Hợp đồng quyền chọn trên thị trường ngoại hối tại một số ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
ABSTRACT
Despite options market in Vietnam was introduced over 10 years ago, it has very
slowly developed, and the provision of options service in financial institutions is still
small, without the proper care. Vietnam's economy has developed to the level appropriate
for the establishment of the options market, but the legal basis for this market is
incomplete, technology infrastructure does not meet the development needs, human
resources are weak and inadequate. . However, there are many advantages for the
development of options market in Vietnam and opportunities that opened up when Vietnam
has increasingly integrated with the world economy, the growth potential of economy and
financial market is still very big, if Vietnam has appropriate policies and solutions, options
market in general, and foreign currency options in particular in Vietnam will grow
strongly and stably in the future.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hợp đồng quyền chọn trên thị trường ngoại hối tại một số ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 1 (26) - Thaùng 1/2015 69 H P ĐỒNG QUYỀN CHỌN TRÊN THỊ TRƯ NG NGOẠI HỐI TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM VÕ ĐỨC TOÀN (*) NGUYỄN PHƯƠNG HOA(**) NGUYỄN THỊ PHƯƠNG TRÚC(***) PHẠM THỊ THANH VÂN(****) T M TẮT T ườ quyề ở V N dù ã ờ 10 ă ư ể ấ ậ oạ ộ u ấ d quyề ủ ổ í ẫ ò ỏ bé ư ượ s qu â ú . Nề k V N ã ể ộ ù ợ o s ờ ủ ườ quyề ư sở ý o ườ ư ượ o ạ ầ ô ư ượ u ầu ể uồ â o ườ ì u y u . Tuy uậ ợ o ể ườ quyề ở V N ấ ớ ộ ở k V N y ộ ậ sâu ộ ớ k ớ ề ă ể k ườ í ẫ ò ấ ớ u V N ó í s ả ù ợ ườ quyề ó u quyề oạ ó ở V N s ể ạ ắ o ư . óa: ợ ồ quyề ABSTRACT Despite options market in Vietnam was introduced over 10 years ago, it has very slowly developed, and the provision of options service in financial institutions is still small, without the proper care. Vietnam's economy has developed to the level appropriate for the establishment of the options market, but the legal basis for this market is incomplete, technology infrastructure does not meet the development needs, human resources are weak and inadequate. ... However, there are many advantages for the development of options market in Vietnam and opportunities that opened up when Vietnam has increasingly integrated with the world economy, the growth potential of economy and financial market is still very big, if Vietnam has appropriate policies and solutions, options market in general, and foreign currency options in particular in Vietnam will grow strongly and stably in the future. Keywords: option contracts 1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*)(**) Theo cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO - World Trade (*)TS, Trường Đại học Sài Gòn (**)(***)(****) Trường Đại học Sài Gòn Organization) mà Việt Nam đã tham gia vào đầu năm 2007, mở cửa thị trường là vấn đề tất yếu xảy ra, trong đó có thị trường tài chính. Mở cửa thị trường tài chính sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho nền 70 kinh tế và thị trường tài chính phát triển. Tuy nhiên, nó cũng gây ra nhiều mặt trái, tác hại nghiêm trọng. Khi dòng vốn được tự do luân chuyển ra vào nền kinh tế, lưu lượng vốn sẽ có qui mô lớn hơn. Khi đó, bất kỳ sự chảy vào hay rút vốn ra đột ngột có thể gây ra những rủi ro cho thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung, đặc biệt gây tác hại đầu tiên và rõ ràng nhất là thị trường ngoại hối. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải có những công cụ tài chính hữu hiệu để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro xảy đến cho nền kinh tế và thị trường tài chính trong tương lai, đặc biệt là thị trường ngoại hối, đồng thời để làm cơ sở thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường này cũng như toàn bộ thị trường tài chính Việt Nam. Một trong số đó là công cụ quyền chọn, một dạng của các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tài chính rất phổ biến trên thế giới. Bài viết Sử d ợ ồ quyề ể quả ủ o ườ oạ ” xin giới thiệu tổng quan về quyền chọn, thực trạng và giải pháp sử dụng hợp đồng quyền chọn để quản trị rủi ro trên thị trường ngoại hối trong thời gian tới ở Việt Nam. 2. HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI Hợp đồng quyền chọn là một công cụ quản trị rủi ro tài chính nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng. Chính vì vậy, khi lý luận về hợp đồng quyền chọn trên thị trường ngoại hối thì các vấn đề cần quan tâm: - Rủi ro trên thị trường ngoại hối. - Quản trị rủi ro trên thị trường ngoại hối. - Hợp đồng quyền chọn. 2.1. Rủi r và quản trị rủi r trên t ị trường ng ại i - Rủ o: Trong hoạt động tài chính, rủi ro được định nghĩa là khả năng hay xác suất xảy ra những kết quả đầu tư ngoài dự kiến, hay cụ thể hơn là khả năng làm cho mức sinh lời thực tế nhận được trong tương lai thấp hơn so với mức sinh lời dự kiến ban đầu. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối tại các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam chủ yếu là rủi ro tỷ giá, xảy ra khi ngân hàng duy trì trạng thái mở hối đoái với loại ngoại tệ nào đó. Khi tỷ giá của ngoại tệ đó thay đổi bất lợi sẽ dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. [9 ] - Quả ủ o: Quản trị rủi ro là một quy trình cho phép xác định, đánh giá, hoạch định và quản lý các loại rủi ro. Do đó, quản trị rủi ro hướng tới ba mục tiêu: Phải xác định được rủi ro, thực hiện phân tích khách quan về các loại rủi ro đặc thù đối với tổ chức, và ứng phó với những rủi ro đó theo một phương cách hữu hiệu và phù hợp. Quản trị rủi ro giúp tăng hiệu quả kinh doanh, hiệu lực tổ chức, và báo cáo về rủi ro tốt hơn. [7; 3] 2.2. Cơ sở lý luận về ợp đồng quyền c n trên t ị trường ng ại i Quyền chọn là hợp đồng giữa hai bên (người mua và người bán) trong đó người mua có quyền (không phải là nghĩa vụ) mua hoặc bán một tài sản nào đó vào một ngày trong tương lai với giá cả được thỏa thuận vào ngày hôm nay. - Tài sản được đề cập thường là cổ phiếu, trái phiếu, tiền, vàng hoặc là hàng 71 hóa, và các loại tài sản trừu tượng khác như chỉ số chứng khoán. - Mức giá cố định mà người mua hợp đồng quyền chọn (HĐQC) có thể mua hoặc bán tài sản được gọi là giá chốt, hay giá thực hiện. - Trong một HĐQC có hai bên: mua quyền chọn và bán quyền chọn. Người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một số tiền gọi là phí quyền chọn. Giá quyền chọn (phí quyền chọn) thay đổi theo giá tài sản cơ sở và theo thời gian. Một HĐQC được thực hiện tại bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn được gọi là quyền chọn theo kiểu Mỹ và chỉ có thể thực hiện được vào ngày đáo hạn thì được gọi là quyền chọn theo kiểu Châu Âu. Giá quyền chọn phải phản ánh được cơ hội mà hợp đồng này đem lại lợi nhuận cho người mua. Do đó, nếu giá tài sản cơ sở càng biến động mạnh và thời gian đáo hạn càng dài thì phí quyền chọn càng cao [6;6]. 3. THỰC TRẠNG VỀ HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM 3.1. ực trạng rủi r d biến động tỷ gi ng ại tệ tr ng t ời gian qua Trong những năm gần đây, tỷ giá biến động bất ổn dẫn đến rủi ro tỷ giá tại các ngân hàng luôn ở mức cao. Đặc biệt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 200 và vẫn còn đang hoành hành với sự sụp đổ của hàng loạt các định chế tài chính lớn làm cho đồng USD và các ngoại tệ mạnh khác mất giá và biến động mạnh, gây nguy cơ về rủi ro tỷ giá đối với ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện mở cửa căn bản thị trường ngân hàng, và tự do hóa lĩnh vực dịch vụ thương mại tài chính theo cam kết khi gia nhập WTO, thị trường tài chính Việt Nam ngày càng chịu tác động mạnh mẽ hơn từ thị trường tài chính quốc tế. Trên thực tế, tại Việt Nam, sự biến động khó lường của tỷ giá kéo dài gần kín cả năm 200 , năm được coi là có rủi ro lớn về tỷ giá, đã ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của các NHTM. Tỷ giá VND/USD liên tục tăng, từ dưới 1 .000 VND/USD tăng vọt lên trên 17. 00 VND/USD. Đỉnh điểm, tỷ giá VND/USD có thời điểm lên đến trên 1 .000 VND/USD và tiếp tục tăng cho đến nay. Các ngân hàng phải gồng mình với các khoản vay bằng ngoại tệ, do đó, ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của các ngân hàng. Thực tế này dẫn đến vấn đề quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tỷ giá tại các NHTM trở nên cấp thiết và được các nhà quản lý ngân hàng cũng như các bên liên quan quan tâm hơn bất cứ khi nào. 3.2. ực trạng gia dịc quyền c n trên t ị trường ng ại i tại một s Ngân àng t ương mại cổ p n ở Việt Nam 3.2.1 Quyề oạ ớ oạ Theo Công văn đề nghị Số 3 /EIB- KD/2002 của Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank), ngày 12/02/2003, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có Công văn trả lời số 13 /NHNN- QLNH cho phép Eximbank là ngân hàng đầu tiên trong cả nước được thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ . Ngày 10/11/2004, Thống đốc NHNN ra Quyết định 14 2/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng 72 (TCTD) được phép hoạt động ngoại hối: Chính thức cho phép các TCTD được phép thực hiện các giao dịch hối đoái trong đó có giao dịch quyền chọn; không chỉ các TCTD, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, NHNN được phép tham gia giao dịch quyền chọn mà các cá nhân cũng được phép tham gia. Đây là một bước đột phá trên thị trường ngoại hối, tạo điều kiện cho giới kinh doanh đầu tư trên thị trường tiền tệ có thêm một sân chơi mới. Tính tới thời điểm 31/12/2013, đã có 24 ngân hàng cung cấp giao dịch quyền chọn ngoại tệ, trong đó có 2 ngân hàng nước ngoài là Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) và Citibank. Chính sự tham gia của cả ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài chi nhánh tại Việt Nam đã tạo ra cơ hội cạnh tranh lành mạnh và trao đổi kinh nghiệm cho các NHTM nước ta. 3.2.2. Quyền c n tiền đồng Sau 2 năm (từ 2003) triển khai quyền chọn ngoại tệ, trên cơ sở những kinh nghiệm thực tế đã tích lũy và những kết quả đã đạt được, đến giữa tháng 4/200 NHNN Việt Nam đã bắt đầu cho thí điểm nghiệp vụ quyền chọn giữa ngoại tệ và tiền đồng Việt Nam (gọi tắt là quyền chọn tiền đồng). Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) là ngân hàng đầu tiên tại nước ta được NHNN đồng ý cho thực hiện thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền đồng, tiếp theo ACB là NHTMCP Kỹ Thương (Techcombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV). Đến năm 200 , thị trường ngoại hối không ổn định, tỷ giá liên tục tăng cao và khoảng cách chênh lệch tỷ giá giữa trong và ngoài hệ thống có lúc lên tới mấy nghìn đồng mỗi USD. Nhiều doanh nghiệp dưới sự “tư vấn” của NHTM đã ký HĐQC mua/bán ngoại tệ dưới hình thức “quyền chọn kiểu Mỹ”. Nhờ đó, hai bên thoải mái giao dịch với nhau với mức giá như “chợ đen” nhưng vẫn “qua mắt” được NHNN, và lúc đó, tỷ giá công bố của NHNN bỗng trở thành danh nghĩa. Trước tình hình này, NHNN ban hành Văn bản số 1 20/NHNN- QLNH, yêu cầu tất cả các NHTM kể từ 23/3/200 chấm dứt thực hiện quyền lựa chọn tiền tệ ngoại tệ và VND, các TCTD chỉ được cung cấp quyền lựa chọn giữa hai loại ngoại tệ với nhau. 3.2.3. N ững ết quả đạt được - NHTMCP Xuấ ậ k ẩu V N (Eximbank) Eximbank là ngân hàng có bề dày kinh nghiệm kinh doanh ngoại tệ so với các ngân hàng khác trong nước. Từ đầu năm 2000 trở đi, hoạt động này bắt đầu khởi sắc và phát triển không ngừng qua các năm. Từ 2004 đến 2007, số hợp đồng giao dịch quyền chọn ở Eximbank rất ít. Đến năm 200 , cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đẩy xuất nhập khẩu của Việt Nam vào rủi ro lớn về tỷ giá. Eximbank là ngân hàng chuyên về xuất nhập khẩu, đã sử dụng thành công các hợp đồng phái sinh để tự bảo vệ mình trước rủi ro này. Trong đó, tổng giá trị HĐQC ngoại tệ năm 200 đạt 11.70 triệu đồng chiếm 22% tổng giá trị hợp đồng phái sinh tiền tệ tại Eximbank. Đến quý II năm 200 , tổng giá trị HĐQC 73 mua mà Eximbank bán ra là 2.0 triệu đồng. Sang đến quý I/2010, tổng giá trị HĐQC mua được ngân hàng này mua vào là 2. 43 triệu đồng và tổng giá trị HĐQC mua được ngân hàng bán ra là 2. 4 triệu đồng. Tuy số lượng hợp đồng và doanh số hiện quyền chọn có tăng so với thời gian thí điểm thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, nhưng còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với giao dịch giao ngay. Từ năm 2011 đến nay, Eximbank không ký được hợp đồng quyền chọn nào. - NHTMCP Á Châu (ACB) Với sự thành công của Eximbank, các ngân hàng khác như CitiBank, ACB, Techombank cũng bắt đầu triển khai thực hiện giao dịch quyền chọn. Đáng kể nhất là ACB một ngân hàng luôn mạnh dạn trong việc phát triển và tung ra thị trường các sản phẩm mới. Trước năm 200 , ACB cung cấp các hợp đồng giao dịch quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn tiền đồng. Tuy nhiên, từ khi NHNN ban hành Văn bản số 1 20/NHNN-QLNH chấm dứt thực hiện quyền lựa chọn tiền tệ ngoại tệ và VND, ACB chỉ cung cấp những hợp đồng giao dịch quyền chọn trên tỷ giá giữa các ngoại tệ như EUR, JPY, GBP so với USD. Bảng 01: ổng gi trị c c ợp đồng quyền c n của ACB t năm 2008 đến 2013 ĐVT: T u ồ Quyền chọn tiền tệ Tổng giá trị c a hợp đồng (theo tỷ giá ngày hiệu lực hợp đồng) 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Mua QC tiền tệ Mua QC mua 85.229 - 13.916.743 32.077.815 - 85.383 Mua QC bán 4.902 1524 1.982.428 5.859.683 - 102.922 Bán QC tiền tệ Bán QC mua 34.438 587.910 2.605.041 32.315.535 - 168.288 Bán QC bán 7.771 365.358 14.895.714 30.133.282 - 86.094 N uồ : o o í ủ AC qu ă 2008 – 2013 [5] - NHTMCP S Gò T ư Tí (Sacombank) Cũng như ACB, ngân hàng này đã đẩy mạnh việc sử dụng các giao dịch HĐQC trong hoạt động kinh doanh và phòng ngừa rủi ro từ 200 tới nay. Bảng 02: ổng gi trị c c ợp đồng quyền c n của Sac mban t năm 2008-2013 ĐVT: T u ồ Quyền chọn tiền tệ Tổng giá trị theo hợp đồng (theo tỷ giá ngày ký kết hợp đồng) 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Quyền chọn mua 2.784 - - 216.677 916.094 1.427.627 Quyền chọn bán 2.411 - - 217.533 747.182 1.695.189 N uồ : o o í ủ ủ S o b k ă 2008 – 2013 [5] 74 3.4. Đ n gi c ung về t ực trạng quyền c n trên t ị trường ng ại i tại một s Ngân àng t ương mại cổ p n ở Việt Nam t ời gian qua Thời gian qua ở Việt Nam, quyền chọn ngoại tệ dường như là công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh tỷ giá luôn ở trạng thái tăng giảm liên tục. Tuy nhiên, các nghiệp vụ quyền chọn này còn mang tính thí điểm và đơn lẻ. Số lượng giao dịch của các công cụ này còn hết sức khiêm tốn, doanh số về hoạt động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống. Như vậy, điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh cũng như quyền chọn ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là một công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Theo báo cáo tại hội thảo khoa học về G ả ể ườ s ở V N ” năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ trên thị trường giữa các ngân hàng với khách hàng ngày càng tăng lên: Năm 2004 tăng 30%, từ năm 200 - 2007 trung bình tăng khoảng 20%/năm. Trong đó, các giao dịch giao ngay chiếm từ 0 - %, các giao dịch quyền chọn ngoại tệ chỉ chiếm từ 1 - %, một tỉ trọng rất nhỏ. [ ] 3.5. Nguyên nhân T ấ , chính sách tỷ giá và lãi suất ở nước ta hiện nay chưa thực sự linh hoạt. Quan sát chiều hướng biến động của tỷ giá USD/VND cho thấy rằng tỷ giá luôn diễn biến theo chiều hướng tăng một cách khá ổn định trong thời gian tương đối dài. Với diễn biến tỷ giá như vậy thì chắc chắn các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu không muốn sử dụng các hợp đồng quyền chọn vì sẽ làm phát sinh thêm chi phí mua quyền chọn, đồng thời sẽ khuyến khích các doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ. T , thị trường ngoại hối hiện nay hoạt động còn khá đơn điệu, chủ yếu các NHTM vẫn theo truyền thống là thực hiện các giao dịch giao ngay, còn các giao dịch phái sinh chưa được chú ý do các NHTM chưa thực sự nhận được nhiều lợi ích từ các giao dịch này, đồng thời phía đối tác là các khách hàng chưa có nhu cầu mua bán các công cụ phái sinh. Chính vì thế, thị trường các giao dịch phái sinh ở Việt Nam hầu như vẫn ở trạng thái sơ khai, doanh số giao dịch thấp, diễn biến theo hướng một chiều (chủ yếu là chiều mua). T b , công tác quảng bá, tuyên truyền về vai trò và ý nghĩa của các công cụ phái sinh hiện còn khá nhiều khó khăn và bất cập. Các nhà xuất nhập khẩu chưa thực sự có nhận thức đúng về ý nghĩa của các công cụ này cho nên chưa sẵn sàng sử dụng chúng. T ư, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện. Trong những năm gần đây, NHNN cho phép các NHTM được thực hiện nhiều nghiệp vụ quyền chọn như quyền chọn ngoại tệ, quyền chọn vàng, Tuy nhiên, cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, cần phải tiếp tục có sự bổ sung hoàn thiện. 4. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM 75 4.1 C c giải p p vĩ mô đ i với N à nước - Mở cửa thị trường tự do cho tất cả định chế triển khai các hợp đồng phái sinh. - Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương tham gia vào “Thỏa thuận giao dịch tiền tệ đa biên giới” với Hiệp hội Hoán đổi và Phái sinh Quốc tế (ISDA) nhằm mở ra triển vọng cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ trong việc bảo hiểm rủi ro và đa dạng hóa các hình thức quyền chọn, phát triển thị trường phái sinh. - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần sớm có những động thái nhằm hỗ trợ việc nhanh chóng hình thành thị trường quyền chọn liên ngân hàng tại Việt Nam, sớm hình thành và hoàn chỉnh các quy định khung pháp lý về giao dịch quyền chọn. 4.2. Giải p p đ i với Ngân àng MCP và c c tổ c ức tài c n c - Chủ động giới thiệu, quảng bá thông tin, không ngừng cải tiến chất lượng, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ quyền chọn tới khách hàng, nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ kinh doanh quyền chọn. - Nhanh chóng triển khai ứng dụng các mô hình chiến lược kinh doanh quyền chọn, từ đó tạo nền tảng đề ra một mức phí mang tính cạnh tranh hơn. - Mở rộng hợp tác, học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm từ các ngân hàng lớn trong khu vực và thế giới trong quá trình tạo lập và phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ ở Việt Nam. - Nghiên cứu, chuẩn bị nhân lực để triển khai các sản phẩm phái sinh đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian tới khi cơ sở pháp lý đã hoàn thiện. 4.3. Giải p p đ i với c c công ty xuất - n ập ẩu và c c n à đ u tư - Mạnh dạn và chủ động tiếp cận để dần học hỏi kiến thức về quyền chọn, nắm vững những nguyên tắc trong giao dịch nghiệp vụ này. - Chủ động nhận dạng và đo lường các rủi ro có thể phát sinh. Từ đó, từng bước thiết lập các chính sách nội bộ rõ ràng về bảo hiểm rủi ro. - Tìm các tổ chức tài chính có uy tín trên thị trường để nhờ sự tư vấn, hướng dẫn về sử dụng hợp đồng quyền chọn. . KẾT LUẬN Thị trường quyền chọn ở Việt Nam mới chỉ ở điểm khởi đầu của sự phát triển. Quyền chọn ngoại tệ dù đã ra đời hơn 10 năm nhưng phát triển rất chậm. Hoạt động cung cấp dịch vụ quyền chọn của các tổ chức tài chính (TCTC) vẫn còn nhỏ bé, chưa được sự quan tâm đúng mức. Dù nền kinh tế đã phát triển đến mức độ phù hợp cho sự ra đời của thị trường quyền chọn, nhưng cơ sở pháp lý cho thị trường chưa được hoàn thiện, khiếm khuyết, hạ tầng công nghệ vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển, nguồn nhân lực cho thị trường thì thiếu và yếu . Tuy nhiên, những thuận lợi cho việc phát triển thị trường này ở Việt Nam là rất lớn, khi nó nhận được sự quan tâm ngày càng lớn của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các TCTC cũng như các ban, ngành từ Trung ương đến địa phương. Các cơ hội cũng ngày càng mở ra khi cam kết về gia nhập WTO, hội nhập kinh tế thế giới đang dần được 76 thực thi, tiềm năng phát triển kinh tế và thị trường tài chính vẫn còn rất lớn. Mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế từ chính sách, pháp luật nhà nước cũng như sự yếu kém của các đối tượng cung cấp và sử dụng quyền chọn, nhưng với những chính sách và giải pháp phù hợp, thị trường quyền chọn nói chung và quyền chọn ngoại tệ nói riêng ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh và vững chắc trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị Phương Dung (200 ). G ả ể o d quyề oạ ạ V N (2008-2020) u ể ì ạ â TMCP Xuấ N ậ K ẩu V Nam (Eximbank). Luận văn tốt nghiệp. Đại học Ngoại Thương. 2. TS. Kiều Hữu Thiện (2012). Hợ ồ quyề o ò ừ ủ o o – ấ ề ý uậ ạ V N . Học viện Ngân hàng. 3. Phạm Huy Hùng (2007). G ả ể ô s oạ ạ V N Hội thảo G ả ể ườ s ở V N ” NHNN VN. 4. Nguyễn Thị Mùi (2007). P ể ườ s ở V N y – G ả ừ ều í Hội thảo G ả ể ườ s ở V N ” NHNN VN. . Website các ngân hàng: NHTMCP Á Châu, NHTMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, NHTMCP Sài Gòn Thương Tín, o o í qu ă 2008 - 2013. . Phạm Văn Chính (2007). Quyề k ả ă d o ườ k o V N . Luận văn thạc sĩ. Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 7. Bài giảng Quản trị rủi ro trong kinh doanh (20-24/7/200 ), dành cho cán bộ các đơn vị thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông Việt Nam – VNPT, Hà Nội. 8. 9. viet-nam 10. 11. * Ngày nhận bài: / /2014. Biên tập xong: /1/201 . Duyệt đăng: 10/1/201 .
File đính kèm:
- hop_dong_quyen_chon_tren_thi_truong_ngoai_hoi_tai_mot_so_nga.pdf