Hoạt động huy động vốn - Kinh nghiệm tại một số ngân hàng thương mại ở thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Trong tình hình kinh tế thế giới và kinh tế trong nước có những biến động lớn, làm ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Việc huy
động chưa thực sự đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn. Vì thế, trong tình trạng khó khăn đó, NHTM cần
thiết nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn (HĐV), điều này sẽ giúp NHTM chủ động trong
nguồn vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Trong bài viết này, chúng tôi nghiên cứu tình
hình hoạt động HĐV ở một số NHTM tại thành phố Hồ Chí Minh và xem đây là những bài học kinh
nghiệm HĐV cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới.
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động huy động vốn - Kinh nghiệm tại một số ngân hàng thương mại ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoạt động huy động vốn - Kinh nghiệm tại một số ngân hàng thương mại ở thành phố Hồ Chí Minh
14 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN - KINH NGHIỆM TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Văn Biên* TÓM TẮT Trong tình hình kinh tế thế giới và kinh tế trong nước có những biến động lớn, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Việc huy động chưa thực sự đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn. Vì thế, trong tình trạng khó khăn đó, NHTM cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn (HĐV), điều này sẽ giúp NHTM chủ động trong nguồn vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Trong bài viết này, chúng tôi nghiên cứu tình hình hoạt động HĐV ở một số NHTM tại thành phố Hồ Chí Minh và xem đây là những bài học kinh nghiệm HĐV cho các ngân hàng thương mại trong thời gian tới. Từ Khóa: kinh nghiệm, huy động vốn, ngân hàng thương mại, thành phố Hồ Chí Minh MOBILIZING CAPITAL - THE EXPERIENCE OF SOME COMMERCIAL BANKS IN HO CHI MINH CITY ABSTRACT In the world and domestic economic environment, there have been large fluctuations affecting business activities of commercial banking system (banks) in Vietnam. The mobilization has not really met the needs of capital. In such a difficult situation, banks need to improve its operational efficiency in mobilizing capital (MC). This will help banks to be proactive in mobilizing capital and improving its operational efficiency. In this article, we study the operations of some banks in Ho Chi Minh City and consider these as lessons of mobilizing capital for commercial banks in coming years. Keywords: experience, mobilize capital, commercial banking, Ho Chi Minh City * ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 15 Hoạt động huy động vốn . . . 1. Tổng quan về ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các loại hình doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể, xã hội và cá nhân, bằng việc huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi hoạt kỳ, tiền gửi định kỳ, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng là khách hàng trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là một loại hình định chế tài chính trung gian hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là loại định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường, góp phần tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. 2. Chức năng của ngân hàng thương mại Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng phát triển, các ngân hàng thương mại thực hiện ba chức năng sau đây: 2.1. Trung gian tín dụng: Trung gian tín dụng là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại, nó không những cho thấy bản chất của ngân hàng thương mại mà còn cho thấy nhiệm vụ chính yếu của ngân hàng thương mại. Trong chức năng này, ngân hàng thương mại đóng vai trò là người trung gian đứng ra tập trung, huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế ( bao gồm tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, vốn bằng tiền của các đơn vị, tổ chức kinh tế,v.v) biến nó trở thành nguồn vốn tín dụng để cho vay (cấp tín dụng) đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội. Hình 1.1. Minh họa chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng thương mại “Trung gian tín dụng” là chức năng cơ bản được hiểu theo hai khía cạnh sau đây: Ngân hàng thương mại chỉ là người trung gian để chuyển vốn tiền tệ từ nơi thừa (bằng nghiệp vụ nguồn vốn) sang nơi thiếu (bằng nghiệp vụ tín dụng). Các chủ thể tham gia gồm những người gửi tiền vào ngân hàng thương mại và những người vay tiền từ ngân hàng không có mối liên hệ kinh tế trực tiếp nào. Họ không chịu trách nhiệm và nghĩa vụ gì cho nhau cả. Tất cả đều thông qua ngân hàng thương mại, nghĩa là ngân hàng thương mại có trách nhiệm hoàn trả tiền cho người gửi (bất kể người đi vay sử dụng vốn có hiệu quả hay không). Còn người đi vay thì phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. 16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Ngân hàng không phải là người trung gian tài chính thuần túy, mà là trung gian tín dụng, nghĩa là việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của chức năng này phải theo nguyên tắc “Hoàn trả” vô điều kiện. Cần phân biệt hai khái niệm: Tài chính (Finance) và Tín dụng (Credit). Tài chính là một khái niệm rộng hơn, ở góc độ kinh tế - tiền tệ, tài chính được xem như sự tài trợ, sự cung cấp vốn, sự cấp phát, sự cung cấp tiền theo tính chất không bồi hoàn tức là không có sự hoàn trả, đối tượng nhận được sự trợ giúp về tài chính không có nghĩa vụ phải hoàn trả mà chỉ có nghĩa vụ sử dụng tài chính đúng mục đích, đúng yêu cầu và có kết quả cụ thể xác định (chẳng hạn, ngân sách cấp phát tài chính cho các đơn vị hành chính sự nghiệp để chi tiêu; cấp vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, cấp phát tài chính cho quân đội, công ancấp học bổng cho người học) Trong khi tài chính được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu rất cơ bản mà không đòi hỏi phải bồi hoàn trực tiếp thì tín dụng lại khác hẳn. Tín dụng (Credit), theo nghĩa rộng, là sự tín nhiệm, sự tin cậy, lòng tinTrong phạm vi kinh tế - tiền tệ, tín dụng được hiểu là số tiền cho vay, cho mượn. Tín dụng là quan hệ vay mượn theo nguyên tắc Hoàn trả. Người sử dụng tiền trong quan hệ tín dụng có nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp và có thời hạn. Hoàn trả trực tiếp chính là đặc trưng và là nguyên tắc cơ bản để phân biệt sự khác nhau giữa tín dụng và tài chính. Ngân hàng thương mại chỉ thực hiện chức năng trung gian tín dụng, nghĩa là thực hiện việc huy động tập trung vốn theo nguyên tắc hoàn trả, chứ không phải là chức năng trung gian tài chính. Tuy nhiên, trong hoạt động của mình, ngân hàng thương mại có làm một số công việc mang tính chất trung gian tài chính, ví dụ như tiếp nhận vốn của tổ chức tài trợ (chính phủ, các tổ chức tài chínhđể chuyển giao cho đối tượng sử dụng theo mục đích đã xác định) nhưng những hoạt động đó chỉ phát sinh theo từng dự án, chứ không phát sinh thường xuyên, và chỉ những ngân hàng thương mại lớn, có uy tín mới được giao thực hiện nhiệm vụ đó mà thôi. Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, các ngân hàng thương mại thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây: y Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của các đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân bằng đồng tiền trong nước và bằng ngoại tệ. y Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân. y Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng để huy động vốn trong xã hội. y Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các đơn vị và cá nhân. y Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá đối với các đơn vị, cá nhân. y Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các loại hình tín dụng khác đối với tổ chức và cá nhân. y Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các loại hình tín dụng khác đối với tổ chức và cá nhân. Chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng thương mại có vai trò và tác dụng rất to lớn đối với nền kinh tế xã hội. Trước hết, nhờ thực hiện chức năng này mà hệ thống ngân hàng thương mại huy động và tập trung hầu hết các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội, biến tiền nhàn rỗi từ chỗ là phương tiện tích lũy trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế. Kế đến, nhờ thực hiện chức năng này, mà hệ thống ngân hàng thương mại cung ứng một khối lượng vốn tín dụng rất lớn 17 Hoạt động huy động vốn . . . cho nền kinh tế. Đây là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó không những lớn về số tiền tuyệt đối mà vì tính chất “luân chuyển” không ngừng của nó. Khảo sát tình hình “tín dụng” ở một số nước, Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF cho biết, nước nào có tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP càng cao, thì không những nó cho thấy sự hoạt động có hiệu quả với hiệu suất cao của hệ thống ngân hàng thương mại, mà còn nhờ đó làm cho kinh tế tăng trưởng cao và ổn định. Tỷ lệ tín dụng/GDP của các nước công nghiệp phát triển phần lớn đều đạt trên 100%; ở Châu Á, những nước như Thái Lan, Trung Quốc, Singapore đều có tỷ lệ nói trên cao từ khoảng 120% - 135%. Ở Việt nam, tỷ lệ này chỉ mới đạt khoảng 65%. Nhờ nguồn vốn tín dụng lớn và luân chuyển liên tục, thông qua việc thực hiện chức năng nói trên sẽ làm cho nền kinh tế phát triển được cung ứng vốn và ngày càng đầy đủ để phát triển. 2.2. Trung gian thanh toán và cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế: Đây là chức năng quan trọng, không những thể hiện khá rõ bản chất của ngân hàng thương mại mà còn cho thấy tính chất “đặc biệt” trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Khi trong nền kinh tế chưa có hoạt động ngân hàng, hoặc mới có những hoạt động sơ khai (nhận bảo quản tiền đúc) thì các khoản giao dịch thanh toán giữa những người sản xuất kinh doanh và các đối tượng khác đều được thực hiện một cách trực tiếp, người trả tiền và người thụ hưởng tự kiểm soát các giao dịch thanh toán, đồng thời sử dụng tiền mặt để chi trả trực tiếp. Nhưng khi ngân hàng thương mại ra đời và hoạt động trong nền kinh tế, thì dần dần các khoản giao dịch thanh toán giữa các đơn vị và cá nhân đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian để thực hiện các khoản giao dịch thanh toán giữa các khách hàng, giữa người mua, người bánđể hoàn tất các quan hệ kinh tế thương mại giữa họ với nhau, là nội dung thuộc chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại. Hình 1.2. Minh họa chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại Nhiệm vụ cụ thể của chức năng này gồm: - Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho các tổ chức và cá nhân: Tất cả các đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân nếu có nhu cầu đều có quyền mở tài khoản giao dịch tại bất kỳ một ngân hàng thương mại nào mà mình cảm thấy an toàn và tiện lợi, còn các ngân hàng thương mại có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản giao dịch của khách hàng nếu họ tuân thủ các quy định về việc mở và sử dụng tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại chỉ có thể thực hiện được 18 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật khi các khách hàng tham gia thanh toán đều có tài khoản giao dịch tại ngân hàng, vì vậy nhiệm vụ hàng đầu của các ngân hàng thương mại không những ảnh hưởng đến chức năng này, mà còn ảnh hưởng đến chức năng trung gian tín dụng, chính là việc mở tài khoản giao dịch cho khách hàng. Thủ tục phải chặt chẽ nhưng đơn giản, đảm bảo bí mật, an toàn cho khách hàng. - Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng Thanh toán qua ngân hàng là thanh toán bằng chuyển khoản tức là bằng cách ghi Nợ, ghi Có vào tài khoản liên quan, vì vậy các chứng từ dùng làm căn cứ để hạch toán vào tài khoản phải là những chứng từ do chính ngân hàng cung cấp và kiểm soát, chỉ như vậy mới đảm bảo quá trình thanh toán được tiến hành nhanh chóng, an toàn và chính xác, quyền lợi của khách hàng được đảm bảo. Để thực hiện nhiệm vụ này các ngân hàng thương mại sẽ thiết kế và cung cấp nhiều loại phương tiện thanh toán khác nhau cho từng khách hàng (giấy chuyển tiền, tín dụng thư, séc, thẻ tín dụng). Những phương tiện thanh toán này không những phải đáp ứng yêu cầu quản lý và kiểm soát chặt chẽ, mà còn phải đáp ứng yêu cầu linh hoạt, dễ sử dụng và tiện lợi. Tính chất, đặc điểm và nội dung của các khoản giao dịch thanh toán đòi hỏi phải có nhiều phương tiện thanh toán thích hợp. Vì vậy đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần đa dạng hóa các phương thức thanh toán – ngoài việc sử dụng các phương tiện thanh toán truyền thống như séc, giấy ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng cần từng bước mở rộng các phương tiện thanh toán hiện đại tiên tiến như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán. - Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng: Có thể nói, tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của ngân hàng thương mại, bởi nó phải đáp ứng được các yêu cầu sau: + Phải nhanh chóng và chính xác. + Phải đảm bảo an toàn và tiện lợi. Các khách hàng chỉ thực sự tham gia tích cực vào quá trình thanh toán qua ngân hàng, khi họ cảm nhận những tiện ích và ưu việt của các giao dịch thanh toán do ngân hàng thương mại tổ chức thực hiện. Qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển, hệ thống ngân hàng hiện đại đã có những cố gắng lớn và cống hiến cho xã hội những kết quả lớn lao trong lĩnh vực thanh toán. Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại trở thành người thủ quỹ và là trung tâm thanh toán của xã hội. Sứ mệnh lớn lao đó của ngân hàng đã được thực tế chứng minh với vai trò sau: + Nhờ thực hiện chức năng này, cho phép làm giảm bớt khối lượng tiền mặt lưu hành, tăng khối lượng thanh toán bằng chuyển khoản. Điều này làm giảm bớt nhiều chi phí cho xã hội về in tiền, vận chuyển, bảo quản tiền tệ, tiết kiệm chi phí về giao dịch thanh toán + Cũng chính nhờ thực hiện chức năng này mà hệ thống ngân hàng thương mại góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển Tiền – Hàng. Phần lớn các giao dịch thanh toán qua ngân hàng là những khoản giao dịch có giá trị lớn, phạm vi thanh toán không chỉ bó hẹp trong từng khu vực, địa phương, mà còn lan rộng trong phạm vi cả nước và phát triển ra trên phạm vi thế giới. Nhờ vậy, các mối quan hệ kinh tế - xã hội được thực hiện cả trên bình diện quốc nội lẫn trên bình diện quốc tế. Điều này không những chắc chắn sẽ góp phần thúc 19 Hoạt động huy động vốn . . . đẩy kinh tế - xã hội trong nước phát triển mà cón thúc đẩy các quan hệ kinh tế thương mại và tài chính tín dụng quốc tế phát triển. 2.3. Cung ứng dịch vụ ngân hàng Thực hiện chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, vốn đã mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh tế - xã hội. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, các ngân hàng thương mại cần đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách hàng có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đó chính là việc cung ứng dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng là gi? Nói đến dịch vụ ngân hàng, người ta thường gắn nó với hai đặc điểm sau: + Thứ nhất: Đó là các dịch vụ mà chỉ có các ngân hàng thương mại với những ưu thế của nó mới có thể thực hiện được một cách trọn vẹn và đầy đủ. Ưu thế của ngân hàng thương mại được thể hiện qua các điểm sau: y Có hệ thống mạng lưới chi nhánh rộng khắp, không những ở trong nước mà còn ở các nước. y Có quan hệ với nhiều công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tếdo đó, nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng một cách cụ thể, sâu sắc, biết được những điểm mạnh, điểm yếu của từng khách hàng. y Có trang bị hệ thống thông tin hiện đại, đồng thời thu nhận và nắm bắt được nhiều thông tin về tình hình kinh tế, tài chính, tình hình tiền tệ, giá cả, tỷ giá và diễn biến của nó trên thị trường trong nước và quốc tế. + Thứ hai: Đó là các dịch vụ gắn liền với hoạt ... tiêu đầu tiên được xét đến khi đánh giá hiệu quả huy động vốn, vì thông qua chỉ tiêu này có thể biết được kết quả huy động vốn của năm sau so với năm trước, của thực tế so với kế hoạch. Mục tiêu của các ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, muốn vậy phải mở rộng quy mô huy động vốn, với quy mô vốn được mở rộng sẽ giúp các ngân hàng đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh của mình, giảm thiểu rủi ro, từ đó có thể giảm lãi suất cho vay, tạo cơ sở tốt để ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao vị thế của ngân hàng. Huy động vốn của một ngân hàng được coi là có hiệu quả thì trước tiên quy mô tăng trưởng vốn huy động phải đảm bảo thực hiện được kế hoạch đề ra và tăng trưởng vượt mức. Tuy nhiên đây không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá hiệu quả huy động vốn, vì quy mô huy động vốn tăng trưởng chưa chắc kết quả đạt được có hiệu quả, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chi phí, tính ổn định, sự đa dạng của các sản phẩm huy động vốn, sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn Quy mô tăng trưởng vốn huy động là chỉ tiêu phản ánh quy mô lượng vốn mà ngân hàng huy động được tại từng thời điểm nhất định hoặc tính trung bình trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Nó cũng là cơ sở để mở rộng quy mô cho vay và năng lực thanh toán. Về mặt lượng, chỉ tiêu quy mô tăng trưởng vốn huy động thường được đánh giá thông qua: 26 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Tốc độ tăng trưởng vốn huy động phản ảnh sự tăng trưởng động của vốn huy động. Từ đó, đánh giá xu hướng biến động của vốn huy động theo từng thời kỳ. 4.1.2. Chi phí vốn huy động Chi phí vốn huy động/ Quy mô vốn huy động: Vốn của NHTM được chia làm 2 loại: Vốn chủ sở hữu và nợ. Vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng và đặc biệt là được dùng để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng. Nợ chiếm phần lớn trong nguồn vốn của NHTM, nó là nguồn vốn hoạt động chính đối với mỗi NH. Cho nên hầu hết các khoản nợ của NHTM đều liên quan đến chi phí huy động vốn. Thành phần cơ bản của chi phí HĐV bao gồm chi phí trả lãi ( lãi suất huy động) và chi phí phi trả lãi (chi phí tiền lương cho cán bộ nhân viên, chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh khoản, chi phí cơ sở vật chất, chi phí marketing) mà ngân hàng phải bỏ ra để HĐV. Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí trả lãi dựa trên lãi suất danh nghĩa, lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi tiền của khách hàng, chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện ích kèm theo Tuy nhiên, lãi suất thực tế của nguồn vốn huy động đối với ngân hàng cao hơn bởi vì ngoài chi phí trả lãi, ngân hàng còn bỏ ra nhiều loại chi phí khác nữa, chi phí phi trả lãi. Vì vậy, chỉ tiêu huy động vốn/ tổng nguồn vốn huy động được chia nhỏ ra làm hai chỉ tiêu khác. Đó là: Chi phí trả lãi/ Tổng vốn huy động: Cho thấy để huy động được một đồng vốn thì ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách hàng. Chi phí phi trả lãi/ Tổng vốn huy động: Cho thấy một đồng vốn huy động được ngân hàng bỏ ra chi phí là bao nhiêu trong việc quản lý, cất trữ, bảo quản Chỉ tiêu trên dùng để phản ánh chi phí lãi phải trả cho một đồng vốn huy động của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Chi phí HĐV = Lãi suất HĐV + Chi phí phi lãi Nếu ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất thì việc huy động vốn sẽ gặp nhiều khó khăn vì không thể cạnh tranh với các ngân hàng khác, vì vậy trong dài hạn muốn giảm chi phí huy động vốn ta cần phải tìm cách giảm thiểu chi phí phi lãi. Chênh lệch thu chi lãi/ chi phí trả lãi của ngân hàng: Mối liên hệ nguồn vốn và tài sản là mối liên hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng, tức khả năng đáp ứng kịp các nhu cầu về sử dụng vốn hay khả năng sinh lời từ đồng vốn huy động được thì các ngân hàng thường sử dụng chỉ tiêu chênh lệch thu chi lãi/ chi phí trả lãi của ngân hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như hiệu quả hoạt động huy động vốn. Chỉ tiêu này được tính như sau: 27 Hoạt động huy động vốn . . . Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho thấy ngân hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động của mình trong việc tối thiểu hóa chi phí huy động cho đồng vốn đó. Chỉ tiêu này cao do chênh lệch thu chi lãi trước thu, chi khác cao và chi phí trả lãi nhỏ. Chỉ tiêu chênh lệch thu, chi lãi/ chi phí trả lãi cao cũng có thể do chi phí tăng và thu nhập khác trước thu nhập khác và chi phí khác giảm, tuy nhiên tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ giảm của thu nhập đó. 4.1.3. Sự phù hợp giữa vốn huy động và sử dụng vốn Để thực hiện nhiệm vụ là trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường các NHTM tổ chức các nghiệp vụ chuyên môn của mình với các phần cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn. Huy động vốn và sử dụng vốn là hai vấn đề có liên quan mật thiết với nhau. Ngân hàng không chỉ huy động thật nhiều vốn mà còn phải chọn nơi đầu tư và cho vay có hiệu quả. Nếu ngân hàng chỉ chú trọng tới huy động vốn mà không cho vay hoặc đầu tư thì sẽ bị ứ đọng vốn làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Còn nếu không huy động đủ vốn để cho vay thì sẽ mất cơ hội mở rộng khách hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Việc tăng trưởng nguồn vốn là điều kiện trước nhất để mở rộng đầu tư tín dụng, để chủ động đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sử dụng vốn là hoạt động nối tiếp quyết định hiệu quả của hoạt động huy động vốn, quyết định hiệu quả của hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để đạt được mục tiêu sinh lời và an toàn, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng một danh mục nguồn vốn và tài sản sao cho đảm bảo sự phù hợp tương đối về quy mô, kết cấu thời hạn và lãi suất. Một cơ cấu thời hạn và lãi suất của nguồn vốn được xem là tích cực khi nó thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: - Đảm bảo khả năng thanh toán cần thiết - Sự phù hợp về độ nhạy cảm với lãi suất của nguồn vốn và tài sản. - Sự linh hoạt trong cơ cấu để điều chỉnh theo hướng có lợi cho kết quả kinh doanh bằng việc có thể khai thác cơ hội và tránh các rủi ro có thể có. Nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn có lợi cho kinh doanh, nhưng khi lãi suất thay đổi theo chiều hướng tăng rất dễ dẫn đến rủi ro. 4.1.4. Tính ổn định của vốn huy động Một vấn đề quan trọng nữa cần xét đến khi đánh giá tính hiệu quả của HĐV là tính ổn định của nguồn vốn huy động. Chúng ta thử hình dung xem, nếu một ngân hàng xây dựng kế hoạch sử dụng vốn trên nguồn vốn không ổn định, thường xuyên có lượng tiền rút ra trước hạn thì điều gì sẽ xảy ra, ngân hàng phải đi “vay nóng” để thanh toán cho khách hàng, tốn thêm một khoản chi phí làm cho hoạt động của ngân hàng trở nên kém hiệu quả, điều đó là điều mà mọi ngân hàng đều lo lắng. Vì vậy, muốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả cao và an toàn thì nguồn VHĐ phải ổn định, khi đó ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn số vốn huy động vào hoạt động kinh doanh tạo ra thu nhập cao. Và hoạt động HĐV có hiệu quả thì phải giải quyết được vấn đề đó. Chỉ tiêu này thường được đánh giá qua tỷ lệ nguồn vốn có kỳ hạn trên tổng nguồn VHĐ: 28 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Chỉ tiêu này đánh giá sự ổn định của nguồn vốn huy động về mặt thời gian, tỷ lệ này càng lớn thì nguồn vốn huy động càng ổn định. 4.1.5. Khả năng sử dụng tối đa Huy động vốn và sử dụng vốn là hai quá trình hoạt động của ngân hàng. Công tác cân đối vốn là rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Đó là biện pháp nghiệp vụ, là công cụ quản lý của nhà lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối đã lập, các nhân viên ngân hàng xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các nguồn và từng khoản sử dụng để dự toán nhu cầu vốn biến động trong tương lai, từ đó có chính sách huy động vốn hợp lý. Theo quy định của NHNN, các NHTM chỉ được lấy 40% vốn vay ngắn hạn cho vay trung hạn và dài hạn. Tuy nhiên, hiện nay một số ngân hàng đang sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, điều này đang tiềm ẩn rủi ro thanh khoản cho các ngân hàng. Đó là lý do khiến nhiều ngân hàng phải “lách” bằng cách đưa ra các sản phẩm kỳ hạn dài nhưng cho phép khách hàng rút trước hạn mà vẫn được hưởng lãi suất bằng lãi suất kỳ hạn thực gửi, thực ra đó cũng là kỳ hạn ngắn hạn. Cũng vì lao vào huy động kỳ hạn ngắn nên các khoản huy động liên tục tới hạn. Khách hàng thì thường xuyên chạy từ ngân hàng này qua ngân hàng khác để kiếm lãi suất cao hơn, buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng. Điều này hình thành nên cuộc chạy đua giữa các ngân hàng. Vì vậy, để mục tiêu thắt chặt tín dụng, kiềm chế lạm phát đạt hiệu quả, để an toàn thanh khoản cho các ngân hàng, NHNN nên giám sát chặt chẽ các ngân hàng vượt trần lãi suất, vượt trần vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. 4.2. Bài học kinh nghiệm về huy động vốn tại một số ngân hàng thương mại 4.2.1. Ngân hàng Techcombank - Đa dạng hóa phương thức huy động vốn kết hợp với sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất để thu hút tiền gửi từ dân cư và doanh nghiệp. Kết hợp phương thức truyền thống và hiện đại, phát triển hình thức tiền gửi tiết kiệm khác nhau như tiết kiệm bội thu, tiết kiệm phát lộc, tiết kiệm thưởng, tiết kiệm tích lũy tái tâm, tiết kiệm tích lũy tái hiền, tiết kiệm lãi trước, nhóm sản phẩm tiết kiệm online “Háo hức rút lộc xuân, Canh Dần thêm may mắn” năm 2008 - Hoàn thiện tiện ích cho khách hàng: Một tài khoản thanh toán của khách hàng đi kèm tiện ích: truy vấn tài khoản từ xa qua homebanking, SMS, F@st I bank, phát triển mạnh với việc triển khai một loạt các dịch vụ gia tăng mới như: mở rộng khả năng thanh toán, đăng ký vay vốn trực tuyến Ngoài ra, sản phẩm F@st, MobiPay - dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động. - Thanh toán tiền cho các công ty liên kết như FPT, Prudential, Jetstar, CocaCola làm gia tăng giao dịch của khách hàng qua ngân hàng. - Đẩy mạnh phát hành và đa dạng hóa sản phẩm thẻ theo tính năng phục vụ khách hàng như: Thẻ F@st Access, Techcombank Visa, thẻ tiết kiệm đa năng F@stTVNi, thẻ trả trước Reve Visa Internet, Thẻ đồng thương hiệu Vietnam Airlines Techcombank Visa, Thẻ đồng thương hiệu Vincom Center Loyalty, Techcombank Smile. 4.2.2. Ngân hàng Phương Nam - Phương Nam Bank đề ra nhiều biện pháp để gia tăng vốn huy động như cung cấp nhiều loại kỳ hạn và hình thức trả lãi khác nhau, mở rộng các hình thức huy động tiết kiệm Bên cạnh đó, tiền gửi thanh toán được hoàn thiện. Mỗi một tài khoản thanh toán của khách hàng 29 Hoạt động huy động vốn . . . được đi kèm thêm những tiện ích, như truy vấn tài khoản từ xa qua Mobile Banking, tin nhắn SMS giúp cho khách hàng nhiều tiện ích làm chủ thông tin tài chính của mình. Phương Nam Bank thực hiện thanh toán tiền cho Tổng công ty điện lực Tp.HCM, Cấp nước Chợ Lớn, Trường học Trương Vĩnh Ký - Công tác phát hành thẻ và thanh toán thẻ của Phương Nam Bank luôn được đẩy mạnh. Với việc tách trung tâm thẻ thành đơn vị kinh doanh độc lập, nên phát huy tính tự chủ, sáng tạo của đơn vị này. Năm 2012, phát hành thành công thẻ thanh toán quốc tế SouthernBank Debit Master Card và Shouthern Prepaid Mastercard 4.2.3. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) ACB là ngân hàng TMCP mạnh nhất hiện nay đã được các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế công nhận về sự thành công và phát triển bền vững, đã đi vào lòng khách hàng như là sự lựa chọn hàng đầu. ACB tự hào là ngân hàng luôn dẫn đầu về HĐV, tài sản có và lợi nhuận trước thuế trong toàn hệ thống. Với tiêu chí luôn làm khách hàng hài lòng, những sản phẩm, dịch vụ hiện đại, tiện ích nhất đều được ngân hàng chú trọng nghiên cứu phát triển nhằm phục vụ tối đa và hiệu quả mọi nhu cầu khách hàng. Các sản phẩm ACB đưa ra đều được chuyên biệt hóa, phục vụ đa dạng nhu cầu của khách hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các NH hiện nay, thì ACB vẫn có một vị thế nhất định trong long khách hàng. Các sản phẩm và dịch vụ của ACB đã và đang đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Số lượng khách hàng giao dịch và sử dụng các dịch vụ của ACB ngày càng nhiều, cho thấy các sản phẩm và dịch vụ của ACB đã được nhiều người quan tâm. Xét cho cùng, việc phát triển sản phẩm dịch vụ là điều mà mỗi ngân hàng phải làm, nhưng ACB đã có được những thành công nhất định so với những NH khác, với các dịch vụ luôn được cập nhật của ACB đã góp phần làm đa dạng thêm nguồn dịch vụ, bên cạnh đó, chúng mang lại lợi ích đến cho khách hàng: dịch vụ giữ hộ vàng, dịch vụ thanh toán mua bán bất động sản, dịch vụ Bankdraft đa ngoại tệ, dịch vụ thu hộ tiền điện, dịch vụ quản lý tài khoản tiền nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán, Séc du lịch American Express, dịch vụ tư vấn tài chính cá nhân Một dịch vụ mà được khách hàng sử dụng một cách hiệu quả trong thời gian qua là dịch vụ chăm sóc khách hàng tư vấn tận nơi: dịch vụ này đã giúp cho khách hàng cảm thấy được sự quan tâm, trân trọng của NH, đặc biệt là giải đáp thắc mắc những thông tin và giúp khách hàng lựa chọn một dịch vụ có lợi và tốt nhất của ngân hàng. Vì vậy trong thời gian qua, lượng khách hàng của ACB luôn không ngừng tăng trưởng, đồng thời các khách hàng cũ vẫn tin tưởng và sử dụng các dịch vụ, cho thấy ngân hàng đã thành công trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. 5. Kết luận Hoạt động HĐV là một chức năng cơ bản của các ngân hàng thương mại. Hoạt động HĐV một số ngân hàng thương mại ở thành phố Hồ Chí Minh với những thành quả nhất định, đây là những bài học kinh nghiệm quý giá cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong hoạt động HĐV của mình. 30 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách 1. Nguyễn Đăng Dờn, 2009. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại: Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 2. Nguyễn Đăng Dờn, 2011. Quản trị ngân hàng thương mại hiện đại. Tái bản lần 1. Nxb. Phương Đông. 3. Nguyễn Đăng Dờn, 2005. Tiền tệ ngân hàng. Nxb. Thống kê. 4. Nguyễn Minh Kiều, 2012. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Tái bản lần thứ 2. Nxb. Lao động – Xã hội. 5. Lê Thị Tuyết Hoa, 2007. Tiền tệ ngân hàng. Nxb. Thống kê. 6. Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á. Báo cáo tình hình hoạt động Dong A Bank năm 2011. 7. Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á. Báo cáo tình hình hoạt động Dong A Bank năm 2012. 8. Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á. Báo cáo tình hình hoạt động Dong A Bank năm 2013. Website: 1. 2. 3. 4. 5. Viet-Nam-6-thang-dau-nam-va-du-bao-ca-nam-2013/28728.tctc. 6. https://www.techcombank.com.vn/ 7. hon-13804.html.
File đính kèm:
- hoat_dong_huy_dong_von_kinh_nghiem_tai_mot_so_ngan_hang_thuo.pdf