệm, cho thấy các công ty 
tài chính này là các đơn vị BTT. Trong đó, 
công ty tài chính BTT là đơn vị hoạt động 
chính yếu trong lĩnh vực BTT. 
Đơn vị BTT đóng vai trò quan trọng 
trong quá trình hoạt động BTT. Theo Công 
ước UNIDROIT về BTT quốc tế quy định 
BTT là một hoạt động được tiến hành trên 
cơ sở hợp đồng BTT giao kết giữa người 
cung cấp hàng hóa, dịch vụ và đơn vị bao 
thanh toán. Tại Khoản 2, Điều 1 nêu rõ, 
người cung cấp chuyển giao hay sẽ chuyển 
giao cho đơn vị BTT các KPT phát sinh từ 
hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa 
người cung cấp và khách hàng của họ. 
Theo đó, đơn vị BTT phải thực hiện ít nhất 
hai trong số các chức năng: 
Một là, tài trợ cho người cung cấp, 
bao gồm cho vay và ứng tiền trước. Đơn vị 
BTT ứng trước một phần tiền cho khách 
hàng và số nợ được thanh toán theo kỳ hạn 
của các KPT, giúp cải thiện dòng tiền mặt 
của khách hàng. 
Hai là, theo dõi công nợ (sổ sách kế 
toán) liên quan đến các KPT. Đơn vị BTT 
thu thập các KPT của khách hàng, quản lý 
sổ sách kế toán và lịch trình thu nợ, giúp 
giảm thời gian cho khách hàng để tập trung 
vào phát triển kinh doanh. 
Ba là, thu tiền từ các khoản nợ phải 
thu. Qua việc quản lý sổ kế toán bán hàng, 
bao gồm cả lưu giữ hồ sơ tín dụng, lịch 
trình thu nợ, đơn vị BTT thu hồi các KPT 
khi đến hạn. 
Bốn là, bảo vệ người bán trước trường 
hợp người mua không thanh toán. Đơn vị 
BTT chịu những tổn thất trong trường hợp 
vỡ nợ của con nợ và chịu rủi ro tín dụng 
nhất là trong trường hợp BTT không truy 
đòi. 
Mặt khác, đơn vị BTT tư vấn cho 
khách hàng về kinh doanh, về xác định và 
lựa chọn các chủ nợ thương mại tiềm năng, 
dựa trên thông tin tín dụng; tư vấn về các 
xu hướng kinh doanh hiện tại, những tác 
động sắp xảy ra trong lĩnh vực thương mại 
và công nghiệp,... để giúp khách hàng 
phòng ngừa và ứng phó với rủi ro trong 
kinh doanh. 
3. Khung pháp lý cho hoạt động 
BTT tại các CTTC 
Khung pháp lý cho hoạt động BTT tại 
Việt Nam đã được hình thành theo Luật 
các TCTD số 47/2010/QH12 được Quốc 
hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 
16/06/2010 và Quy chế hoạt động BTT của 
các TCTD được Ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam (NHNN) ban hành theo Quyết định 
số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 
06/09/2004. Theo đó, Luật các TCTD quy 
định hoạt động BTT là hình thức cấp tín 
dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng 
thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền 
truy đòi các KPT hoặc các khoản phải trả 
phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung 
ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng 
hoá, cung ứng dịch vụ (Điều 4); Quy chế 
hoạt động BTT quy định diều kiện để được 
hoạt động BTT, trình tự và thủ tục chấp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 5 SỐ 3 
48 
thuận hoạt động BTT, loại hình BTT, 
phương thức BTT, quy trình hoạt động bao 
thanh toán, quyền và nghĩa vụ các bện 
tham gia hoạt động BTT,... Khung pháp lý 
cho hoạt động BTT đã có những điều 
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện dần, có những 
ưu điểm, tạo điều kiện cho phát triển hoạt 
động BTT. Tuy vậy, khung pháp lý cho 
hoạt BTT vẫn còn những nhược điểm cần 
khắc phục. Đồng thời, với những cơ hội 
giúp cho việc hoàn thiện khung pháp lý 
cho hoạt động BTT, song cũng không ít 
những gây khó khăn thách thức làm cản 
trở quá trình này. 
3.1. Về ưu điểm 
Thứ nhất, khung pháp lý tạo điều kiện 
mở rộng phạm vi và đối tượng khách hàng: 
Quy chế hoạt động BTT được sửa đổi, bổ 
sung, tạo điều kiện cho hoạt động BTT 
được mở rộng hơn, ngoài việc thực hiện 
BTT cho bên bán hàng thông qua việc mua 
lại các KPT phát sinh từ việc mua bán 
hàng hoá, còn thực hiện BTT cho bên bán 
hàng thông qua việc mua lại các KPT phát 
sinh từ cung ứng dịch vụ. (Bảng 1). 
Thứ hai, khung pháp lý thúc đẩy đa 
dạng hóa hoạt động BTT: Quy chế hoạt 
động BTT, quy định hoạt động BTT khá 
đa dạng các loại hình và phương thức 
BTT, tạo điều kiện cho các đơn vị BTT đa 
dạng hóa hoạt động BTT. Trong đó, bao 
gồm các loại BTT trong nước, BTT xuất-
nhập khẩu, BTT có quyền truy đòi, BTT 
không có quyền truy đòi và các phương 
thức BTT từng lần, BTT theo hạn mức, 
đồng BTT. Bên cạnh, Luật các TCTD, tạo 
khung pháp lý cho hoạt động BTT mở 
rộng hơn về đối tượng khách hàng đến bên 
mua và thực hiện BTT đến các khoàn phải 
trả. Do vậy, ngoài hoạt động BTT 
(factoring) được thực hiện như trước, từ 
đầu năm 2011 BTT ngược (reverse 
factoring, thực hiện BTT cho bên mua), 
quy định pháp luật cho phép thực hiện tại 
các TCTD (Bảng 1). 
Bảng 1: Tiến trình hoàn thiện khung pháp lý hoạt động BTT 
(từ tháng 10/2004 đến tháng 10/2014) 
Thời gian Tồ chức BTT 
Đối tượng 
khách hàng 
Phạm vi 
bao thanh toán 
10/2004-
11/2008 
- NHTM; 
- Ngân hàng liên doanh; 
- Ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài; 
- Chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài; 
- Công ty tài chính. 
Bên bán hàng hóa 
KPT bán hàng hoá 
11/2008-
12/2010 
- NHTM; 
- Ngân hàng liên doanh; 
- Ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài; 
Bên bán hàng 
hóa, cung ứng 
dịch vụ. 
KPT bán hàng hoá, 
cung ứng dịch vụ. 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 5 NUMBER 3 
49 
Thời gian Tồ chức BTT 
Đối tượng 
khách hàng 
Phạm vi 
bao thanh toán 
- Chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài; 
- Công ty tài chính; 
- Công ty cho thuê tài chính 
(đối với khách hàng là bên thuê) 
01/2011-
06/2014 
- NHTM; 
- Ngân hàng liên doanh; 
- Ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài; 
- Chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài; 
- Công ty tài chính; 
- Công ty cho thuê tài chính 
(khi được NHNN chấp thuận) 
-Bên bán hàng 
hóa, cung ứng 
dịch vụ; 
-Bên mua hàng 
hóa, dịch vụ. 
-KPT bán hàng 
hoá, cung ứng dịch 
vụ; 
-Khoản phải trà 
mua hàng hoá, dịch 
vụ. 
06/2014 
Đến nay 
- NHTM; 
- Ngân hàng liên doanh; 
- Ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài; 
- Chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài; 
- Công ty tài chính; 
- Công ty tài chính BTT; 
- Công ty cho thuê tài chính 
(khi được NHNN chấp thuận) 
-Bên bán hàng 
hóa, cung ứng 
dịch vụ (Bên 
bán); 
-Bên mua hàng 
hóa, dịch vụ (Bên 
mua). 
-KPT bán hàng 
hoá, cung ứng dịch 
vụ; 
-Khoản phải trả 
mua hàng hoá, dịch 
vụ. 
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các quy định pháp luật tại Việt Nam về hoạt động BTT. 
3.2. Về nhược điểm 
Một là, thiếu tính đồng bộ trong quy 
định pháp luật về chuyển nhượng các 
khoản phải thu (KPT): Quy chế hoạt động 
BTT ban hành trên cơ sở Luật các TCTD 
năm 1997 là luật hết hiệu lực thi hành, 
chưa được điều chỉnh, bổ sung cho phù 
hợp với Luật các TCTD năm 2010. Bên 
cạnh, Luật các TCTD năm 2010 quy định 
BTT là hình thức cấp tín dụng, nhưng chưa 
thể hiện đầy đủ hơn về hoạt động BTT là 
một gói tài chính hoàn chỉnh, bao gồm bảo 
vệ rủi ro tín dụng, quản lý các KPT và thu 
hồi công nợ. 
Hai là, việc xác định các KPT hiện tại 
(KPT đã hình thành tại thời điểm giao 
dịch) và KPT trong tương lai (KPT sẽ 
được hình thành tại một thời điểm giao 
dịch hàng hóa trong tương lai theogiá trị và 
thời hạn phải thu hồi được nêu rõ trong 
Hợp đồng thương mại. Dựa vào KPT này, 
các TCTD có thể thực hiện hoạt động BTT 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 5 SỐ 3 
50 
ứng trước cho khách hàng) chưa cụ thể: 
Trong KPT chưa xác định chi tiết KPT 
hiện tại, đặc biệt là chưa xác định KPT 
tương lai để đảm bảo thu hồi nợ BTT ứng 
trước cho khách hàng. 
3.3. Về cơ hội 
Thứ nhất, khung pháp lý liên quan đến 
hoạt động BTT có tác động tích cực đến 
việc sớm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt 
động BTT: Nghị định số 39/2014/NĐ-CP 
ngày 07/05/2014 của Chính phủ về hoạt 
động của CTTC và công ty cho thuê tài 
chính quy định CTTC được thực hiện hoạt 
động BTT khi đáp ứng đầy đủ các điều 
kiện: Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ, năng 
lực chuyên môn, cơ sở vật chất, công nghệ, 
phương tiện, thiết bị và các quy định nội bộ 
theo quy định của pháp luật; đáp ứng đầy 
đủ các điều kiện nghiệp vụ, có quy định nội 
bộ về quy trình, thủ tục, nguyên tắc nhận 
biết khách hàng để giám sát chặt chẽ, bảo 
đảm ngăn ngừa việc bị lạm dụng cho các 
mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội 
phạm khác,... Quy định này nhằm đảm bảo 
kiểm soát chặt chẽ hoạt động BTT và giúp 
cho hoạt động BTT của các CTTC được an 
toàn và hiệu quả. Đồng thời, quy định này 
có tác động thúc đẩy hình thành khung 
pháp lý đầy đù, đồng bộ cho hoạt động 
BTT cho các CTTC nói riêng và các TCTD 
nói chung. 
Hình 1: Doanh số BTT của Việt Nam giai đọan 2004-2013 (triệu EUR) 
0 2
16
43
85
95
65 67
61
100
0
20
40
60
80
100
120
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: Finansal Kurumlar Birliği (2011) và Factors Chain International (2014) 
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý cho 
hoạt động BTT trên nền tảng thực tiễn hoạt 
động BTT: Qua gần mười năm triển khai 
hoạt động BTT tại Việt Nam, từ năm 2004 
khung pháp lý cho phép các TCTD triển 
khai hoạt động BTT, sau một năm doanh 
số chỉ đạt 2 triệu EUR, đến cuối năm 2013 
đã gia tăng đến 100 triệu EUR (Hình 1). 
Đây là cơ sở đánh giá, đúc kết kinh 
nghiệm thực tiễn việc triển khai hoạt động 
BTT để hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt 
động BTT đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với 
các quy định pháp luật đang có hiệu lực thi 
hành tại Việt Nam và thông lệ quốc tế về 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 5 NUMBER 3 
51 
hoạt động BTT. 
3.4. Về thách thức 
Việc hoàn thiện khung pháp lý cho 
hoạt động BTT gặp một số thách thức do 
các quy định pháp luật có liên quan đến 
hoạt động BTT chưa đầy đủ. Trong đó, 
bao gồm: 
Một là, Luật thương mai và các quy 
định hướng dẫn về giao dịch đảm bảo chưa 
quy định các giao dịch chuyển nhượng các 
KPT được quy định phải đăng ký qua cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền. Quy chế 
BTT quy định bên mua gửi văn bản cho bên 
bán và đơn vị BTT xác nhận về việc đã nhận 
được thông báo và cam kết về việc thực hiện 
thanh toán cho đơn vị BTT. Trường hợp bên 
mua không có văn bản cam kết thực hiện 
thanh toán cho đơn vị BTT thì việc tiếp tục 
thực hiện BTT giữa bên bán và đơn vị BTT 
sẽ do hai bên quyết định và tự chịu trách 
nhiệm khi có rủi ro phát sinh (Khoản 6, Điều 
1, Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN). Như 
vậy, việc bên mua gửi văn bản xác nhận cho 
bên bán và đơn vị BTT, cũng như không có 
văn bản cam kết thực hiện sẽ tiềm ẩn nhiều 
rủi ro cho đơn vị BTT khi chưa có quy định 
về đăng ký giao dịch đảm bảo cho các KPT, 
khoản phải trả, để có cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền xác nhận đăng ký về giao dịch 
BTT. 
Hai là, còn thiếu nhiều thông tin về 
hoạt động BTT trong hệ thống thông tin tín 
dụng: Các quy định về cung cấp thông tin 
và nguồn thông tin từ hệ thống thông tin 
tín dung chưa thể hiện chi tiết về BTT cho 
từng các KPT của mỗi doanh nghiệp. 
4. Giải pháp hoàn thiện khung pháp 
lý cho hoạt động BTT tại các CTTC 
Thứ nhất, ban hành quy định mới 
hướng dẫn về hoạt động BTT: Trên cơ sở 
phát huy ưu điểm và tận dụng cơ hội cho 
hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động 
BTT, tiến hành đánh giá, đúc kết kinh 
nghiệm thực tiễn việc triển khai hoạt động 
BTT để ban hành quy định mới hướng dẫn 
về hoạt động BTT. Theo đó, duy trì quy 
định về phạm vi và đối tượng khách hàng, 
duy trì các loại hình, phương thức BTT đa 
dạng hiện có và mở rộng thêm BTT có 
quyền truy đòi. Kế thừa các quy định về 
hoạt động BTT tại Nghị định số 
39/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014, bao 
gồm: Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ, năng 
lực chuyên môn, cơ sở vật chất, công nghệ, 
phương tiện, thiết bị và các quy định nội 
bộ theo quy định của pháp luật; đáp ứng 
đầy đủ các điều kiện nghiệp vụ, có quy 
định nội bộ về quy trình, thủ tục, nguyên 
tắc nhận biết khách hàng để giám sát chặt 
chẽ hoạt động BTT,... 
Đồng thời, phát huy ưu điểm và khắc 
phục nhược điểm trong hoàn thiện khung 
pháp lý về hoạt động BTT, quy định mới 
cần thể hiện được tính đặc thù, lợi thế của 
hoạt động BTT, giúp các đơn vị BTT xây 
dựng được quy trình hoạt động BTT theo 
đúng thực chất là một gói tài chính hoàn 
chỉnh và bảo vệ rủi ro tín dụng. Bên cạnh 
quy định chi tiết các KPT hiện tại, pháp 
luật cần quy định cụ thể đối với các KPT 
trong tương lai sẽ được hình thành khi 
người bán chuyển giao hàng hoá, dịch vụ 
cho người mua theo hợp đồng đã giao kết. 
Theo đó, các đơn vị BTT ứng trước tiền 
cho người bán kịp thời đáp ứng cho nhu 
cầu hoạt động kinh doanh và phát triển 
hoạt động BTT trên cơ sở pháp lý được 
quy định chặt chẽ. 
Thứ hai, hoàn thiện đầy đủ và đồng 
bộ các quy định pháp luật có liên quan 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 5 SỐ 3 
52 
đến hoạt động BTT: Phát huy ưu điểm và 
hạn chế những thách thức trong hoàn thiện 
khung pháp lý về hoạt động BTT, bên cạnh 
ban hành quy định mới hướng dẫn về hoạt 
động BTT, cần bổ sung quy định của Luật 
thương mai và các quy định hướng dẫn về 
giao dịch đảm bảo đối với các giao dịch 
chuyển nhượng các KPT phải đăng ký qua 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Việc 
đăng ký giao dịch chuyển nhượng các KPT 
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền được 
xem là đăng ký giao dịch đảm bảo, giúp 
khắc phục tình trạng BTT phải dùng các 
hình thức bảo đảm bao gồm: ký quỹ, cầm 
cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản 
của bên thứ ba để thực hiện BTT cho 
khách hàng. Đồng thời, tránh tình trạng 
người bán chuyển nhượng các KPT cho 
nhiều đơn vị BTT hay thế chấp, cầm cố tại 
nhiều TCTD, hoặc tình trạng gian lận 
trong việc xác lập khống các KPT để tham 
gia hoạt động BTT. Mặt khác, bổ sung 
thêm thông tin về hoạt động BTT trong hệ 
thống thông tin tín dụng. Quy định việc 
cung cấp và cập nhật thông tin hoạt động 
BTT tại các đơn vị BTT chi tiết đối với 
từng khách hàng và từng KPT, khoản phải 
trả. Các thông tin liên quan đến hoạt động 
BTT được tạo lập và cập nhật thường 
xuyên nhằm kiểm soát, đánh giá chất 
lượng tín dụng của KH, kiểm soát rủi ro, 
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động 
BTT và đảm bảo an toàn trong hoạt động 
cho các đơn vị BTT. 
Thứ ba, quy định chi tiết hơn về một 
số điều kiện hoạt động của CTTC: Trên cơ 
sở tận dụng cơ hội, khắc phục nhược điểm 
trong việc hoàn thiện hoạt động BTT, một 
số điều kiện quan trọng cần quy định chi 
tiết đối với hoạt động BTT của CTTC, bao 
gồm: Ngoài quy định phải có tình hình tài 
chính tốt, cần quy định việc đầu tư hệ 
thống công nghệ ngân hàng phù hợp để 
quản lý cơ sở dữ liệu và thông tin hoạt 
động BTT đầy đủ. Quy định đối với ban 
lãnh đạo phải có kiến thức và hiểu biết về 
kinh doanh và rủi ro liên quan đến hoạt 
động BTT; nhân viên phải có đủ kiến thức, 
chuyên môn và hiểu biết trong giao dịch 
BTT; nhân viên có kiến thức và kỹ năng về 
phân tích tín dụng, quản lý rủi ro, thu thập 
dữ liệu và xử lý thông tin; bên cạnh phải có 
hệ thống kiểm soát nội bộ tốt để đánh giá 
chất lượng tín dụng của KH và nợ phải thu. 
5. Kết luận 
Hoạt động BTT là một gói tài chính 
hoàn chỉnh kết hợp tài trợ vốn lưu động, 
bảo vệ rủi ro tín dụng, quản lý các KPT và 
thu hồi công nợ. Theo đó, công ty tài chính 
BTT phải thực hiện ít nhất hai trong số các 
chức năng về tài trợ cho người cung cấp, 
bao gồm cho vay và ứng tiền trước; theo 
dõi sổ sách liên quan đến các KPT; thu tiền 
từ các KPT; bảo vệ người bán trước trường 
hợp người mua không thanh toán; bên 
cạnh việc tư vấn cho khách hàng, giúp 
khách hàng phòng ngừa và ứng phó với rủi 
ro trong kinh doanh. Khung pháp lý tại 
Việt Nam được hoàn thiện dần theo hướng 
mở rộng đối tượng khách hàng, phạm vi 
BTT, đa dạng các đơn vị BTT và đến nay 
quy định trong các đơn vị BTT có sự góp 
mặt của công ty chuyên ngành là công ty 
tài chính BTT. Đồng thời, tác động tích 
cực đến thành lập các đơn vị BTT, thúc 
đẩy phát triển hoạt động BTT trong nước 
và BTT quốc tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho 
giao giao dịch thương mai trong nước và 
giao thương quốc tế. Tuy vậy, khung pháp 
lý vẫn còn một số hạn chế. Việc ban hành 
quy định mới về hoạt động BTT, xác định 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 5 NUMBER 3 
53 
cụ thể về các KPT hiện tại và KPT trong 
tương lai, quy định các giao dịch chuyển 
nhượng các KPT được quy định phải đăng 
ký qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, 
bổ sung thêm thông tin về hoạt động BTT 
trong hệ thống thông tin tín dụng và quy 
định chi tiết hơn về một số điều kiện hoạt 
động của công ty tài chính BTT là những 
giáp pháp góp phần hoàn thiện khung pháp 
lý cho hoạt động hiện nay của các đơn vị 
BTT và hoạt động của công ty tài chính 
BTT trong tương lai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Chính phủ (2014), Nghị định số 39/2014/NĐ-CP ngày 07/05/2014 về hoạt động của 
công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính. 
[2]. Factors chain international (2014), Factoring turnover by country in 2013, 
[3]. Factors chain international (2014), Total Factoring Volume by Country in the last 7 
years, 
years 
[4]. Factors chain international (2014), About factoring, Factors chain international, 
[5]. Finansal Kurumlar Birliği (2011), Turkish factoring industry,  
tr/Sites/1/upload/files/Turkish_Factoring_Industry_2011-137.pdf 
[6]. Institut international pour l'unification du droit privé (1988), Unidroit convention on 
international factoring,  
[7]. Ngân hàng Nhà nước (2004), Quy chế hoạt động BTT của các TCTD ban hành theo 
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004. 
[8]. Ngân hàng Nhà nước (2008), Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 
sửa đổi, bổ sung một số điều Quy chế hoạt động BTT của các TCTD ban hành theo 
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004. 
[9]. Rai University (2012), Management of Financial Services. Established by Jharkhand 
state legislature by Jharkhand Act No 03 of 2012 as per Section 2f of UGC Act, p 143. 

File đính kèm:

  • pdfhoat_dong_bao_thanh_toan_tai_cac_cong_ty_tai_chinh_can_hoan.pdf