Khảo sát việc sử dụng thuốc giảm đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Thống Nhất năm 2013
TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ2) đã được các khuyến cáo cập nhật thường xuyên. Tuy nhiên trong thực tiễn lâm sàng việc tuân thủ theo khuyến cáo khác nhau tùy theo bệnh viện và chuyên khoa của bác sĩ. Mục tiêu: Tìm hiểu cơ cấu và nhận xét sơ bộ về việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị ĐTĐ2 tại Bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 205 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nội trú có chẩn đoán ĐTĐ2 và được chỉ định các thuốc hạ đường huyết, từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2013, gồm 64,6% bệnh nhân nam và 35,6% bệnh nhân nữ, với tuổi trung bình là (71,4 ± 12,1). Kết quả nghiên cứu: Các nhóm thuốc chống tăng đường huyết được sử dụng theo thứ tự là biguanid (56,6%), insulin (54,1%), sulfonylurea (43,4%) và ức chế DPP‐4 (1,5%). Việc sử dụng metformin như lựa chọn đầu tiên trong các phác đồ chiếm 41,5%, trong đó tỷ lệ metformin dùng đơn độc (11,2%), metformin kết hợp thêm một thuốc khác (33,2%) và metformin kết hợp với hai thuốc khác (9,3%). Số thuốc hạ đường huyết trong các phác đồ: phác đồ chỉ có 1 thuốc chiếm 50,3% (trong đó 29,3% insulin đơn độc, 11,2% metformin đơn độc và 9,8% gliclazid đơn độc), phác đồ gồm hai thuốc chiếm 38,1% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp gliclazid cao nhất 17,6%) và phác đồ gồm 03 thuốc chỉ chiếm 9,3% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp với insulin và gliclazid là cao nhất 7,3%). Kết luận: Các thuốc chống tăng đường huyết hiện tại được sử dụng tại bệnh viện Thống Nhất chỉ gồm 4 nhóm là biguanid, insulin, sulfonylurea và ức chế DPP‐4. Số thuốc hạ đường huyết trong phác đồ gồm một thuốc hoặc hai thuốc hoặc ba thuốc và không có phác đồ gồm bốn thuốc hạ đường huyết. Việc không chọn metformin đầu tiên trong phác đồ điều trị ĐTĐ2 chưa cao trong khi đó tỷ lệ dùng insulin ở người lớn tuổi thì khá cao
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát việc sử dụng thuốc giảm đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 tại Bệnh viện Thống Nhất năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 305 KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG THUỐC GIẢM ĐƯỜNG HUYẾT TRONG ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2013 Phạm Thị Thu Hiền*, Lê Đình Thanh*, Nguyễn Văn Thành*, Nguyễn Đức Công* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ2) đã được các khuyến cáo cập nhật thường xuyên. Tuy nhiên trong thực tiễn lâm sàng việc tuân thủ theo khuyến cáo khác nhau tùy theo bệnh viện và chuyên khoa của bác sĩ. Mục tiêu: Tìm hiểu cơ cấu và nhận xét sơ bộ về việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị ĐTĐ2 tại Bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 205 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nội trú có chẩn đoán ĐTĐ2 và được chỉ định các thuốc hạ đường huyết, từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2013, gồm 64,6% bệnh nhân nam và 35,6% bệnh nhân nữ, với tuổi trung bình là (71,4 ± 12,1). Kết quả nghiên cứu: Các nhóm thuốc chống tăng đường huyết được sử dụng theo thứ tự là biguanid (56,6%), insulin (54,1%), sulfonylurea (43,4%) và ức chế DPP‐4 (1,5%). Việc sử dụng metformin như lựa chọn đầu tiên trong các phác đồ chiếm 41,5%, trong đó tỷ lệ metformin dùng đơn độc (11,2%), metformin kết hợp thêm một thuốc khác (33,2%) và metformin kết hợp với hai thuốc khác (9,3%). Số thuốc hạ đường huyết trong các phác đồ: phác đồ chỉ có 1 thuốc chiếm 50,3% (trong đó 29,3% insulin đơn độc, 11,2% metformin đơn độc và 9,8% gliclazid đơn độc), phác đồ gồm hai thuốc chiếm 38,1% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp gliclazid cao nhất 17,6%) và phác đồ gồm 03 thuốc chỉ chiếm 9,3% (trong đó tỷ lệ metformin kết hợp với insulin và gliclazid là cao nhất 7,3%). Kết luận: Các thuốc chống tăng đường huyết hiện tại được sử dụng tại bệnh viện Thống Nhất chỉ gồm 4 nhóm là biguanid, insulin, sulfonylurea và ức chế DPP‐4. Số thuốc hạ đường huyết trong phác đồ gồm một thuốc hoặc hai thuốc hoặc ba thuốc và không có phác đồ gồm bốn thuốc hạ đường huyết. Việc không chọn metformin đầu tiên trong phác đồ điều trị ĐTĐ2 chưa cao trong khi đó tỷ lệ dùng insulin ở người lớn tuổi thì khá cao. Từ khóa: Đái tháo đường týp 2, metformin, phác đồ. ABSTRACT THE INVESTIGATION OF USING HYPOGLYCEMIC DRUGS FOR TREATMENT OF TYPE 2 DIABETES AT THONG NHAT HOSPITAL IN 2013 Pham Thi Thu Hein, Le Dinah Than, Nguyen Van Than, Nguyen Duck Cong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 305 ‐ 310 Background: The using of hypoglycemic drugs for type 2 diabetes treatment was updated by recommendations in the world. However, the compliance recommendations in clinical reality is different from hospitals and speciality of doctors. Objectives: Finding the structure of using hypoglycemic drugs in type 2 diabetic patients and primarily evaluating of using hypoglycemic drugs in therapeutic protocols at Thong Nhat hospital in 2013. * Bệnh viện Thống Nhất TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS.TS.Nguyễn Đức Công ĐT: 0982160860 Email: cong1608@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 306 Study method: A retrospective, cross‐sectional descriptive study from January to May 2013 of 205 inpatient reports with diagnosis of type 2 diabetes and prescribed by hypoglycemic drugs. Including 64.6% male and 35.6% female, the mean of age was 71.4 ± 12.1. Results: The groups of antihyperglycemic drugs were biguanid (56.6%), insulin (54.1%), sulfonylurea (43.4%) and DPP‐4 inhibitor (1.5%). The protocol with metformin in the initiation of pharmacotherapy for type 2 diabetes was 41.5%, the metformin of monotherapy (11.2%), metformin in combination therapy with one hypoglycemic drug (33.2%), metformin in combination therapy with two other hypoglycemic drugs (9.3%). Number of hypoglycemic drugs in the regimens: monotherapy regimen was 50.3% (including of 29.3% insulin, 11.2% metformin and 9.8% gliclazid); the regimen of two hypoglycemic drugs were 38.1% (combination with gliclazid was the highest 17.6%) and the regimens of three hypoglycemic drugs were 9.3% (combination metformin with gliclazid and insulin was the highest 9.3%). Conclusions: There were only 4 groups of antihyperglycemic drugs using at Thong Nhat hospital in this study (biguanid, insulin, sulfonylurea and DPP‐4 inhibitor. Number of hypoglycemic drugs in the rigmens were only one or two or three and not finding the regimen of 4 hypoglycemic drugs. The protocol with metformin in the initiation of pharmacotherapy for treatment of type 2 diabetes was not high and total combination regimens with insulin were rather high in this study. Keywords: Type 2 diabetes mellitus, metformin, regimens. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh lý thuộc nhóm bệnh chuyển hóa, mạn tính chiếm tỷ lệ khoảng 60 % ‐ 70% trong số các bệnh nội tiết và gây ra tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng(6,11). Các thử nghiệm lâm sàng chứng minh rằng, sử dụng thuốc hợp lý để kiểm soát đường huyết và HbA1c trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có thể làm chậm tiến triển bệnh và hạn chế tối đa những biến chứng trên cơ quan đích(2,6). Việc sử dụng các thuốc hạ đường huyết trong điều trị đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ2) đã được các khuyến cáo cập nhật thường xuyên. Tuy nhiên trong thực tiễn lâm sàng việc tuân thủ theo khuyến cáo khác nhau tùy theo bệnh viện và chuyên khoa của bác sĩ. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát việc sử dụng thuốc điều trị đái tháo đường týp 2 tại BV Thống Nhất năm 2013”, với các mục tiêu: Tìm hiểu cơ cấu các loại thuốc điều trị ĐTĐ týp 2. Sơ bộ nhận xét về việc kê đơn các thuốc điều trị hạ đường huyết trong các phác đồ điều trị bệnh nhân đái tháo đường týp 2 tại bệnh viện. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân được chẩn đoán ĐTĐ týp 2, có chỉ định sử dụng hạ glucose máu, tại Bệnh viện Thống Nhất – TP Hồ Chí Minh, từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2013. Phương pháp nghiên cứu Mô tả cắt ngang. Thu thập các chỉ tiêu Đặc điểm dịch tễ của bệnh nhân (tuổi, giới, BMI). Chỉ số cận lâm sàng (nồng độ Cr/máu, độ thanh thải creatinin ‐ ClCr). Thuốc và nhóm thuốc điều trị đái tháo đường, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng metformin theo phác đồ khuyến cáo trong đồng thuận EASD/ADA 2012(3). Xử lý số liệu Trên phần mềm Microsoft Excel 2010. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 307 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm của bệnh nhân. Đặc điểm Số lượng (%) Giới Nam 132 (64,6%) Nữ 73 (35,6%) Tuổi Dưới 60 tuổi 28 (13,7%) 60 ≤ tuổi ≤ 70 62 (30,2%) 70 < tuổi ≤ 80 60 (29,3%) 70 < tuổi ≤ 80 55 (26,8%) Nhỏ nhất 35 Cao nhất 95 Trung bình ± 12,1 Creatinin Clearance (ClCr) 141 (68,8%) BMI 161 (78,5%) Các bệnh mắc kèm Tăng huyết áp 138 (67,3%) Bệnh tim mạch khác 69 (33,7%) Bệnh tiêu hóa 36 (17,6%) Bệnh hô hấp 21 (10,2%) Suy thận 15 (7,3%) Nhiễm khuẩn nặng 5 (2,4%) Hôn mê 3 (1,5%) Đặc điểm dịch tễ của bệnh nhân được trình bày trong bảng 1. Trong 205 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn nữ khoảng 1,8 lần. Với độ tuổi trung bình là 71,.4 ± 12,1 và số bệnh nhân trên 60 tuổi nhiều hơn 6 lần so với bệnh nhân ở độ tuổi dưới 60. Bệnh nhân cao tuổi nên đa số đều có bệnh kèm theo bên cạnh đái tháo đường, do một bệnh nhân có thể có nhiều hơn một bệnh kèm, nên tổng số tỷ lệ các bệnh kèm được trình bày trong bảng 1 cao hơn 100%. Ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy nhóm bệnh lý tim mạch chiếm tỷ lệ cao nhất, đặc biệt là tăng huyết áp (67,3%). Chức năng thận không được đánh giá trên tất cả các bệnh nhân, chỉ có 141 (68,8%) bệnh nhân được làm xét nghiệm creatinin/máu và đánh giá chức năng thận dựa vào độ thanh thải creatinin. Đây là một kết quả đáng được chú ý, do một số thuốc điều trị đái tháo đường không được khuyến cáo sử dụng cho bệnh nhân suy thận. Thuốc và các phác đồ điều trị Tỷ lệ các thuốc và các nhóm thuốc đái tháo đường Bảng 2. Các thuốc và các nhóm thuốc đái tháo đường. STT Thuốc và nhóm thuốc Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Insulin 111 54,1 2 Sulfonylureas Gliclazid 83 40,5 43,4Glimepirid 1 0,5 Glibenclamid 5 2,4 3 Biguanid Metformin 116 56,6 6 Ức chế DPP-4 * Sitagliptin 3 1,5 Ức chế DPP‐4: Dipeptidyl peptidase‐4 inhibitors. Trong số các bệnh án khảo sát, nhóm thuốc biguanid (metformin) và insulin được chỉ định với tỷ lệ khá tương đồng nhau (1:1), kế đến sulfonylureas. Nhóm thuốc mới ức chế DPP‐4 (sitagliptin) vẫn còn chỉ định hạn chế. Tỷ lệ sử dụng metformin cho bệnh nhân đái tháo đường týp 2 (theo đồng thuận EASD/ADA 2012) Bảng 3. Tỷ lệ sử dụng metformin trong các phác đồ điều trị theo đồng thuận EASD/ADA 2012. TT Sử dụng metformin Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Metformin được lựa chọn bước 1 85 41,5 2 Metformin đơn độc 23 11,2 3 Metformin + Sulfonylurea 45 22,0 4 Metformin + Insulin 23 11,2 5 Metformin + Ức chế DPP-4 0 0 6 Metformin + đồng vận thụ thể GLP-1 0 0 7 Metformin + Sulfonylurea + Ức chế DPP-4 2 1,0 8 Metformin + Ức chế DPP-4 + Insulin 1 0,5 Trong các phác đồ điều trị đái tháo đường týp 2, kể cả phác đồ mới của EASD/ADA 2012, metformin luôn được lựa chọn đầu tiên trong các thuốc hạ đường huyết(4). Những bệnh nhân được xếp trong nhóm metformin lựa chọn đầu tay là những bệnh nhân được kê metformin đầu tiên khi bắt đầu dùng thuốc điều trị đái tháo đường týp 2, có thể dùng đơn độc metformin hoặc có thể kết hợp với các thuốc điều trị hạ đường huyết khác. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 308 Theo khảo sát của chúng tôi trên tất cả những phác đồ có sử dụng metformin, metformin có thể được sử dụng trong các phác đồ 1 thuốc, kết hợp 2 thuốc hoặc 3 thuốc. Trong đó, khi so sánh với phác đồ của EASD/ADA 2012, metformin được dùng chủ yếu làm lựa chọn đầu tay và phối hợp với một thuốc sulfonylurea, với tỷ lệ tương ứng là 41,5% và 22,0%. Không ghi nhận trường hợp sử dụng phối hợp metformin và thuốc ức chế DPP‐4; hoặc metformin và thuốc đồng vận thụ thể GLP‐1. Các phác đồ điều trị khác Bảng 4. Các phác đồ điều trị ĐTĐ týp 2 trong mẫu nghiên cứu. Nhóm Phác đồ Số lư ợn g Tỷ lệ (%) 01 thuốc (50,3%) Insulin đơn độc 60 29,3 Metformin đơn độc 23 11,2 Gliclazid đơn độc 20 9,8 02 thuốc (38,1%) Metformin + Insulin 23 11,2 Metformin + Gliclazid 36 17,6 Metformin + Glimepirid 6 2,9 Metformin + Glibenclamid 3 1,5 Insulin + Gliclazid 10 4,9 03 thuốc (11,6%) Metformin + Insulin + Gliclazid 15 7,3 Metformin + Insulin + Glibenclamid 2 0,5 Metformin + Insulin + Ức chế DPP-4 1 0.5 Metformin + Glimepirid + Ức chế DPP-4 2 0.5 Metformin + Glimepirid + Insulin 1 0.5 Khảo sát trên toàn bộ bệnh nhân được nghiên cứu, với phác đồ sử dụng 1 thuốc, insulin hay được chỉ định nhiều hơn khoảng 2 lần so với metformin hoặc gliclazid đơn độc. Điều này chứng tỏ, có một tỷ lệ khá lớn bệnh nhân đái tháo đường týp 2 không kiểm soát được được đường huyết bằng thuốc đường uống nên phải chuyển dùng insulin đơn độc. Ngược lại, trong phác đồ 2 thuốc, metformin và gliclazid là lựa chọn ưu tiên nhất, với tỷ lệ 17,6%. Bệnh nhân được sử dụng phác đồ 1 thuốc chiếm tỷ lệ cao nhất (50,3%), tiếp đến là nhóm 02 thuốc (38,1%) và cuối cùng là nhóm gồm 03 thuốc (11,6%). Các phác đồ điều trị ĐTĐ týp 2 trong mẫu nghiên cứu được trình bày cụ thể ở bảng 4. BÀN LUẬN Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Theo nghiên cứu dịch tễ bệnh đái tháo đường của Wild S. và cộng sự tiến hành năm 2004, với kết quả được sử dụng cho tất cả 191 nước thành viên của Tổ chức y tế thế giới. Tỷ lệ bệnh nhân nam bị đái tháo đường cao hơn nữ, nghiên cứu của chúng tôi cũng đưa ra tỷ lệ phù hợp với mô hình chung ‐ bệnh nhân nam cao hơn bệnh nhân nữ. Tuy nhiên, một trong những yếu tố có thể ảnh hưởng đến chỉ số này là mô hình bệnh nhân ở bệnh viện Thống Nhất thông thường là bệnh nhân nam cao hơn nữ, do đặc thù bệnh viện phục vụ cán bộ cách mạng cấp cao. Cũng theo nghiên cứu trên, bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên có tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường týp 2 cao hơn, nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả khá tương đồng với tỷ lệ bệnh nhân trên 60 tuổi cao gấp gần 6 lần so với nhóm đối tượng dưới 60, và đa số bệnh nhân từ 60‐70 tuổi(11). Bệnh nhân thuộc nhóm nghiên cứu chủ yếu mắc các bệnh kèm về tim mạch. Schutta MH. thực hiện nghiên cứu năm 2007 về dịch tễ và mối quan hệ giữa bệnh lý đái tháo đường và các bệnh lý kèm theo. Nghiên cứu cho thấy đái tháo đường và tăng huyết áp là cặp bệnh thường gặp nhất, dẫn tới những nguy cơ tim mạch nguy hiểm. Tăng huyết áp là bệnh lý kèm thường gặp nhất đối với bệnh nhân ĐTĐ týp 1 và 2, chiếm tỷ lệ 75% trong số tất cả các bệnh kèm(8). So với nghiên cứu Schutta MH. tỷ lệ bệnh kèm tăng huyết áp trong nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng – 67,3%. Theo chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống tăng huyết áp nói chung và tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường nói riêng, tăng huyết áp là yếu tố làm tăng mức độ nặng của ĐTĐ, ngược lại ĐTĐ cũng làm cho tăng huyết áp trở nên khó điều trị hơn. Tỷ lệ tăng huyết áp ở người ĐTĐ cao gấp 2 lần so với người không bị ĐTĐ(8). Bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đa số mắc từ 2 bệnh kèm trở lên. Theo nghiên cứu của tác giả Đỗ Chí Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 309 Cường (2011) về mô hình bệnh tật tại Bệnh viện Thống Nhất thì bệnh nhân tại bệnh viện thống nhất mắc trung bình 4,5 bệnh/ bệnh nhân(7). Việc đánh giá chức năng thận của bệnh nhân trước khi cho thuốc là một việc làm quan trọng và cần thiết để đảm bảo dược hiệu quả điều trị và hạn chế tác dụng không mong muốn trên bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân được đánh giá chỉ số ClCr (68,8%), tỷ lệ này là rất khiêm tốn. Một số thuốc điều trị đái tháo đường chống chỉ định cho đối tượng bệnh nhân suy giảm chức năng thận, việc kiểm tra chức năng thận sẽ giúp bác sĩ đưa ra những chỉ định thuốc đùng và kiểm soát tác dụng không mong muốn trên thận của thuốc. Chỉ có BMI (78,5%) được đo BMI, những bệnh nhân còn lại ở tình trạng hôn mê hoặc cấp cứu nên không tiến hành cân đo cho bệnh nhân để thiết lập các chỉ số trên khi nhập viện. Tuy nhiên trong nhóm bệnh nhân được khảo sát BMI, bệnh nhân thừa cân béo phì chiếm tỷ lệ 25,6%, điều này phù hợp với nghiên cứu của Wild S., béo phì có thể là yếu tố nguy cơ của đái tháo đường hoặc làm trầm trọng tình trạng bệnh. Việc sử dụng thuốc Nhóm thuốc biguanid được sử dụng nhiều nhất, chiếm (56,6%) kết quả này phù hợp với xu hướng điều trị trên thế giới. Đồng thuận EASD/ADA 2012 đã khuyến cáo nên lựa chọn metformin trong bước 1 trong phác đồ và kết quả nghiên cứu trên cho phác đồ này chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 41,5%). Tỷ lệ sử dụng metformin trong các phác đồ điều trị cho bệnh nhân đái tháo đường týp 2 cần được tăng thêm. Bằng chứng của các nghiên cứu hiện nay trên thế giới cho thấy lợi ích của đem lại cho những bệnh nhân bị đái tháo đường có kèm suy tim mạn và có thể dùng cho những bệnh nhân có eGFR < 30(5). Nghiên cứu UKPDS đã chỉ ra việc sử dụng metformin làm giảm các nguyên nhân tử vong và nhồi máu cơ tim trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2(10). Các nghiên cứu đang quan tâm hướng đến việc đánh giá lợi ích của metformin trên khả năng ngăn ngừa ung thư. Hiện nay, có khoảng 50 nghiên cứu trên thế giới hướng đến khả năng ngừa ung thư trên nhóm bệnh nhân không bị đái tháo đường(5). Trong nhóm bệnh nhân đái tháo đường týp 2 dùng đơn trị liệu (01 thuốc hạ đường huyết) thì Insulin đơn độc chiếm tỷ lệ cao nhất (29,3%), việc sử dụng này hoàn toàn hợp lý vì đặc điểm của bệnh nhân của bệnh viện Thống Nhất cao tuổi, đa bệnh lý; đặc biệt các bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có kèm nhồi máu cơ tim, các bệnh lý tim mạch nặng, suy gan, suy thận, nhiễm khuẩn, hôn mê hay tiền hôn mê thì việc sử dụng insulin là chỉ định bắt buộc(6). Acarbose là một tetrasacharid chống đái tháo đường, ức chế men alpha‐glucosidase ruột đặc biệt là sucrose, làm chậm tiêu hóa và hấp thu carbohydrate. Thuốc acarbose không thấy được kê trong nhóm nghiên cứu, có thể do lượng thức ăn trong một bữa người cao tuổi không nhiều; hoặc có thể các bác sĩ lo ngại tác dụng phụ đầy hơi, tiêu chảy. Cũng có thể do bản chất của thuốc được hấp thu qua đường tiêu hóa kém và đòi hỏi chuyển hóa ở ruột do vi khuẩn đường ruột, các yếu tố này lại là trở ngại đối với các đối tượng bệnh nhân lớn tuổi tại bệnh viện Thống Nhất. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị các bác sĩ vẫn có thể cân nhắc điều trị phối hợp với các thuốc nhóm sulfonylurea để kiểm soát đường huyết cho bệnh nhân(6). Nhóm ức chế DPP‐4 (dipeptidyl peptidase‐4 inhibitors) hiện tại chưa được sử dụng phổ biến tại bệnh viện (chỉ chiếm 1,5%) do giá thành điều trị so với các thuốc nhóm khác còn tương đối cao. Trong các năm tới có lẽ số lượng sử dụng các thuốc trong nhóm này sẽ tăng lên vì hiệu quả và các lợi ích vượt trội của chúng(4). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu khảo sát, chúng tôi ghi nhận về thuốc sử dụng để điều trị đái tháo đường týp 2 và các phác đồ kết hợp sử dụng thuốc hạ đường huyết tại bệnh viện Thống Nhất. Nhóm thuốc được sử dụng phổ biến nhất tại bệnh viện hiện nay là biguanid và insulin. Kinh nghiệm về sử dụng các nhóm thuốc mới Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 310 như thuốc ức chế DPP‐4 và đồng vận thụ thể GLP‐1 còn hạn chế. Metformin được lựa chọn nhiều nhất trong các phác đồ kết hợp 2 thuốc. So với khuyến cáo mới của EASD/ADA 2012, việc sử dụng thuốc ở bệnh viện Thống Nhất là khá phù hợp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu này, chúng tôi đề nghị cần phải theo dõi chức năng thận chặt chẽ hơn nữa trên tất cả các đối tượng bệnh nhân đái tháo đường, điều này không chỉ đánh giá được biến chứng thận của bệnh nhân, mà còn góp phần vào quyết định chỉ định thuốc hợp lý cho bệnh nhân. Các nghiên cứu tiếp theo với quy mô rộng hơn, thời gian khảo sát lâu hơn và thiết kế phân tích cần được tiến hành để đánh giá chính xác các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ định thuốc và hiệu quả điều trị lâu dài trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ACCORD Study Group et al (2010). Effects of intensive blood‐ pressure control in type 2 diabetes mellitus. N Engl J Med.;362:1575. 2. Action to Control Cardiovascular Risk in Diabetes Study Group et al (2008). Effects of intensive glucose lowering in týpe 2 diabetes. N Engl J Med;358:2545. (47) 3. American Diabetes association. Position Statement Management of Hyperglycemia in T2, 2012. 4. Barbara G., et al. (2009), Pharmacotherapy Handbook; 18:181‐ 195. 5. Campell I.W (2010). Drugs in týpe 2 diabetes: their properties and recommended use. Prescriber; 21: 19‐39. 6. Dược thư Quốc gia Việt Nam (2011). 7. Đỗ Chí Cường (2011), Mô hình bệnh của người cao tuổi tại Bệnh viện Thống Nhất năm 2009, Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Y khoa – ĐH Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Mary Anne Koda‐Kimble et al., Applied Therapeutics: The Clinical Use of Drugs, 10th ed., Lippincott Williams & Wilkins, 2013, 1223‐1300. 8. Hội tim mạch học Việt Nam. Chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống tăng huyết áp, 2006 9. Schutta MH. (2007). Diabetes and hypertension: epidemiology of the relationship and pathophysiology of factors associated with these comorbid conditions. J Cardionmetab Syndr; 2(2): 124‐130. 10. UK Prospective Diabetes Study (UKPDS) Group. Effect of intensive blood glucose control with metformin on complications in overweight patients with type 2 diabetes (UKPDS 34); 352: 854‐865. 11. Wild S., Roglic G., Green A., et al. (2004). Global Prevalence of Diabetes. Diabetes Care, 27:1047–1053. Ngày nhận bài báo 01‐7‐2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08‐7‐2013 Ngày bài báo được đăng: 01‐8‐2013
File đính kèm:
- khao_sat_viec_su_dung_thuoc_giam_duong_huyet_trong_dieu_tri.pdf