Khảo cứu văn hoá chất lượng trong giáo dục đại học châu Âu

TÓM TẮT

Giáo dục đại học châu Âu đi đầu trong việc triển khai các dự án giáo dục tầm khu vực

như tiến trình Bologna (từ 1999), dự án Văn hóa chất lượng (2002 – 2006) và dự án Khảo

cứu văn hóa chất lượng (2009 – 2011). uá trình và kết quả thực hiện các dự án này có ảnh

hưởng lớn đến cộng đồng giáo dục đại học quốc tế về đảm bảo chất lượng và văn hóa chất

lượng. Bài viết tóm lược các nội dung chính của dự án Khảo cứu văn hóa chất lượng nhằm

tổng quát quá trình triển khai dự án và góp phần định hướng hình thành văn hóa chất lượng

qua việc triển khai các hoạt động đảm bảo chất lượng trong tổ chức giáo dục đại học.

pdf 6 trang yennguyen 3260
Bạn đang xem tài liệu "Khảo cứu văn hoá chất lượng trong giáo dục đại học châu Âu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo cứu văn hoá chất lượng trong giáo dục đại học châu Âu

Khảo cứu văn hoá chất lượng trong giáo dục đại học châu Âu
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 – Thaùng 2/2014 
48 
KHẢO CỨU VĂN HOÁ CHẤT LƯỢNG TRONG GIÁO DỤC 
ĐẠI HỌC CHÂU ÂU 
ĐỖ ĐÌNH THÁI (*) 
TÓM TẮT 
Giáo dục đại học châu Âu đi đầu trong việc triển khai các dự án giáo dục tầm khu vực 
như tiến trình Bologna (từ 1999), dự án Văn hóa chất lượng (2002 – 2006) và dự án Khảo 
cứu văn hóa chất lượng (2009 – 2011). uá trình và kết quả thực hiện các dự án này có ảnh 
hưởng lớn đến cộng đồng giáo dục đại học quốc tế về đảm bảo chất lượng và văn hóa chất 
lượng. Bài viết tóm lược các nội dung chính của dự án Khảo cứu văn hóa chất lượng nhằm 
tổng quát quá trình triển khai dự án và góp phần định hướng hình thành văn hóa chất lượng 
qua việc triển khai các hoạt động đảm bảo chất lượng trong tổ chức giáo dục đại học. 
Từ khóa: đảm bảo chất lượng, văn hóa chất lượng, Hiệp hội các trường đại học châu Âu. 
ABSTRACT 
European higher education takes the initiative in deploying the educational projects at 
the regional level such as the Bologna Process (1999), the Quality Culture Project (2002-
2006) and the Examining Quality Culture Project (2009-2011). The processes and results of 
these projects have affected the international higher education community on the quality 
assurance and the quality culture. This article summarizes some of the main contents of the 
Examining Quality Culture project in order to provide an overall picture on the 
implementing process of the project and contribute to the orientation of forming the quality 
culture by means of implementing the quality assurance activities in the higher education 
institutions. 
Keywords: quality assurance, quality culture, European University Association. 
1. GIỚI THI U 
Đảm bảo chất lượng (ĐBCL) giáo dục 
đại học (GDĐH) châu Âu nổi lên như một 
hiện tượng kể từ khi châu Âu tuyên bố tiến 
trình Bologna vào năm 1998 và chính thức 
triển khai vào năm 1999. Tiến trình Bologna 
trải rộng khắp châu Âu nhằm mục đích tìm 
kiếm sự nhất quán về công cụ và cấu trúc 
ĐBCL. ĐBCL trong giáo dục là mục tiêu 
chính của Tiến trình Bologna, triển khai hệ 
thống ĐBCL trong giáo dục để xác định 
phạm vi năng lực của tất cả các tổ chức liên 
quan, đánh giá bên trong và bên ngoài, thực 
thi hệ thống kiểm định chất lượng. Ngoài ra, 
tuyên bố còn khuyến khích sự hợp tác trong 
ĐBCL giữa các tổ chức GDĐH (gọi tắt là 
TC) trong khu vực châu Âu. 
Song song với Tiến trình Bologna, Hiệp 
hội các trường đại học châu Âu (EUA – 
European University Association) triển khai dự 
án Văn hoá chất lượng (VHCL) trong vòng 4 
năm từ năm 2002 đến năm 2006 [3]. Dự án 
chia thành 3 vòng, với sự tham gia của 134 
viện, trường đại học (ĐH) đại diện cho các 
nước thuộc khu vực châu Âu để thảo luận về 
việc làm thế nào để phổ biến và khắc sâu 
VHCL trong các TC của họ. Dự án nhằm nâng 
cao nhận thức về sự cần thiết phát triển VHCL 
bên trong các TC và phổ biến rộng rãi, tiếp tục 
thúc đẩy quản lí chất lượng nội bộ để cải thiện 
mức độ chất lượng và giúp đỡ các TC tiếp cận 
các đánh giá ngoài với tính chất xây dựng. Mặt 
khác, dự án là một giai đoạn hỗ trợ tích cực cho 
các hoạt động ĐBCL trong tiến trình Bologna. 
(*)
 ThS.NCS, Trường Đại học Sài Gòn. 
49 
Tiếp theo dự án VHCL là dự án Khảo 
cứu VHCL (EQC - Examining Quality 
Culture) thực hiện 2 năm từ tháng 10/2009 
đến mùa thu 10 – 11/2011. 
2. B I CẢNH VÀ THIẾT LẬP DỰ ÁN 
Từ sự gia tăng yêu cầu ĐBCL bên 
trong và bên ngoài gắn kết với cộng đồng 
GDĐH, việc duy trì và nâng cao chất lượng 
trong điều kiện hoàn cảnh mới là tất yếu và 
quan trọng của GDĐH trong xã hội tri 
thức. Ngoài ra, cung cấp sản phẩm chất 
lượng cao là một trong những mục đích 
chính của quá trình Bologna và chiến lược 
Lisbon như một công cụ để thúc đẩy sức 
hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của GDĐH 
châu Âu. 
Trong khi khung ĐBCL châu Âu đang 
được phát triển, các công việc liên quan đến 
ĐBCL tiếp tục thực hiện ở cấp độ từ dưới 
lên. Các TC không ngừng phát triển và thực 
hiện các quy trình ĐBCL cũng như khuyến 
khích VHCL. Kết quả của các phương 
hướng 2010 chứng minh các TC đã tìm ra 
các biện pháp ĐBCL đạt được những tiến 
triển quan trọng nhất, định hình chiến lược 
của họ trong những năm gần đây. 
Trong bối cảnh này, EUA bắt đầu thực 
hiện dự án "Khảo cứu VHCL” trong các 
TC để rà soát các quy trình và cấu trúc 
ĐBCL, thông qua các TC, hỗ trợ phát triển 
VHCL bên trong, qua đó nâng cao mức độ 
chất lượng và đáp ứng yêu cầu giải trình 
trách nhiệm. Mục tiêu của dự án gồm hai 
phần: 
(1) Xác định các quy trình ĐBCL bên 
trong hiện có của các TC, đặc biệt quan 
tâm đến các TC đã áp dụng một phần bộ 
tiêu chuẩn ESGs1 [2] vào ĐBCL bên trong. 
(2) Thảo luận về động cơ giữa sự 
phát triển của các quy trình ĐBCL và 
VHCL bên trong TC trong khi đang nhận 
diện và xem xét các trường hợp điển hình 
thực tế trong báo cáo cuối cùng để phổ 
biến rộng rãi. 
Với sự tham gia của 222 TC (36 quốc 
gia), trong đó các trường ĐH (176), các 
trường ĐH khoa học ứng dụng và bách 
khoa (32) và các TC khác (14) (gồm các 
TC giáo dục quân sự và các trường cao 
đẳng). 
3. QUÁ TRÌNH THỰC HI N DỰ ÁN 
Nội dung của dự án được thể hiện qua 
3 tập báo cáo. Tập 1: Các quy trình ĐBCL 
trong các TC [4]; Tập 2: Các quy trình và 
công cụ - Sự tham gia, quyền sở hữu và 
nạn quan liêu [5] và Tập 3: Tự phản ánh để 
nâng cao chất lượng [6]. 
Dự án Khảo cứu VHCL gồm hai giai 
đoạn. Giai đoạn thứ nhất, dự án tập trung 
xác định các quy trình ĐBCL hiện có 
thông qua phiếu khảo sát để thu thập bằng 
chứng định lượng nhằm đạt được mục tiêu 
thứ nhất. Giai đoạn thứ hai của dự án tập 
trung vào mục tiêu thứ hai bao gồm các 
cuộc phỏng vấn diễn ra trong nửa đầu năm 
2011. Những người được phỏng vấn bao 
gồm một mẫu đại diện của các TC đã tham 
gia khảo sát và đồng ý sẵn sàng tham gia 
phỏng vấn. Mục đích của giai đoạn thứ hai 
là góp phần lí giải các dữ liệu định lượng 
trong giai đoạn thứ nhất. 
3.1 Giai đoạn 1 
Ở giai đoạn thứ nhất, một bảng hỏi 
điều tra bảy lĩnh vực thuộc phần 1 (ĐBCL 
bên trong gồm 7 nội dung: (1) Chính sách 
và các thủ tục ĐBCL; (2) Phê duyệt, giám 
sát và định kỳ đánh giá các chương trình; 
(3) Đánh giá SV; (4) ĐBCL đội ngũ giảng 
viên; (5) Tài nguyên học tập và hỗ trợ SV; 
(6) Hệ thống thông tin và (7) Công khai 
thông tin) của bộ tiêu chuẩn và nguyên tắc 
ĐBCL (ESGs) [2] được thiết kế để nắm bắt 
sự phát triển của quy trình ĐBCL trong các 
TC theo phương pháp định lượng (xem 
thêm báo cáo tập 1 – trang 41 [4]). Bảng 
hỏi gồm hai nội dung chính: (1) các câu hỏi 
liên quan đến sự phát triển của hệ thống, 
quan niệm ĐBCL bên trong và (2) các câu 
hỏi về ĐBCL giảng dạy và học tập có đáp 
ứng bộ tiêu chuẩn ESGs không. 
EUA khẳng định ĐBCL như một 
thành phần quan trọng của VHCL thể hiện 
50 
trong các yếu tố của VHCL thông qua định 
nghĩa VHCL: 
Văn hoá chất lượng dựa trên nền tảng 
văn hoá tổ chức với mục đích nâng cao 
chất lượng lâu dài và gồm 2 yếu tố: thứ 
nhất, yếu tố văn hoá / tâm lí của các giá 
trị, niềm tin, kỳ vọng được chia sẻ và cam 
kết hướng tới chất lượng. Thứ hai, yếu tố 
cấu trúc / quản lí với các quy trình đã xác 
định nhằm nâng cao chất lượng và nhằm 
mục đích trong việc phối hợp các nỗ lực cá 
nhân.[3]
Hình 1. Các yếu tố của VHCL (chuyển thể từ EUA 2006) 
Đối với ĐBCL người ta vẫn còn tranh 
luận về các hoạt động của nó như các hoạt 
động ĐBCL thuộc bộ chuẩn ESGs hoặc chỉ 
xác định trong phạm vi giảng dạy và học 
tập nhưng dự án khuyến khích các TC 
chấp nhận phương pháp tiếp cận bao hàm tất 
cả các hoạt động để phát triển các quy trình 
ĐBCL bên trong: một cách tiếp cận thích 
hợp cho các TC và xuất phát từ mục đích 
chiến lược phù hợp với nghệ thuật khai triển 
VHCL bên trong. Kết quả là họ đưa vào 
phiếu khảo sát một số câu hỏi liên quan đến 
khung ĐBCL của các TC nói chung cũng 
như các câu hỏi liên quan đến ĐBCL trong 
nghiên cứu và quản lí chiến lược. Tuy nhiên, 
nội dung chính của khảo sát vẫn tập trung 
vào ĐBCL giảng dạy và học tập theo lập 
luận của bộ tiêu chuẩn ESGs. 
Dữ liệu thu thập thông qua cuộc khảo 
sát cho thấy hầu hết các TC có cấu trúc và 
quy trình ĐBCL, có tiến bộ đáng kể trong 
những năm gần đây, mặc dù vẫn còn một 
số thách thức. Các quy trình ĐBCL phổ 
biến nhất vẫn là hoạt động giảng dạy và 
học tập chiếm 98,2%. 92,8% số TC có kế 
hoạch chiến lược cấp TC, chỉ có 3 TC 
không có và số còn lại có kế hoạch ở cấp 
đơn vị, khoa. Mỗi TC có chính sách ĐBCL 
với quy mô cơ cấu tổ chức khác nhau 
nhưng không có giải pháp cụ thể làm thế 
nào để thỏa thuận phân bố trách nhiệm 
trong toàn TC. Ngoài ra, dữ liệu chứng 
minh các tiến bộ đạt được là gần đây do 
trên 50% số TC đưa hệ thống ĐBCL vào từ 
năm 2005 (trong đó 16% đang thiết kế và 
lập kế hoạch). 
Dữ liệu khảo sát cho thấy sự phát triển 
ĐBCL trong khuôn khổ hiện tại của họ gần 
đây là rất kì diệu và đã có tiến bộ ấn tượng 
trong thập kỷ qua. Sự phát triển này trùng 
Sự thông tin 
Sự tham gia 
Niềm tin 
Quản lý chất lượng 
Yếu tố kĩ thuật 
Các công cụ và cơ chế để 
đo lường, đánh giá, đảm 
bảo và nâng cao chất 
lượng. 
Cam kết chất lượng 
Yếu tố văn hoá 
Cấp độ cá nhân: cam kết phấn 
đấu để đạt được chất lượng. 
Cấp độ tập thể: thái độ của 
mỗi cá nhân góp phần gia tăng 
chất lượng. 
Văn hóa Chất lượng 
Từ trên xuống 
Từ dưới lên 
 Tạo điều kiện thuận lợi 
51 
hợp với những phát triển chính sách châu 
Âu. Các phát hiện cho thấy rằng khi nói 
đến các quá trình thực tiễn và cấu trúc hỗ 
trợ trong ĐBCL, không có giải pháp phù 
hợp, ổn định và toàn diện khi quyết định 
những gì hệ thống ĐBCL của TC nên bao 
gồm. 
Các TC cho rằng, họ đang xây dựng 
các quy trình liên quan đến chất lượng và 
cơ cấu. Trong một số trường hợp, đôi khi 
vì khuôn khổ pháp lí nên các TC chưa thể 
đạt được kiểu VHCL mà họ đang phấn đấu. 
Rõ ràng, mục tiêu của các TC là VHCL 
được hỗ trợ bởi các quá trình ĐBCL. Tuy 
nhiên, các TC dường như đã tìm thấy cách 
thực hiện các quy trình ĐBCL. Hiệu quả và 
năng lực của các quy trình ĐBCL hiện tại 
cần tiếp tục kiểm tra chất lượng trong khi 
khảo sát không cho phép thu thập thông tin 
này. 
Các phương hướng chính được rút ra 
cho giai đoạn này là xác định phương 
hướng, nhận thức (có hệ thống ĐBCL cấp 
tổ chức, cần có thời gian và nỗ lực để phát 
triển VHCL, đảm bảo sự tham gia của các 
bên liên quan, hiểu biết thêm thông tin đầu 
vào, minh bạch trong thu thập thông tin) và 
tăng cường các hoạt động cần thiết để phát 
triển VHCL thông qua mục tiêu chiến lược 
hiệu quả và minh bạch. 
3.2 Giai đoạn 2 
Ở giai đoạn này, dự án thực hiện 59 
cuộc phỏng vấn với 10 trường ĐH của 10 
quốc gia (gồm Hiệu trưởng, Phó Hiệu 
trưởng, Trưởng / Phó đơn vị, khoa, SV, cán 
bộ ĐBCL) được lựa chọn từ các mẫu trả 
lời câu hỏi khảo sát để xác định mức độ 
các công cụ và quy trình ĐBCL đóng góp 
để xây dựng VHCL trong TC. Đặc biệt, tập 
trung vào việc thiết lập mối quan hệ giữa 
các quy trình ĐBCL và VHCL. Phỏng vấn 
tập trung chủ yếu vào giảng dạy và học tập, 
khuyến khích người được phỏng vấn thảo 
luận về những thành công, thất bại, thành 
tựu đạt được và thách thức. 
Qua các thông tin thu được từ 59 cuộc 
phỏng vấn kết hợp với dữ liệu thu thập 
được ở giai đoạn thứ nhất, dự án nhấn 
mạnh 5 điều kiện dẫn đến nền VHCL hiệu 
quả gồm (1) Quan tâm chi phí và lợi ích 
của những người tham gia gồm tài chính, 
yếu tố tâm lí (đừng để họ căng thẳng không 
cần thiết và khối lượng công việc không 
hợp lí) nếu họ thực sự đóng góp cho nền 
VHCL hiệu quả; (2) Sắp xếp hoạt động 
ĐBCL hiệu quả từ các quá trình và cấu trúc 
ra quyết định bên trong hiệu quả. Có phân 
cấp trách nhiệm rõ ràng ở các cấp. Giảm tệ 
quan liêu bằng cách hạn chế thu thập dữ 
liệu khi thật cần thiết. Tạo điều kiện thoải 
mái cho người học như ở nhà. Sự cân bằng 
tối ưu giữa nhu cầu cốt lõi của TC và mức 
độ trách nhiệm của giảng viên, giữa nhu 
cầu tiếp cận ĐBCL rộng lớn và một vài 
biến đổi cục bộ trong tập thể giảng viên; 
(3) Lãnh đạo tạo điều kiện thuận lợi để 
tranh luận nội bộ và chịu sự bất đồng quan 
điểm để đảm bảo quy trình ĐBCL không 
áp đặt; (4) Đầu tư con người qua phát triển 
nhân viên để tránh sắp xếp nhân viên 
ĐBCL trong nội bộ; (5) Tự chủ và tự tin là 
yếu tố then chốt trong năng lực của các TC 
để xác định chất lượng và mục đích của các 
quá trình ĐBCL bên trong. Ngoài ra, dự án 
còn kết luận các yếu tố thúc đẩy nền 
VHCL hiệu quả là (1) Các TC đặt trong 
môi trường “mở”, không phải qua quy định 
khắt khe và được niềm tin của công chúng, 
(2) Trường ĐH tự tin là không bị giới hạn 
trong việc xác định tập các quy trình 
ĐBCL của riêng mình, (3) VHCL nhấn 
mạnh dân chủ, trách niệm như tiếng nói 
của giảng viên, nhân viên và sinh viên như 
nhau, (4) Xác định vai trò đội ngũ giảng 
viên, nhấn mạnh công tác giảng dạy nhiều 
hơn chứ không chỉ tinh thông học thuật và 
năng lực nghiên cứu và (5) Các quy trình 
ĐBCL dựa trên các giá trị học thuật khi 
đang hướng đến các quy trình hành chính 
cần thiết. 
3.3 Một số nhận xét 
Trong quá trình triển khai dự án Khảo 
52 
cứu VHCL, kết luận dự án đưa ra 5 điều 
kiện dẫn đến nền VHCL mang tính chất 
hành động nhiều hơn so với nhận thức, 
chúng ta thấy rằng họ chủ yếu đề cập nhiều 
đến kết quả các hoạt động ĐBCL, đặc biệt 
tập trung hoạt động giảng dạy và học tập 
mà ít đề cập đến VHCL đã được hình thành 
như thế nào. Vì vậy, quá trình triển khai dự 
án này chỉ phù hợp với các nước có nền 
văn hóa phát triển nói chung và cộng đồng 
học thuật tiên tiến nói riêng, yếu tố về ý 
thức và nhận thức của họ về giáo dục cao 
hơn các nước chưa phát triển và sở hữu 
mức độ nhận thức chất lượng “đủ lớn” 
tương ứng với các hoạt động chất lượng 
đáp ứng nhu cầu cuộc sống chất lượng và 
luôn được kiểm soát chặt chẽ của xã hội. 
Đối với các nước chưa phát triển, khi triển 
khai các hoạt động ĐBCL ngoài mong đợi 
các kết quả nhận được hiệu quả, họ còn 
mong muốn nâng cao nhận thức chất lượng 
của mỗi cá nhân, tập thể trong TC, tránh 
gây nên “văn hoá hình thức”, che dấu bên 
trong. Lewis đã nhận định: Một nguy cơ có 
thể nhận thấy ở các TC là hình thành “văn 
hoá hình thức”, nghĩa là những nỗ lực của 
TC đó nhằm đạt được mức điểm kiểm định 
tích cực từ cơ quan ĐBCL bên ngoài thay 
vì thực sự cải tiến chất lượng bên trong 
TC; (2) Với hình thức này thì người ta sẽ 
che giấu những điểm yếu thay vì thể hiện ra 
bên ngoài để cơ quan bên ngoài đóng góp ý 
kiến, thảo luận định hướng và có biện pháp 
khắc phục những tồn tại và cải tiến chất 
lượng [1]. 
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về 
VHCL mang tính thời sự, lí luận, triết lí 
dựa trên kiến thức, kinh nghiệm hoặc trải 
nghiệm qua quá trình làm việc, ảnh hưởng 
bởi bối cảnh và văn hoá hiện tại. 
Tóm lại, có thể nói khi mức độ nhận 
thức chất lượng của một TC đủ lớn thì họ 
quan tâm đến kết quả thực hiện các hoạt 
động và hoạt động ĐBCL trong TC. Ngược 
lại, họ tập trung vào việc nâng cao nhận 
thức trách nhiệm và nhận thức chất lượng 
trong các mặt hoạt động. 
4. KẾT LUẬN 
Thông qua kết quả khảo sát, dự án có 
thể chứng minh các TC đang phát triển các 
quy trình ĐBCL một cách đúng đắn. Mỗi 
TC là mỗi trường hợp khác nhau, một số 
đang phát triển rất tốt trong các lĩnh vực 
nhất định, một số TC khác chỉ mới bắt đầu 
cuộc hành trình ĐBCL. Bên cạnh đó còn 
có một số thách thức, khó khăn hoặc cạm 
bẫy. Dự án hy vọng có thể hỗ trợ những 
TC đang thực hiện các hoạt động này hiểu 
rõ hơn tình huống của mình để tìm giải 
pháp khắc phục. 
Kết quả khảo sát chứng minh các cách 
thức và mức độ thực hiện khác nhau. Các 
TC đã lựa chọn các kết hợp khác nhau của 
các quá trình để phù hợp với văn hoá và 
cấu trúc của TC. Bên cạnh đó, dữ liệu cũng 
chỉ ra rằng vẫn còn nhiều việc phải làm để 
hoàn thiện phần 1 của bộ chuẩn ESGs. 
Cuối cùng, mặc dù có nhiều việc đã 
đạt được trong ĐBCL và nâng cao chất 
lượng trong các TC nhưng họ vẫn còn phải 
thực hiện nhiều hơn nữa để có được VHCL 
đúng nghĩa. Điều này đòi hỏi trách nhiệm 
chung của lãnh đạo, quản lí TC và cộng 
đồng các trường ĐH cũng như tối ưu hoá 
mối liên hệ giữa ĐBCL bên trong và bên 
ngoài. 
Chú thích: 
1
 ESGs – European Standards and Guidelines 
for Quality Assurance in the European 
Higher Educaiton Area xây dựng dựa trên 
đề xuất của nhóm E4 (ENQA, ESU, EUA 
và EURASHE) vào năm 2005, là một hoạt 
động trong tiến trình Bologna. 
53 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Richard Lewis (2012), Những xu thế quốc tế nổi bật trong lĩnh vực phát triển hệ thống 
ĐBCL GDĐH, Báo cáo tập huấn Xây dựng hệ thống ĐBCL và VHCL bên trong các 
trường ĐH, 22-24/02/2012, Vinh. 
2. European Association for Quality Assurance in Higher Education (2009), Standards 
and Guidelines for Quality Assurance in the European Higher Education Area, ENQA 
Publications. 
3. European University Association (2006), Quality Culture in European Universities: A 
Bottom-up Approach, Report on the three rounds of the quality culture project 2002 - 
2006, EUA Publications. 
4. Tia Loukkola, Thérèse Zhang (2010), Examining Quality Culture: Part I - Quality 
Assurance Processes in Higher Education Institutions, EUA Publications. 
5. Andrée Sursock (2011), Examining Quality Culture: Part II - Processes and Tools - 
Participation, Ownership and Bureaucracy, EUA Publications. 
6. Oliver Vettori (2012), Examining Quality Culture: Part III - From self-reflection to 
enhancement, EUA Publications. 
* Ngày nhận bài: 15/1/2014. Biên tập xong: 

File đính kèm:

  • pdfkhao_cuu_van_hoa_chat_luong_trong_giao_duc_dai_hoc_chau_au.pdf