Kết quả tách enzim ribonucleaza từ nọc rắn hổ mang bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion trên cột CM-xen-lu-lô

Các nghiên cứu trước đây của chúng tôi đã

cho thấy enzim ribonucleaza (RNaza) trong nọc

rắn hổ mang Naja atra (Cantor, 1842) Việt Nam

thể hiện hoạt tính xúc tác cao nhất trong vùng

axit [7, 8], với pH tối ưu (pHopt) tương đương với

pHopt của pepsin [1] trong dạ dày của người và

các động vật bậc cao khác: pHopt = 2,53 ± 0,30

[8]; trong khi RNaza trong nọc rắn hổ mang Naja

oxiana vùng Trung á [10], RNaza trong nọc rắn

hổ mang Naja naja vùng Guntur của ấn Độ [4]

và tất cả các enzim khác thuộc siêu họ RNaza A

(bao gồm tất cả các RNaza ngoại tiết ở động vật

có xương sống, trừ lớp Cá) [5] đều có pHopt > 7.

Hơn nữa, những kết quả nghiên cứu bước đầu của

chúng tôi cho thấy RNaza trong nọc rắn hổ mang

Việt Nam không bị ức chế bởi protein ức chế

RNaza (RI) từ nhau thai người [11]. Điều này có

nghĩa là RNaza trong nọc rắn hổ mang không

tương tác với RI và như vậy, có khả năng thể hiện

hoạt tính xytotoxin, bởi vì không bị ức chế bởi RI

nội bào là điều kiện tiên quyết để một RNaza bất

kỳ thuộc siêu họ RNaza A biểu hiện được hoạt

tính xytotoxin tiềm tàng của nó [2, 3, 6]. Vì vậy

việc tách chiết và làm sạch RNaza từ nọc rắn hổ

mang để nhận chế phẩm enzim có độ sạch cao,

phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo về tương

tác của RNaza nọc rắn với RI là rất cần thiết.

Công trình nghiên cứu này sẽ trình bày các kết

quả tách RNaza từ nọc rắn hổ mang bằng phương

pháp sắc ký trao đổi ion trên cột với CM-xen-lulô.

 

pdf 5 trang yennguyen 4200
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả tách enzim ribonucleaza từ nọc rắn hổ mang bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion trên cột CM-xen-lu-lô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả tách enzim ribonucleaza từ nọc rắn hổ mang bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion trên cột CM-xen-lu-lô

Kết quả tách enzim ribonucleaza từ nọc rắn hổ mang bằng phương pháp sắc ký trao đổi ion trên cột CM-xen-lu-lô
 83 
28(3): 83-87 Tạp chí Sinh học 9-2006 
Kết quả tách enzim ribonucleaza từ nọc rắn hổ mang 
bằng ph−ơng pháp sắc ký trao đổi ion trên cột CM-xen-lu-lô 
Nguyễn Văn Thiết, Giang Thái Sơn 
Viện Công nghệ sinh học 
Các nghiên cứu tr−ớc đây của chúng tôi đã 
cho thấy enzim ribonucleaza (RNaza) trong nọc 
rắn hổ mang Naja atra (Cantor, 1842) Việt Nam 
thể hiện hoạt tính xúc tác cao nhất trong vùng 
axit [7, 8], với pH tối −u (pHopt) t−ơng đ−ơng với 
pHopt của pepsin [1] trong dạ dày của ng−ời và 
các động vật bậc cao khác: pHopt = 2,53 ± 0,30 
[8]; trong khi RNaza trong nọc rắn hổ mang Naja 
oxiana vùng Trung á [10], RNaza trong nọc rắn 
hổ mang Naja naja vùng Guntur của ấn Độ [4] 
và tất cả các enzim khác thuộc siêu họ RNaza A 
(bao gồm tất cả các RNaza ngoại tiết ở động vật 
có x−ơng sống, trừ lớp Cá) [5] đều có pHopt > 7. 
Hơn nữa, những kết quả nghiên cứu b−ớc đầu của 
chúng tôi cho thấy RNaza trong nọc rắn hổ mang 
Việt Nam không bị ức chế bởi protein ức chế 
RNaza (RI) từ nhau thai ng−ời [11]. Điều này có 
nghĩa là RNaza trong nọc rắn hổ mang không 
t−ơng tác với RI và nh− vậy, có khả năng thể hiện 
hoạt tính xytotoxin, bởi vì không bị ức chế bởi RI 
nội bào là điều kiện tiên quyết để một RNaza bất 
kỳ thuộc siêu họ RNaza A biểu hiện đ−ợc hoạt 
tính xytotoxin tiềm tàng của nó [2, 3, 6]. Vì vậy 
việc tách chiết và làm sạch RNaza từ nọc rắn hổ 
mang để nhận chế phẩm enzim có độ sạch cao, 
phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo về t−ơng 
tác của RNaza nọc rắn với RI là rất cần thiết. 
Công trình nghiên cứu này sẽ trình bày các kết 
quả tách RNaza từ nọc rắn hổ mang bằng ph−ơng 
pháp sắc ký trao đổi ion trên cột với CM-xen-lu-
lô. 
I. ph−ơng pháp nghiên cứu 
Nọc rắn hổ mang đông khô - nguồn RNaza 
đ−ợc mua ở làng nghề nuôi rắn tại xã Vĩnh Sơn, 
huyện Vĩnh T−ờng, tỉnh Vĩnh Phúc. Chế phẩm 
Eo nhận đ−ợc bằng hòa tan nọc rắn đông khô 
vào n−ớc cất 2 lần hay dung dịch đệm cần thiết 
theo tỷ lệ 10 mg nọc rắn trong 1 ml. Chế phẩm 
ARN tổng số từ nấm men và nhựa trao đổi ion 
cacbôxymethylxenlulô (CM-xen-lu-lô) của hãng 
Sigma. Glyxin (Gly) của hãng Prolabo. Các hóa 
chất khác đều có độ sạch phân tích cao. 
Phân tách RNaza bằng ph−ơng pháp sắc ký 
trao đổi ion trên cột (∅1,6 ì 12-15 cm) CM-
xen-lu-lô. Trong mỗi lần sắc ký cho lên cột (đã 
đ−ợc cân bằng tr−ớc với đệm xitrat 10 mM có 
giá trị pH khác nhau là 5,8; 5,6; 5,5; 5,2; 4,8 và 
4,4) khoảng 100 mg nọc rắn đông khô (10 ml 
chế phẩm Eo), rửa cột bằng một thể tích đệm 
ban đầu, sau đó thôi protein ra khỏi cột bằng 
gradient nồng độ NaCl 0 ữ 1,0 M NaCl với thể 
tích chung là 120 ml (bình chứa: 60 ml NaCl 1 
M trong đệm xitrat 10 mM; bình khuấy: 60 ml 
đệm xitrat 10 mM), tốc độ chảy 1 ml/phút, thu 
mỗi phân đoạn 3 ml. Sau khi kết thúc công việc 
sắc ký, hoạt tính của RNaza trong mỗi phân 
đoạn đ−ợc xác định theo ph−ơng pháp nh− đã 
mô tả tr−ớc đây [7], còn protein đ−ợc đo bằng 
ph−ơng pháp quang phổ. 
II. Kết quả và thảo luận 
1. Kết quả sắc ký chế phẩm Eo 
Trong sắc ký trao đổi ion thì sự khác biệt về 
lực t−ơng tác ion-ion giữa protein và chất mang 
có ý nghĩa quyết định để phân tách các protein 
trong hỗn hợp. Về phần mình, sự khác biệt này 
lại phụ thuộc vào pH của môi tr−ờng bao quanh 
các phân tử protein, bởi vì điện tích bề mặt của 
các phân tử protein phụ thuộc vào pH của môi 
tr−ờng. Vì vậy, việc sắc ký chế phẩm Eo đã đ−ợc 
tiến hành tại các pH khác nhau trong vùng pH = 
4,4 - 5,8 (nhựa CM-xen-lu-lô bền trong dải pH 
axit từ 4 - 6) của đệm xitrat 10 M, để tìm giá trị 
pH mà tại đó, việc tách chiết RNaza là tốt nhất. 
Kết quả sắc ký chế phẩm Eo ở các giá trị pH này 
đ−ợc trình bày trên hình 1. Đầu tiên, quá trình sắc 
ký đã đ−ợc tiến hành tại pH = 5,8, sau đó giảm 
dần giá trị pH xuống đến pH = 4,4. Từ những sắc 
ký đồ nhận đ−ợc, ta thấy ở tất cả các giá trị pH, 
 84 
protein của nọc rắn đều đ−ợc thôi ra khỏi cột 
d−ới dạng một đỉnh protein chính không đối 
xứng, với một đuôi (vai) phía bên phải có hàm 
l−ợng protein thấp hơn nhiều trong vùng đỉnh 
chính. Đỉnh protein nhận đ−ợc chiếm phần lớn 
tổng số protein cho lên cột (> 80%). Sự phân bố 
protein nh− vậy theo các phân đoạn cho thấy các 
protein của nọc rắn có điện tích rất gần nhau, tạo 
thành một phổ protein liên tục và các protein của 
nọc rắn đã không tách đ−ợc thành các đỉnh riêng 
biệt bằng ph−ơng pháp sắc ký trao đổi ion trên 
CM-xen-lu-lô trong vùng pH = 4,4 - 5,8. 
Hình 1. Sắc ký đồ của chế phẩm Eo nhận đ−ợc sau quá trình sắc ký trao đổi ion trên cột với CM-
xen-lu-lô ở các giá trị pH khác nhau của đệm xitrat 
A. hoạt tính của RNaza đ−ợc đo trong đệm Gly 10 mM, pH = 2,5, tính bằng đơn vị OD260; Pr. protein, tính 
bằng đơn vị OD280; đ−ờng chéo là gradient nồng độ NaCl, nồng độ NaCl tính theo giá trị trục tung bên phải 
đ−ợc nhân với 4 hoặc 8 (trong tr−ờng hợp sắc ký tại pH = 5,5). 
Kết quả xác định hoạt tính của RNaza cho 
thấy ở các giá trị pH > 5,0, luôn có 2 đỉnh 
RNaza phân biệt rõ rệt trên sắc ký đồ; đỉnh 
RNaza I nằm trong vùng đỉnh protein chính, còn 
đỉnh RNaza II - nằm trong vùng vai phía bên 
phải đỉnh protein chính. Đỉnh RNaza I phản hấp 
phụ khỏi cột ở nồng độ muối NaCl khoảng 0,6 
M và đỉnh RNaza II - ở nồng độ NaCl khoảng 
0,8 M. Khi quá trình sắc ký đ−ợc tiến hành tại 
các giá trị pH < 5,0, th−ờng chỉ nhận đ−ợc một 
đỉnh RNaza rộng, bao trùm toàn bộ đỉnh protein 
và đuôi phía bên phải của nó. 
Việc phân tích kỹ các sắc ký đồ cho thấy: khi 
sắc ký tiến hành ở pH = 5,8 thì hoạt tính enzim 
của 2 đỉnh RNaza gần nh− t−ơng đ−ơng nhau, 
đỉnh RNaza I trùng hoàn toàn với nửa trái của đỉnh 
0,8 
0,7 
0,6 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
2,5 
3,0 
0 10 20 30 40 
2,0 
1,5 
1,0 
0,5 
0,0 
Số phân đoạn 
pH = 5,8 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
2,5 
3,0 
0 10 20 30 40 
2,0 
1,5 
1,0 
0,5 
0,0 
Số phân đoạn 
pH = 5,6 
-0,5 
Số phân đoạn 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
1,50 
1,75 
0 10 20 30 40 
1,25 
1,00 
0,75 
0,50 
0,0 
pH = 5,5 
0,25 
0,6 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
2,5 
3,0 
0 10 20 30 40 
2,0 
1,5 
1,0 
0,5 
0,0 
Số phân đoạn 
pH = 5,2 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
3,0 
3,5 
0 10 20 30 40 
2,5 
2,0 
1,5 
1,0 
0,0 
Số phân đoạn 
pH = 4,8 
0,5 
0,6 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
2,0 
2,5 
0 10 20 30 40 
1,5 
1,0 
0,5 
0,0 
Số phân đoạn 
pH = 4,4 
 85 
protein chính, còn đỉnh RNaza II - tuy nằm ở phía 
bên phải đỉnh protein chính nh−ng cũng rất gần 
với đỉnh protein này. Khi giảm dần giá trị pH từ 
5,8 xuống đến 5,2, ta quan sát đ−ợc các xu h−ớng 
biến đổi sau: 1) hoạt tính enzim của đỉnh RNaza I 
giảm dần trong khi hoạt tính enzim của đỉnh 
RNaza II lại tăng dần lên; 2) đỉnh RNaza II càng 
tách xa ra khỏi đỉnh protein chính và ở giá trị pH =
5,2 thì đỉnh RNaza II hầu nh− đã tách đ−ợc ra 
hoàn toàn khỏi đỉnh protein chính và 2 đỉnh 
RNaza cũng phân tách ra khỏi nhau tốt nhất. 
Trong một số lần sắc ký ở pH > 5,0, thay vì 
nhận đ−ợc 2 đỉnh RNaza bình th−ờng nh− nêu 
trên, lại nhận đ−ợc tới 3 đỉnh RNaza phân biệt 
phản hấp phụ khỏi cột ở các nồng độ muối NaCl 
t−ơng ứng bằng 0,5; 0,65 và 0,86 M (hình 2). 
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
15 20 25 30 35 40 45 50 55
Số phân đoạn
A
0
0.5
1
1.5
2
2.5Pr
A
Pr
Hình 2. Sắc ký đồ của chế phẩm Eo trong tr−ờng hợp nhận đ−ợc 3 đỉnh RNaza 
 (các ký hiệu và ghi chú nh− hình 1) 
Trong 3 đỉnh RNaza nhận đ−ợc thì đỉnh III 
có hoạt tính enzim cao nhất, đỉnh enzim này cũng 
phân tách đ−ợc ra khỏi đỉnh protein chính trên 
sắc ký đồ, giống nh− các tr−ờng hợp nhận đ−ợc 2 
đỉnh RNaza, và vì vậy mà độ sạch của chế phẩm 
RNaza thu đ−ợc trong đỉnh này cũng cao nhất. 
Nh− vậy, từ các kết quả nhận đ−ợc, ta thấy 
sắc ký chế phẩm Eo trên cột CM-xen-lu-lô đ−ợc 
tiến hành tại pH = 5,2 là tốt nhất, bởi vì tại giá 
trị pH này, đỉnh enzim chính (đỉnh II) gần nh− 
đ−ợc tách ra hoàn toàn khỏi đỉnh protein chính 
của nọc rắn; hàm l−ợng protein trong các phân 
đoạn thuộc đỉnh này rất thấp và hoạt tính đặc 
tr−ng của chế phẩm RNaza t−ơng ứng nhận 
đ−ợc tăng khoảng 10 lần so với chế phẩm Eo. 
Cho đến nay, chúng tôi đã tiến hành khoảng 
30 lần sắc ký chế phẩm Eo ở giá trị pH = 5,2 và 
10 lần ở các giá trị pH khác lớn hơn 5,0, nh−ng 
chỉ trong 4 lần sắc ký là nhận đ−ợc 3 đỉnh 
RNaza phân biệt (trong đó có 2 lần sắc ký ở pH 
= 5,2 và 2 lần sắc ký ở pH = 5,5); trong tất cả 
các lần sắc ký còn lại, chỉ nhận đ−ợc 2 đỉnh 
RNaza. Trong tr−ờng hợp sắc ký nhận đ−ợc 2 
đỉnh RNaza, sự phân bố hoạt tính giữa 2 đỉnh 
t−ơng ứng là 34% và 66% và 2 dạng RNaza ứng 
với 2 đỉnh này đ−ợc ký hiệu là SK-12 và SK-22; 
còn trong tr−ờng hợp sắc ký nhận đ−ợc 3 đỉnh, 
sự phân bố hoạt tính giữa chúng t−ơng ứng là: 
24%; 39% và 37% - theo tổng hoạt tính RNaza 
ra khỏi cột và 3 dạng RNaza ứng với 3 đỉnh này 
đ−ợc ký hiệu là SK-13, SK-23 và SK-33. 
2. Một số tính chất của các đỉnh (dạng) 
RNaza phân tách đ−ợc bằng sắc ký 
a. ái lực với cột CM-xen-lu-lô 
Từ các kết quả ở phần trên ta thấy, RNaza 
trong nọc rắn hổ mang Việt Nam t−ơng tác rất 
mạnh với nhựa CM-xen-lu-lô. Cả 3 dạng RNaza 
của nọc rắn đều phản hấp phụ khỏi cột trao đổi 
ion ở các nồng độ muối rất cao (> 0,5 M NaCl). 
Điều này cho phép kết luận rằng 3 dạng RNaza 
của nọc rắn có tổng điện tích d−ơng bề mặt lớn 
và khác biệt nhau rất nhiều. 
Theo nồng độ muối mà các dạng SK-12, 
SK-22 và các dạng SK-23, SK-33 ra khỏi cột, ta 
thấy dạng SK-12 t−ơng ứng với dạng SK-23, còn 
dạng SK-22 t−ơng ứng với dạng SK-33; điều này 
rất phù hợp với kết quả xác định giá trị pH tối 
−u (pHopt) của các dạng RNaza này sẽ đ−ợc trình 
bày trong phần sau. 
b. pH tối −u của các đỉnh RNaza 
Kết quả xác định pHopt của các đỉnh (dạng) 
RNaza tách đ−ợc bằng ph−ơng pháp sắc ký chế 
phẩm Eo đ−ợc trình bày trên hình 3. 
2,0 
2,5 
1,5 
1,0 
0,5 
0,0 
0,6 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
15 20 25 30 35 40 
Số phân đoạn 
45 50 55 
 86 
Hình 3. Đồ thị biểu diễn mối phụ thuộc của hoạt tính của các đỉnh RNaza nhận đ−ợc sau sắc ký chế 
phẩm Eo trên cột CM-xen-lu-lô vào pH. Hoạt tính của RNaza đ−ợc đo trong các đệm Gly 10 mM 
a. tr−ờng hợp nhận đ−ợc hai đỉnh RNaza; b. tr−ờng hợp nhận đ−ợc ba đỉnh RNaza. 
Từ những kết quả đ−ợc trình bày trên hình 3, 
ta thấy: trong tr−ờng hợp sắc ký nhận đ−ợc 2 đỉnh 
RNaza, đỉnh SK-12 có pHopt = 2,57 và đỉnh SK-22 
có pHopt = 2,09; trong tr−ờng hợp nhận đ−ợc 3 
đỉnh RNaza, đỉnh SK-13 có pHopt = 2,08, đỉnh SK-
23 có pHopt = 2,51 và đỉnh SK-33 có pHopt = 2,0. 
Nh− vậy, giá trị pHopt của các đỉnh RNaza đã củng 
cố kết luận đ−a ra ở phần trên là: đỉnh SK-12 t−ơng 
ứng với đỉnh SK-23 (giá trị pHopt của chúng nh− 
nhau, bằng 2,57 và 2,51 t−ơng ứng) và đỉnh SK-22 
t−ơng ứng với đỉnh SK-33 (giá trị pHopt của chúng, 
bằng 2,09 và 2,0 t−ơng ứng). Còn đỉnh SK-13 chỉ 
nhận đ−ợc trong 4 lần trên tổng số khoảng 40 lần 
sắc ký. Đỉnh RNaza này mặc dù ra khỏi cột sớm 
hơn 2 đỉnh kia, nh−ng lại có giá trị pHopt giống nh− 
đỉnh SK-33. 
Nh− vậy, từ các kết quả sắc ký và xác định 
pHopt của các đỉnh RNaza nhận đ−ợc sau sắc ký 
có thể kết luận rằng trong nọc rắn hổ mang 
đông khô có từ 2 đến 3 dạng phân tử khác nhau 
của RNaza. Để cho tiện lợi, các đỉnh RNaza này 
đ−ợc ký hiệu theo thứ tự ra khỏi cột của chúng, 
tức là theo h−ớng tăng của nồng độ muối NaCl 
mà tại đó, chúng bị phản hấp phụ khỏi cột CM-
xen-lu-lô: đỉnh RNaza ra sớm nhất, phản hấp 
phụ khỏi cột CM-xen-lu-lô ở nồng độ muối 
khoảng 0,5 M NaCl, đ−ợc ký hiệu là SK-1; đỉnh 
RNaza ra thứ hai, phản hấp phụ khỏi cột CM-
xen-lu-lô ở nồng độ muối khoảng 0,60 - 0,65 M 
NaCl, đ−ợc ký hiệu là SK-2; đỉnh RNaza ra sau 
cùng, phản hấp phụ khỏi cột CM-xen-lu-lô ở 
nồng độ muối rất cao: 0,80 - 0,86 M NaCl, đ−ợc 
ký hiệu là SK-3. Theo cách ký hiệu này thì 2 
đỉnh RNaza th−ờng nhận đ−ợc trong đại đa số 
các lần sắc ký chế phẩm nọc rắn đông khô Eo 
trên cột CM-xen-lu-lô phải đ−ợc gọi là SK-2 và 
SK-3, thay cho SK-1 và SK-2 nh− tr−ớc đây [9]. 
c. Tính chất động học 
Do dạng SK-1 đôi khi mới nhận đ−ợc, còn 2 
dạng SK-2 và SK-3 luôn nhận đ−ợc trong tất cả các 
lần sắc ký, cho nên trong phần này, chỉ so sánh các 
tính chất động học của 2 dạng RNaza này. Kết quả 
nghiên cứu động học bão hòa enzim bởi cơ chất của 
2 dạng RNaza SK-2 và SK-3 ở vùng giá trị pH tối 
−u của chúng đ−ợc trình bày trên hình 4. 
SK-2
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0 20 40 60 80 100
[S], mcg/ml
P,
O
D
26
0
pH = 2,0
pH = 2,54
SK-3
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0 20 40 60 80 100
[S], mcg/ml
P,
O
D
26
0
pH = 2.00
pH = 2.51
Hình 4. Đồ thị biểu diễn động học bão hòa enzim bởi cơ chất của 2 dạng RNaza SK-2 và SK-3 tại các 
giá trị pH t−ơng ứng với giá trị pHopt của chúng. Động học đ−ợc nghiên cứu trong đệm Gly 10 mM 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
, 
0,3 
0,2 
0,1 
0, 
, 
0,6 
0,5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
1 2 3 4 5 
0,7 
0 1 2 3 4 5 
0,4 
0,3 
0,2 
0,1 
0,0 
0 
a b 
, 
0 
 87 
Từ các đồ thị trên hình 4, ta thấy các đ−ờng 
cong động học bão hòa enzim bởi cơ chất của cả 
2 dạng RNaza SK-2 và SK-3 đều có dạng sigma 
(dạng hình chữ S) hay không tuân theo động học 
Michaelis-Meten thông th−ờng. Hơn nữa, dạng 
SK-3 có ái lực với cơ chất cao hơn nhiều so với 
dạng SK-2; nếu dạng SK-3 đã đạt bão hòa ở 
nồng độ cơ chất [S] > 40 àg ARN/ml ở pH = 
2,51 và [S] > 60 àg ARN/ml ở pH = 2,0, thì 
dạng SK-2 d−ờng nh− còn lâu mới đạt bão hòa, 
thậm chí ở nồng độ cơ chất [S] = 80 àg 
ARN/ml; ở nồng độ cơ chất cao nh− vậy mà 
l−ợng sản phẩm tạo thành (P) gần nh− vẫn tỉ lệ 
tuyến tính với nồng độ cơ chất ở pH = 2 hoặc 
ch−a có dấu hiệu đạt bão hòa ở pH = 2,54. 
III. Kết luận 
Từ các kết quả đ−ợc trình bày ở trên, có thể 
kết luận nh− sau: 
Bằng ph−ơng pháp sắc ký trao đổi ion trên 
cột với CM-xen-lu-lô, đã tách đ−ợc từ 2 đến 3 
dạng RNaza trong nọc rắn hổ mang khác biệt 
nhau nhiều về điện tích bề mặt. Trong đó, 2 dạng 
SK-2 và SK-3 nhận đ−ợc trong tất cả các lần sắc 
ký, còn dạng SK-1 chỉ nhận đ−ợc trong một số ít 
lần sắc ký. Các dạng SK-1 và SK-3 có pH tối −u 
nh− nhau, với pHopt ≈ 2 còn dạng SK-2 có pHopt ≈ 
2,5. Hai dạng enzim chính SK-2 và SK-3 không 
chỉ khác nhau về ái lực với nhựa CM-xen-lu-lô và 
giá trị pHopt, mà còn khác biệt nhau nhiều về các 
tính chất động học: dạng SK-3 có ái lực với cơ 
chất cao hơn nhiều so với dạng SK-2. 
Tài liệu tham khảo 
1. Fersht A., 1977: Enzyme structure and 
mechanism. Freeman and Company Ltd. 
2. Haigis M. C., Kurten E. L., Raines R. T., 
2003: Nucleic acids Research, 31: 31024 – 
1032. 
3. Leland P. A., Raines R. T., 2001: JBC, 8: 
405-413. 
4. Mahalakshmi Y. V., Jagahnadham M. V., 
Pandit M. W., 2000: IUBMB Life, 49: 309-
316. 
5. Raines R. T., 1998: Chem. Rev., 98: 1045-
1065. 
6. Raines R. T., 1999: Enzymatic mechanism: 
235-249, IOC press, Washington DC. 
7. Nguyễn Văn Thiết, 2002: Tạp chí D−ợc 
liệu, 7(6): 181-185. Hà Nội. 
8. Nguyễn Văn Thiết, Ngô Thị Hải Yến, 
2003: Những vấn đề nghiên cứu cơ bản 
trong khoa học sự sống: 515-518. Nxb. 
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
9. Nguyễn Văn Thiết, Ngô Thị Hải Yến, 2004: 
Tạp chí D−ợc liệu, 9(3): 89-93. Hà Nội. 
10. Vasilenko S. K., Babkina G. T., 1965: 
Biokhimiya, 30(4): 705-712 (in Russian). 
11. Ngô Thị Hải Yến, Nguyễn Văn Thiết, 
2004: Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong 
khoa học sự sống: 195-198. Nxb. Khoa học 
và Kỹ thuật, Hà Nội. 
Results of the ribonuclease isolation from the Cobra venom 
by ion-exchange column with CM-cellulose method 
Nguyen Van Thiet, Giang Thai Son 
Summary 
In this paper, the cobra (Naja atra Cantor, 1842) venom ribonuclease (RNase) was isolated of ion-
exchange column with CM-cellulose method. The chromatographic isolation was carried out at different 
values of pH within an interval of pH = 4.4 – 5.8. At pH > 5.0, the cobra venom RNase was almost always 
eluded from the column in two picks at salt concentrations of about 0.6 M and 0.8 M NaCl; but in some cases 
- in three picks at salt concentrations of about 0.5 M, 0.65 M and 0.86 M NaCl, respectively; whereas, at pH < 
5.0, the cobra venom RNase was always eluded from the column in single broad pick. The forms of the cobra 
venom RNase corresponding to these picks were designated as SK-1, SK-2 and SK-3, respectively. It seemed 
that these RNase forms were differed from each other in many properties, such as an optimum of pH (pHopt) 
and the kinetic property. Thus, the pHopt of the form SK-2 was about 2.5, whereas this value of the forms SK-1 
and SK-3 was the same and about 2.0. Besides, two main forms SK-2 and SK-3 had sigmoidal curves of the 
saturation of the enzyme with the substrate, but they differed significantly in an affinity to the substrate. 
Ngày nhận bài: 14-11-2005 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_tach_enzim_ribonucleaza_tu_noc_ran_ho_mang_bang_phuo.pdf