Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định kiến thức, thái độ và thực hành lâm sàng về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng tại khoa Hồi Sức Cấp Cứu. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Điều dưỡng đang làm việc tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy được mời tham gia nghiên cứu từ tháng 2/2010 đến tháng 6/2010, được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0. Kết quả: 81 điều dưỡng tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè là lần lượt là 85,2% và 80,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hành đúng còn thấp (43,2%). Có sự liên quan giữa kiến thức và thái độ, giữa thái độ và thực hành nhưng không tìm thấy sự liên quan giữa kiến thức đúng và thực hành đúng. Kết quả cũng cho thấy rằng những ĐD được học tập về phòng ngừa loét do tỳ tè trong khoảng thời gian một năm thì có kiến thức đúng cao hơn Kết luận: tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè cao nhưng lại không tương ứng với tỷ lệ thực hành

pdf 7 trang yennguyen 2460
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu

Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 1 
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT 
DO TỲ ĐÈ CỦA ĐIỀU DƯỠNG KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU 
Đồng Nguyễn Phương Uyển*, Lê Thị Anh Thư** 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định kiến thức, thái độ và thực hành lâm sàng về phòng ngừa loét do tỳ đè của 
điều dưỡng tại khoa Hồi Sức Cấp Cứu. 
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Điều dưỡng đang làm việc tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện 
Chợ Rẫy được mời tham gia nghiên cứu từ tháng 2/2010 đến tháng 6/2010, được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi. 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0. 
Kết quả: 81 điều dưỡng tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa 
loét do tỳ đè là lần lượt là 85,2% và 80,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hành đúng còn thấp (43,2%). Có sự liên quan 
giữa kiến thức và thái độ, giữa thái độ và thực hành nhưng không tìm thấy sự liên quan giữa kiến thức đúng và 
thực hành đúng. Kết quả cũng cho thấy rằng những ĐD được học tập về phòng ngừa loét do tỳ tè trong khoảng 
thời gian một năm thì có kiến thức đúng cao hơn 
Kết luận: tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè cao nhưng lại không 
tương ứng với tỷ lệ thực hành. 
Từ khóa: loét do tỳ đè, điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu, kiến thức, thái độ, thực hành. 
ABSTRACT 
KNOWLEDGE, ATTITUDES AND PRACTICE OF CRITICAL CARE NURSING STAFF CONCERNING 
PRESSURE ULCER PREVENTION AND TREATMENT 
Dong Nguyen Phuong Uyen, Le Thi Anh Thu 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 1 - 7 
Objectives: The aim of this study was to investigate knowledge, attitudes and practice regarding pressure 
ulcer prevention and treatment of critical care nursing. 
Design: A cross-sectional survey method was used. 
Material and Methods: Staff nurses working in medicalsurgical intensive care unit at Cho Ray hospital in 
HCM city, Viet Nam was invited to participate from February to June 2010. Data were collected using a 
questionnaire. Data analysis was carried out using SPSS version 10.0. 
Results: 81 staff nurses participated in the survey. The correct knowledge and attitudes of pressure ulcer was 
85.2% and 80.2%, respectively, but correct practice was only 43.2%. There was a relationship between knowledge 
and attitudes, between attitudes and practice but not relationship between knowledge and practice of preventive 
pressure ulcers. In other hand, the nurses, attending a lecture about pressure ulcer prevention every year, could 
improve on their knowledge. 
Conclusions: Nursing staffs in intensive care unit had good knowledge and attitudes to pressure ulcer 
prevention but not improve on practice. 
Key words: pressure ulcers prevention, critical care nursing staff, knowledge, attitudes, practice. 
*Khoa Hồi sức cấp cứu, BV Chợ Rẫy; **Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, BC Chợ Rẫy. 
Tác giả liên lạc: CN Đồng Nguyễn Phương Uyển ĐT: 0919.646.654 Email: phuonguyen_1216@yahoo.com.vn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 2 
ĐẶT VẤN ĐỀ. 
Loét do tỳ đè (LDTĐ) là một biến chứng 
thường gặp ở những bệnh nhân nằm bất động 
như: chấn thương cột sống, tai biến mạch máu 
não, gãy hai chi dưới, đái tháo đường, bỏng, 
bệnh nhân đa chấn thương. Ngày nay LDTĐ là 
vấn đề sức khỏe đang được quan tâm hàng đầu 
ở tất cả các bệnh viện trên thế giới đặc biệt là 
những khoa Hồi Sức Cấp Cứu. Mỗi năm có hơn 
1,6 triệu bệnh nhân (BN) trên thế giới bị LDTĐ 
khi nằm viện(1) tỷ lệ LDTĐ ở các khoa phòng 
trung bình 10% - 15% và ở các khoa HSCC từ 
30% - 60%(3). 
LDTĐ là một trong những nguyên nhân 
hàng đầu kéo dài thời gian nằm viện, làm tăng 
chi phí điều trị, thời gian chăm sóc và còn là 
nguyên nhân làm tăng tỷ lệ tử vong. Những BN 
bị LDTĐ trong vòng 6 tuần khi nằm viện thì 
nguy cơ tử vong tăng gấp 3 lần so với những 
BN không bị LDTĐ(1). Do đó, BN cần phải được 
phòng ngừa LDTĐ ngay khi nhập viện. Để 
phòng ngừa LDTĐ hiệu quả đòi hỏi người ĐD 
phải có kiến thức, sự hiểu biết sâu rộng, vững 
vàng về tổn thương và những biện pháp phòng 
ngừa LDTĐ, để từ đó có thái độ đúng và thực 
hành tốt việc chăm sóc phòng ngừa. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm 
đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành 
lâm sàng về phòng ngừa loét do tỳ đè của 
điều dưỡng Khoa Hồi Sức Cấp Cứu bệnh 
viện Chợ Rẫy. 
Mục tiêu chuyên biệt bao gồm 
1. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức 
đúng, thái độ đúng và thực hành đúng về 
phòng ngừa loét do tỳ đè. 
2. Xác định mối liên hệ giữa kiến thức, thái 
độ và thực hành lâm sàng và các yếu tố ảnh 
hưởng đến thực hành chăm sóc phòng ngừa loét 
do tỳ đè. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu 
Tất cả những ĐD đang làm việc tại khoa 
HSCC, bệnh viện Chợ Rẫy 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
ĐD đang nghỉ hậu sản, nghỉ ốm, đi công tác 
ở nơi khác trong thời gian nghiên cứu. 
ĐD từ chối tham gia nghiên cứu. 
Thời gian thu thập số liệu: từ tháng 2/2010 
đến tháng 6/2010. 
Phương pháp thu nhập số liệu 
Người nghiên cứu giải thích rõ ý nghĩa và 
lợi ích của NC cho tất cả các ĐD tham gia, sau 
đó trực tiếp phỏng vấn và quan sát. 
Phần kiến thức, thái độ và các yếu tố rào cản 
được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn 
trực tiếp ĐD với bộ câu hỏi có sẵn, ĐD sẽ tự 
điền trong khoảng 15 - 20 phút. 
Phần thực hành người nghiên cứu trực tiếp 
quan sát ĐD chăm sóc BN dựa vào bảng kiểm 
chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ đè do phòng 
Điều Dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy biên soạn để 
đánh giá. ĐD làm theo ca kíp 8 giờ mỗi ngày và 
một điều dưỡng chăm sóc trung bình từ 4 – 5 
BN mỗi ca nên người nghiên cứu sẽ lựa chọn 
ngẫu nhiên 1 bệnh nhân và quan sát điều dưỡng 
ngẫu nhiên đang chăm sóc cho BN đó. 
Công cụ thu thập số liệu 
Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi tự điền do 
Barbara Pieper xây dựng, được Pieper và Mott 
xuất bản năm 1995(9), bao gồm 4 phần là: 
 Phần 1: thông tin cơ bản của ĐD bao gồm 
thông tin về giới, tuổi, trình độ đào tạo, thâm 
niên công tác, thời gian gần nhất tham gia một 
buổi học, đọc bài báo liên quan đến loét do tỳ 
đè, gồm 6 câu hỏi nhiều lựa chọn. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 3 
 Phần 2: thông tin về kiến thức phòng 
ngừa loét tỳ đè, gồm 32 câu hỏi trả lời đúng, sai 
hay không biết với những nội dung cơ bản về 
nguyên nhân, yếu tố nguy cơ và phương pháp 
phòng ngừa. 
 Phần 3: thông tin về thái độ phòng ngừa 
loét do tỳ đè, gồm 13 câu hỏi với 3 mức độ lựa 
chọn theo thang điểm của Likert đồng ý, không 
đồng ý, không ý kiến. 
 Phần 4: thông tin về các yếu tố rào cản 
ảnh hưởng đến thực hành chăm sóc phòng ngừa 
LDTĐ, gồm 5 câu hỏi lựa chọn mức theo mức 
độ không quan trọng, không ý kiến và quan 
trọng. 
Phần thực hành: quan sát tiến trình 
chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ đè dựa trên 
bảng kiểm chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ 
đè do phòng Điều Dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy 
biên soạn. 
Phân tích số liệu 
Số liệu được nhập bằng phần mềm 
Microsoft Excel 2010 và xử lý bằng phần mềm 
SPSS 10.0. Điều dưỡng được đánh giá là có kiến 
thức, thái độ, thực hành tốt khi đạt trên 70% số 
điểm của mỗi phần. Các biến số liên tục được 
mô tả bằng trung bình ± độ lệch chuẩn, các biến 
định tính được mô tả dưới dạng phần trăm. So 
sánh tỉ lệ phần trăm bằng phép kiểm χ2. So sánh 
trung bình bằng phép kiểm student (t). Phân tích 
đơn biến bằng phép kiểm χ2 , tính nguy cơ 
tương đối RR. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỐI TƯỢNG 
NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu có tỉ lệ ĐD nữ chiếm 91,4%. ĐD 
trong độ tuổi 20 – 29 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất 
(56,8%). Trình độ trung cấp chiếm đa số với 73 
ĐD (90,1%). ĐD có trình độ cao đẳng và cử 
nhân rất ít, chiếm tỷ lệ lần lượt là 3,7% và 6,2%. 
Tỷ lệ ĐD tham gia một buổi học về LDTĐ 
trong khoảng thời gian dưới 1 năm chiếm 58 %, 
tham gia học trong 2 – 3 năm gần đây là 27,2 % 
và trên 4 năm là 8,6%. 6,2% ĐD chưa từng tham 
gia một buổi học nào liên quan đến LDTĐ. Về 
việc đã từng đọc một bài báo liên quan đến loét 
do tỳ đè, 12,3% chưa từng đọc, 58% đã từng đọc 
cách đây dưới 1 năm, 22,2% đọc cách 2 – 3 năm. 
KIẾN THỨC VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT 
DO TÌ ĐÈ 
Trong tổng số 81 người tham gia nghiên 
cứu, tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng là 85,2% với 
điểm trung bình kiến thức là 23,9/32 điểm, (SD = 
2,74). ĐD có số điểm cao nhất là 31/32 điểm và 
thấp nhất là 15/32 điểm. 
Trong số 32 câu hỏi với những nội dung về 
nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, vị trí, các biện 
pháp phòng ngừa LDTĐ, có 21 câu hỏi có tỷ lệ 
trả lời đúng trên 50%, 6 câu có tỷ lệ trả lời đúng 
trên 90% và có 2 câu hỏi trả lời đúng 100%. Đó 
là những câu hỏi KT cơ bản về yếu tố nguy cơ 
LDTĐ, đánh giá tình trạng da, chế độ dinh 
dưỡng, lịch trình xoay trở BN, dụng cụ phòng 
ngừa, tư thế nghiêng, vệ sinh da, tránh tiếp xúc 
trực tiếp giữa các vùng da sát xương, nâng cao 
gót chân để giảm lực đè cấn, ghi chú ĐD, 
nguyên nhân chính gây LDTĐ, bảng công cụ 
đánh giá nguy cơ loét theo Braden và biến 
chứng, hậu quả của loét do tỳ đè. 
THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO 
TÌ ĐÈ 
Tỷ lệ ĐD có thái độ đúng (thái độ tích cực) 
về phòng ngừa LDTĐ là 81,2% với điểm trung 
bình là 19,14/26 điểm. ĐD có điểm thái độ cao 
nhất là 26/26 điểm và thấp nhất là 6/26 điểm. 
64,2% ĐD cho rằng tất cả các BN đều có 
nguy cơ bị loét do tỳ đè và đa số ĐD (91,4%) 
đồng ý việc phòng ngừa nên được ưu tiên hơn 
là điều trị loét do tỳ đè. 
Hầu hết ĐD (97,5%) đồng ý rằng đánh giá 
tình trạng da BN thường xuyên có thể phát hiện 
sớm yếu tố nguy cơ hình thành loét do tỳ đè. 
92,6% ĐD nhận thức được việc đánh gain, ghi 
nhận tình trạng da BN là một trong những công 
việc hằng ngày của họ và đánh giá nguy cơ loét 
do tỳ đè của BN dựa trên lâm sàng thì dễ dàng 
thực hiện hơn (77,8%). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 4 
NHỮNG RÀO CẢN TRONG PHÒNG 
NGỪA LOÉT DO TÌ ĐÈ 
88,9% ĐD cho rằng tình trạng BN quá nặng 
hay BN không hợp tác là yếu tố quan trọng ảnh 
hưởng đến việc chăm sóc LDTĐ. 
Không đủ điều dưỡng (80,2%) và thiếu hụt 
kiến thức về phòng ngừa (80,2%) cũng là những 
yếu tố góp phần ảnh hưởng không nhỏ trong 
việc chăm sóc LDTĐ hằng ngày cho BN. 
64,2% ĐD cho rằng không đủ thời gian 
chăm sóc BN cũng ảnh hưởng nhiều đến việc 
chăm sóc phòng ngừa loét và 25,9% trong số họ 
cho rằng yếu tố này không quan trọng. 
THỰC HÀNH CHĂM SÓC PHÒNG 
NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ 
Quy trình chăm sóc phòng ngừa LDTĐ bao 
gồm 13 bước với tổng điểm là 13 điểm. Tỷ lệ ĐD 
có thực hành đúng về phòng ngừa LDTĐ là 
43,2%. 
Điểm TB thực hành là 8,2/13 điểm, ĐLC 0,61, 
cao nhất là 11/13 và thấp nhất là 3/13 điểm. 
Trong đó có 2 bước luôn luôn được thực hiện 
với tỷ lệ 100% ở tất cả các ca trực là bước 6 và 
bước 7 và ngược lại 100% ĐD không thực hiện 
bước 10. 
Kết quả quan sát cũng cho thấy rằng thực 
hành đúng tăng vào các ca sáng với tỷ lệ 
51,9% và giảm dần ở các ca chiều và ca đêm 
lần lượt là 42% và 35,8%. Sự khác biệt về tỷ lệ 
thực hành đúng giữa các ca trực có ý nghĩa 
thống kê p< 0,05. 
MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC, 
THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VÀ CÁC 
YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
của đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, tuổi, 
trình độ chuyên môn, thâm niên công tác giữa 
hai nhóm điều dưỡng có KT-TD-TH đúng so với 
nhóm còn lại 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến 
thức giữa nhóm điều dưỡng có tham gia một 
buổi học về loét do tỳ đè trong thời gian 1 năm 
với các nhóm khác. ĐD đã từng tham gia một 
buổi học về loét do tỳ đè dưới một năm, 2-3 
năm, >4 năm có tỷ lệ kiến thức đúng lần lượt là 
59,4%, 27,5% và 5,8%, với p =0,029. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
thái độ đúng giữa hai nhóm bệnh nhân có 
kiến thức tốt và không tốt. Tuy nhiên, không 
có sự khác biệt về thực hành đúng ở hai nhóm 
bệnh nhân này. 
BÀN LUẬN 
KIẾN THỨC CỦA ĐIỀU DƯỠNG VỀ 
PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ. 
ĐD có số điểm cao nhất là 31/32 và thấp 
nhất là 15/32, điểm TB 24/32 điểm, ĐLC 2,744 
điểm. Với yêu cầu phải đạt là 22/32 điểm thì tỷ 
lệ ĐD có kiến thức đúng về PNLDTĐ khá cao 
85,2%. Những câu hỏi có tỷ lệ trả lời thấp nhất 
đó là những nội dung về thời gian nhận định, 
đánh giá các yếu tố nguy cơ (16%) và thời gian 
hình thành loét do tỳ đè (17,3%). 
So sánh với một số nghiên cứu trước, nghiên 
cứu này cũng có kết quả tương đương. Theo 
nghiên cứu của Pieper và Mott(8) khảo sát KT 
của ĐD về PNLDTĐ năm 1995 với cùng bộ câu 
hỏi và kết quả là ĐD có KT đúng về PNLDTĐ là 
90%. Năm 2008 theo NC của Fernandes(5) khảo 
sát kiến thức về PNLDTĐ của các giáo viên ĐD 
cũng cùng bộ câu hỏi cho kết qủa tỷ lệ giáo viên 
ĐD có kiến thức về phòng ngừa loét khá cao. 
Năm 2008, Carol Tweed và cộng sự khảo sát 
kiến thức của ĐD ở 3 bệnh viện tại New 
Zealand(10), 89% ĐD có kiến thức đúng về 
PNLDTĐ sau thực hiện chương trình giáo dục 
20 tuần. 
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 
kiến thức về PNLDTĐ của ĐD với những đặc 
điểm về nhân khẩu học. Tuy nhiên, thời gian 
gần nhất tham gia một buổi học về LDTĐ liên 
quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với kiến thức 
về phòng ngừa LDTĐ. Nhóm ĐD đã từng tham 
gia một buổi học về LDTĐ thì có kiến thức đúng 
cao hơn những nhóm ĐD còn lại. Đặc biệt 
những ĐD có thời gian gần nhất tham gia một 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 5 
buổi học về LDTĐ trong khoảng thời gian 1 
năm. Kết quả này cho thấy được tầm quan trọng 
của chương trình giáo dục, khi ĐD được cung 
cấp những thông tin liên tục và phù hợp thì kiến 
thức của họ tăng lên rất nhiều(2),(4),(5). Theo khảo 
sát của Moody và cộng sự năm 1988 đã chứng 
minh chương trình giáo dục có thể làm giảm tỷ 
lệ BN bị LDTĐ ở các khoa HSCC(7) tương tự với 
kết quả tìm được theo nghiên cứu của Luciana 
và cộng sự khi khảo sát sự ảnh hưởng của 
chương trình giáo dục đến kiến thức về 
PNLDTĐ của ĐD khi khảo sát 223 ĐD. Những 
ĐD đã từng đọc, nhận thông tin về LDTĐ thông 
qua các bài báo hay những bài thuyết trình có 
điểm kiến thức rất cao. 
THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO 
TỲ ĐÈ 
Các ĐD có thái độ tích cực về PNLDTĐ, 
97,5% cho rằng việc đánh giá tình trạng da BN 
ngay khi nhập viện và các khoảng thời gian 
đều đặn sau đó sẽ giúp phát hiện sớm các yếu 
nguy cơ. Đa số đồng ý việc phòng ngừa thì 
cần phải được quan tâm và ưu tiên hơn điều 
trị và giống như nhiều nghiên cứu khác cũng 
cho rằng hầu hết LDTĐ đều có thể phòng 
ngừa được (87,7). Kết quả này gần giống với 
kết quả (94%) nghiên cứu của Ulrika và Bjorn-
Ove Suserud thực hiện năm 2008 tại Thụy 
Điển(11). Tuy nhiên, 72,2% ĐD còn cho rằng 
việc PNLDTĐ thì mất nhiều thời gian. 
Liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa 
thái độ với các đặc điểm về nhân khẩu học. Kết 
quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu 
của năm 2008 của Ulrika Ka¨llman và Bjo¨rn-Ove 
Suserud khảo sát 154 ĐD ở Thụy Điển và 
nghiên cứu của Kathleen MacMillan và cộng sự 
năm 2008 khi khảo sát 223 ĐD ở Canada(6),(11). 
Tuy nhiên kết quả phân tích cho thấy những ĐD 
có tham gia một buổi học hay đã từng đọc một 
bài báo về LDTĐ trong khoảng thời gian 1 năm 
thì có thái độ đúng cao hơn. Điều này cũng có 
thể giải thích rằng khi ĐD được cập nhật những 
thông tin mới và được giáo dục liên tục thì họ 
cũng sẽ có thái độ tích cực hơn. 
THỰC HÀNH VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT 
DO TỲ ĐÈ CỦA ĐIỀU DƯỠNG 
ĐD có thực hành đúng là 43,2% và chưa 
đúng là 56,8%. Một phần là do đặc điểm của 
khoa vì BN nhập khoa trong tình trạng rất 
nặng, đa số là BN trong giai đoạn choáng 
phải thở máy, bị đa chấn thương và việc ưu 
tiên hàng đầu là phải đảm bảo hô hấp, ổn 
định sinh hiệu nên phòng ngừa loét do tỳ đè 
chỉ thực hiện được sau khi BN đã ổn định và 
qua giai đoạn nguy hiểm. BN gãy xương phải 
kéo tạ liên tục do đó việc thực hiện xoay trở 
PNLDTĐ rất khó khăn, đặc biệt những BN 
sau mổ ngoại khoa thường đau nên không 
hợp tác với ĐD và để theo dõi các biến chứng 
sớm sau mổ nên người ĐD cũng rất hạn chế 
thực hiện xoay trở chống loét do tỷ đè cũng 
như thực hiện chế độ dinh dưỡng thích hợp. 
 Một ĐD chăm sóc trung bình 4 bệnh nhân/ 
ca trực và khoa không có thân nhân nên ĐD là 
người trực tiếp chăm sóc toàn diện cho BN, với 
một số lượng công việc khá lớn và luôn phải 
làm việc trong môi trường áp lực cao điều này 
cũng ảnh hưởng đến công tác chăm sóc. Thêm 
vào đó, các dụng cụ chăm sóc một phần nào đó 
chưa được cung cấp kịp thời và bổ sung mới. 
Thâm niên công tác của ĐD 1- 5 năm thì có 
điểm số về thực hành cao hơn ĐD mới về khoa 
dưới 1 năm do thời gian công tác tại khoa lâu 
hơn lên phần nào thấy được tầm quan trọng và 
ý nghĩa của phòng ngừa. Những ĐD đã từng 
tham gia một buổi học về loét do tỳ đè với 
những thời gian khác nhau cũng có điểm trung 
bình thực hành (7,36 điểm) cao hơn những ĐD 
chưa từng học (6,80 điểm). 
Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng tỷ lệ 
ĐD thực hành đúng tăng cao vào ca sáng và 
giảm dần ở các ca chiều, ca đêm. Do ca sáng 
thường có sự tăng cường giám sát của ban lãnh 
đạo khoa và nguồn nhân lực thường đầy đủ. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 6 
YẾU TỐ RÀO CẢN TRONG THỰC 
HÀNH PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG 
Kết quả phân tích cho thấy rằng có 3 yếu tố 
mà hơn 80% ĐD cho rằng những yếu tố này rất 
quan trọng ảnh hưởng đến thực hành phòng 
ngừa LDTĐ, những yếu tố như tình trạng BN 
quá nặng/ BN không hợp tác (88,9%), kiến thức 
về chăm sóc PNLDTĐ không đủ (80,2%) và 
thiếu ĐD (80,2). Kết quả này cũng tương đương 
với kết quả nghiên cứu năm 2008 của Ulrika và 
Bjorn-Ove khi khảo sát 154 ĐD làm việc tại các 
bệnh viện tại Thụy Điển(11). 
Mặc dù ĐD có kiến thức đúng và thái độ 
tích cực về PNLDTĐ nhưng với tình trạng BN 
quá nặng thì việc thực hành PNLDTĐ lúc này 
không còn là yếu tố quan trọng. Tỷ lệ 1 ĐD 
chăm sóc trung bình 4/BN, với khối lượng công 
việc quá nhiều, ĐD không có đủ thời gian để 
thực hành các biện pháp phòng ngừa và cũng 
qua kết quả phân tích chúng ta thấy rằng dụng 
cụ chăm sóc không đủ cũng là một trong những 
yếu tố quan trọng (64,2%) ảnh hưởng đến thực 
hành phòng ngừa LDTĐ. Điều này có thể giúp 
cho ban lãnh đạo khoa biết được một số yếu tố 
rào cản ảnh hưởng đến chăm sóc phòng ngừa 
LDTĐ để có những chính sách cũng như những 
biện pháp phù hợp giúp đỡ cho ĐD làm tốt vai 
trò của mình và giúp giảm tỷ lệ loét do tỳ đè cho 
BN tại khoa, góp phần giảm chi phí điều trị, 
giảm thời gian chăm sóc và nâng cao chất lượng 
điều trị. 
MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC-
THÁI ĐỘ-THỰC HÀNH 
Liên quan giữa kiến thức-thái độ, thái độ-
thực hành của ĐD về phòng ngừa LDTĐ có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này cũng phù 
hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Yong 
Kim năm 2007 khi khảo sát mức độ kiến thức, 
thái độ và thực hành về hành vi phòng ngừa 
loét bàn chân của bệnh nhân tiểu đường tại Thái 
Lan(12). 
Liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa 
kiến thức và thực hành cho thấy có một khoảng 
cách giữa kiến thức và thực hành. Tỷ lệ ĐD có 
kiến thức và thái độ về PNLDTĐ tuy cao nhưng 
ngược lại tỷ lệ thực hành của họ khá thấp và 
mức độ kiến thức không tương ứng với mức độ 
thực hành. Do trên thực tế người ĐD gặp phải 
nhiều yếu tố gây cản trở đến việc thực hành và 
dựa vào những kết quả đạt được từ nghiên cứu 
này thì cần phải có một cái gì đó ở giữa để liên 
kết KT – TĐ – TH lại với nhau. Nếu người ĐD 
nhận thức được tầm quan trọng và mức độ ảnh 
hưởng của LDTĐ thì có thể tác động lên thực 
hành phòng ngừa LDTĐ. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này đã tìm ra được các kết quả 
như sau: 
85,2% ĐD có kiến thức đúng về phòng ngừa 
LDTĐ. 
80,2% ĐD có thái độ đúng về phòng ngừa 
LDTĐ. 
43,2% ĐD có thực hành đúng về phòng 
ngừa LDTĐ. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về mối liên quan giữa KT-TĐ-TH với tuổi, giới 
tính, thâm niên công tác và bằng cấp chuyên 
môn. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mối 
liên quan giữa kiến thức với thời gian gần nhất 
tham gia một buổi học về LDTĐ. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
kiến thức và thái độ, giữa thái độ và thực hành. 
KIẾN NGHỊ 
Qua nghiên cứu này, chúng tôi xin đưa ra 
một số kiến nghị sau: 
Đối với điều dưỡng 
Nên thường xuyên tham gia các chương 
trình đào tạo, hướng dẫn lâm sàng, hội thảo về 
phòng ngừa LDTĐ. 
Nên tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt việc 
phòng ngừa để giảm tỷ lệ LDTĐ, nâng cao chất 
lượng chăm sóc bệnh nhân, nâng cao ý thức, vai 
trò và trách nhiệm của mình 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 7 
Đối với người quản lý và bệnh viện 
Thường xuyên tổ chức các chương trình 
giáo dục và đào tạo liên tục về phòng ngừa 
LDTĐ cho tất cả đối tượng trực tiếp chăm sóc 
BN, đặc biệt là ĐD của khoa HSCC. Chương 
trình nên cập nhật thường xuyên và phù hợp 
với mọi trình độ. 
Triển khai nhanh những biện pháp can thiệp 
thích hợp 
Cung cấp đầy đủ và trang bị thêm các thiết 
bị hỗ trợ cho ĐD trong việc phòng ngừa LDTĐ. 
Đảm bảo nguồn nhân lực và tăng cường 
giám sát phòng ngừa LDTĐ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Allman R et al (1999). “Pressure ulcer, hospital complications 
and disease severity: impact on hospital cost and length of stay”. 
Advances in Wound Care, 12(1), pp.22-30 
2. Bostom J, Kenneth H (1992). “Staff nurse knowledge and 
perception about prevention pressure sore”. Dermatology 
Nursing, 4, pp. 365-386 
3. Chronakos J & Nierman D (2003). “Managing pressure ulcer in 
critically ill patients”. Journal of Respiratory Disease, 24(8), pp. 363-
371. 
4. Debra Jill Schassberger (2001). “A Description of Nurse 
Educators’ knowledge of Pressure Ulcers”. Mater’s thesis. Bell 
Howeell Information and Learning Company, United State. 
5. Fernandes L.M, Caliri M.HL & Haas V.J. (2008). “The effect of 
educative interventions on the pressure ulcer prevention 
knowledge of nursing professionals”. Acta Paul Enferm, 21(2), 
pp.305-11. 
6. Kathleen MacMillan et al (2008). “Nurses’ Knowledge and 
Attitudes Associated With Near Misses: Evaluation of impact of 
a Knowledge transfer intervention for pressure ulcer prevention 
and care”. BJM Group and the Institute for healthcare Improvement, 
Paris 
7. Moody B et al (1998). “Impact of staff education on pressure sore 
development elderly hospitalized patients”. Archives of Internal 
medicine, 148(10), pp 2241-2243. 
8. Pieper B, Mattern (1997). “Critical care nurses’ knowledge of 
pressure ulcer prevention, staging and description”. 
Ostomy/Wound Management, 43(2), pp.22-31. 
9. Pieper B, Mott M (1995). “Nurses’ knowledge of pressure ulcer 
prevention, staging and description”. Advances in Wound Care: 
The Journal for Prevention and Healing, 8(3), pp.34-48. 
10. Tweed Carol & Tweed Mike (2008). “Intensive care nurse’s 
knowledge of pressure ulcers: development of an assessment 
tool and effect of an education program”. AJCC, 17, pp.338- 346. 
11. Ulrika Kallman & Born-Ove Suserud (2009). “Knowledge, 
Attitudes and clinical practice among staff nurses concerning 
pressure ulcer prevention and treatment – a survey in a Swedish 
healthcare setting”. Scand J caring Science, 23, pp.334-341. 
12. Yong Kim Son (2007). “Preventive behaviors regarding foot 
ulcers in Diabetes type II patients at BMA Health Care Center 
No.48, Bangkok, Thailand”. A Thesis for the Degree of Master of 
Public Health Program in Health Systems Development, 
Chulalongkorn University. 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_ve_phong_ngua_loet_do_ty_de_c.pdf