Kiến thức, thực hành của bếp trưởng các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động về vệ sinh an toàn thực phẩm tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tìm hiểu kiến thức và thực hành của bếp trưởng các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động về VSATTP là cần thiết, đây là cơ sở đề ra giải pháp can thiệp nhằm đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ bếp trưởng của các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động có kiến thức và thực hành VSATTP đúng tại huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định năm 2015; Xác định các mối liên quan giữa đặc tính mẫu nghiên cứu với kiến thức VSATTP. Phương pháp: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả 89 bếp trưởng, được phỏng vấn trực tiếp và quan sát thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm bằng bộ câu hỏi soạn sẵn từ tháng 03/2015 đến tháng 08/2015. Kết quả nghiên cứu: 50% bếp trưởng có tiếp nhận thông tin kiến thức VSATTP. Bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng 21%, trong đó tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP đúng về điều kiện cơ sở 34,8%; điều kiện thiết bị, dụng cụ 34,8%; điều kiện con người 74,2%. Bếp trưởng có thực hành VSATTP chung đúng 9%, trong đó tỉ lệ có thực hành đúng về chế biến, bảo quản thực phẩm thấp nhất 11,2%; mang đầy đủ trang phục bảo hộ cá nhân 61,8%; thực hiện đảm bảo vệ sinh cá nhân 64%. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, tuổi nghề, nghiệp vụ nấu ăn với kiến thức VSATTP (p<0,05). kết="" luận:="" tỉ="" lệ="" bếp="" trưởng="" có="" kiến="" thức="" và="" thực="" hành="" vsattp="" đúng="" rất="" thấp.="" những="" người="" được="" học="" nghiệp="" vụ="" nấu="" ăn="" có="" kiến="" thức="" và="" thực="" hành="" đúng="" cao="" hơn="" những="" người="" chưa="" được="">0,05).>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành của bếp trưởng các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động về vệ sinh an toàn thực phẩm tại huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 261 KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA BẾP TRƯỞNG CÁC CƠ SỞ DỊCH VỤ NẤU ĂN LƯU ĐỘNG VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH Nguyễn Hữu Hoàng*, Trần Hữu Vinh*, Nguyễn Đỗ Phúc**, Đặng Văn Chính** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tìm hiểu kiến thức và thực hành của bếp trưởng các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động về VSATTP là cần thiết, đây là cơ sở đề ra giải pháp can thiệp nhằm đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ bếp trưởng của các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động có kiến thức và thực hành VSATTP đúng tại huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định năm 2015; Xác định các mối liên quan giữa đặc tính mẫu nghiên cứu với kiến thức VSATTP. Phương pháp: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả 89 bếp trưởng, được phỏng vấn trực tiếp và quan sát thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm bằng bộ câu hỏi soạn sẵn từ tháng 03/2015 đến tháng 08/2015. Kết quả nghiên cứu: 50% bếp trưởng có tiếp nhận thông tin kiến thức VSATTP. Bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng 21%, trong đó tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP đúng về điều kiện cơ sở 34,8%; điều kiện thiết bị, dụng cụ 34,8%; điều kiện con người 74,2%. Bếp trưởng có thực hành VSATTP chung đúng 9%, trong đó tỉ lệ có thực hành đúng về chế biến, bảo quản thực phẩm thấp nhất 11,2%; mang đầy đủ trang phục bảo hộ cá nhân 61,8%; thực hiện đảm bảo vệ sinh cá nhân 64%. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, tuổi nghề, nghiệp vụ nấu ăn với kiến thức VSATTP (p<0,05). Kết luận: Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức và thực hành VSATTP đúng rất thấp. Những người được học nghiệp vụ nấu ăn có kiến thức và thực hành đúng cao hơn những người chưa được học. Từ khóa: Kiến thức, thực hành, bếp trưởng các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động, vệ sinh an toàn thực phẩm. ABSTRACT FOOD SAFETY KNOWLEDGE AND PRACTICE OF CHEFS OF MOBILE FOOD SERVICE ESTABLISHMENTS IN DISTRICT HOAI NHON, BINH DINH PROVINCE Nguyen Huu Hoang, Tran Huu Vinh, Nguyen Do Phuc, Dang Van Chinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 5 - 2016: 261 - 268 Background: It’s necessary to evaluate food safety knowledge and practice of chefs of mobile food service establishments. It helps to recommend intervention solution to ensure healthy community. Objectives: To determine the proportion of chefs of mobile food service establishments having food safety knowledge and practice in district Hoai Nhon, Binh Dinh province in 2015; to determine the association between characteristics of the study sample and food safety knowledge. Methods: A cross-sectional study with a sample of 89 chefs was conducted from March to August, 2015. The subjects were interviewed and observed using the questionnaire. Results: 50% of chefs received information on food safety. The proportion of chefs having food safety knowledge was 21% of which the number of chefs having knowledge on facility conditions was 34.8%, equipment and instrument conditions 34.8%, personal hygiene and health condition 74.2%. The number of chefs having food * Trung tâm Y tế Huyện Hoài Nhơn ** Viện YTCC TP HCM Tác giả liên lạc: CKIATTP. Nguyễn Hữu Hoàng ĐT: 0905 348 677 Email: bsc.hoang@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 262 safety practice accounted for 9% of which the proportion of chefs having practice on food processing and preservation was 11.2%, personal protective clothes 61.8%, personal hygiene 64%. There were statistically significant associations between food safety knowledge and gender, seniority, professional cooking (p<0.05). Conclusion: The proportion of chefs having food safety knowledge and practice was very low. For chefs having food safety knowledge and practice, those who had taken professional accounted for higher proportion compared with those who hadn’t. Key words: Knowledge, practice, chefs, mobile food service establishments, food safety. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên địa bàn huyện Hoài Nhơn số cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động (DVNALD) phục vụ đám, tiệc đã và đang phát triển rất nhanh. Nhu cầu sử dụng loại hình này rất lớn bởi tính tiện ích của nó đối với gia đình và phù hợp với thuần phong mỹ tục địa phương. Đặc điểm của cơ sở DVNALD là phục vụ ăn uống được tổ chức tại nơi diễn ra các sự kiện, quy mô phục vụ hàng trăm người trên bữa ăn, không những hoạt động trên địa bàn huyện mà còn hoạt động đến hầu hết các huyện, thành phố trong tỉnh và một số tỉnh lân cận. Loại hình phục vụ này, hoạt động hoàn toàn tự phát; bếp trưởng là người có vai trò chính trong việc tổ chức và điều hành công việc chế biến thực phẩm nhưng chủ yếu qua kinh nghiệm, không được đào tạo cơ bản, nhận thức về pháp luật, quy định về VSATTP còn thấp. Mặt khác, hiện nay cơ quan chức năng địa phương chưa có căn cứ hay hướng dẫn quy cụ thể nào để quản lý, giám sát loại hình dịch vụ này. Vì thế, nguy cơ xảy ra NĐTP, bệnh truyền qua thực phẩm tại đám, tiệc cho cộng đồng là rất lớn. Chính vì những thực tế trên, chúng tôi đề xuất nghiên cứu về kiến thức, thực hành của bếp trưởng các cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động về vệ sinh an toàn thực phẩm tại huyện Hoài Nhơn là vô cùng cấp thiết, giúp cho các cơ quan chức năng có cơ sở khoa học đề ra những chính sách, giải pháp can thiệp kịp thời, đảm bảo rằng đám, tiệc được tổ chức đúng quy định VSATTP, mọi người sau khi dự đám, tiệc đều khỏe mạnh, an toàn. Mục tiêu nghiên cứu Xác định các thông tin về quy mô phục vụ và đặc tính mẫu nghiên cứu. Xác định tỉ lệ các nguồn cung cấp thông tin về VSATTP. Xác định tỉ lệ người bếp trưởng có kiến thức VSATTP đúng. Xác định tỉ lệ người bếp trưởng có thực hành VSATTP đúng. Xác định các mối liên quan giữa giới tính, tuổi, trình độ học vấn, tuổi nghề, nghiệp vụ nấu ăn, nghề khác với kiến thức VSATTP của bếp trưởng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành tại huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định từ tháng 03/2015 đến tháng 08/2015. Cỡ mẫu nghiên cứu Toàn bộ 89 người bếp trưởng của 89 cơ sở DVNALD. Thu thập dữ liệu Bằng phỏng vấn trực tiếp và quan sát thực hành đối tượng nghiên cứu qua bộ câu hỏi soạn sẵn. Nhập dữ liệu Bằng chương trình Epi-data 3.1, phân tích bằng phần mềm Stata 10.0. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Bảng 1: Quy mô phục vụ (n=89) Nội dung Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Năng lực phục vụ 481,9 250 800 Tần suất phục vụ 4,2 2 10 Tổng số nhân viên 11,2 6 20 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 263 Năng lực phục vụ trên 250 suất/bữa, điều này phù hợp với nhu cầu tổ chức đám tiệc hiện nay. Theo thông tư 47/2014/TT-BYT, nếu cơ sở phục vụ 200 suất ăn/lần trở lên thì Chi cục VSATTP tỉnh quản lý, nhưng cơ sở DVNALD là loại hình hoạt động không có địa điểm cố định, không liên tục, chỉ diễn ra đồng loạt một số ngày trong tháng, nhân viên phục vụ trưng dụng tùy lúc, không ổn định, đây là vấn đề khó khăn cho công tác quản lý, vì thế cần phải có sự chung sức đồng bộ của tất cả ban ngành, cơ sở, gia đình và thực khách tại địa phương để đảm bảo VSATTP nơi đám tiệc. Bảng 2: Thông tin đặc tính mẫu (n=89) Nội dung Tần số Tỉ lệ % Giới tính Nam 33 37,1 Nữ 56 62,9 Tuổi ≤ 35 25 28,1 36 – 45 37 41,6 > 45 27 30,3 Trình độ học vấn Tiểu học 7 7,9 THCS 48 53,9 Từ THPT trở lên 34 38,2 Thâm niên ≤ 1 năm 42 47,2 > 1 – 3 năm 19 21,3 > 3 năm 28 31,5 Nghiệp vụ nấu ăn Có 12 13,5 Không 77 86,5 Nghề khác ngoài phục vụ đám tiệc Có liên quan 24 27,0 Không liên quan 65 73,0 Trong tổng số 89 bếp trưởng của các cở sở DVNALD được khảo sát thì giới tính nữ chiếm đa số 62,9%. Kết quả này tương tự với nghiên cứu tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013 68,6%(8), tại Bang Bahir Dar năm 2011 73,4%(4). Điều này cũng phù hợp với thực tế xưa nay, việc nấu ăn, nội trợ phụ nữ thường đảm nhiệm. Tỉ lệ bếp trưởng ở các nhóm tuổi trong nghiên cứu không khác nhau nhiều, nhưng nhìn chung độ tuổi từ 36 đến 45 chiếm tỉ lệ cao hơn 42%, kết quả nghiên tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013 67,7%(8) cũng có kết quả tương tự. Đa phần trình độ học vấn của bếp trưởng từ trung học cơ sở trở lên 92,1% tương đương với kết quả nghiên cứu tại Hà Nội năm 2011 70,9%(6), tại TP. Hồ Chí Minh năm 2010 là 90%(5), tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 94%(1). Đa số tuổi nghề của bếp trưởng từ 1 đến dưới 1 năm 47,2%, cho thấy số cơ sở DVNALD tại địa phương phát triển nhanh trong thời gian ngắn, đây cũng là nguy cơ lớn dẫn đến mất an toàn thực phẩm vì có thể xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh như việc giảm giá thành phục vụ bằng cách tiêu thụ nguyên liệu thực phẩm không an toàn. Bếp trưởng được đào tạo nghiệp vụ nấu ăn rất thấp chỉ có 13,5%. Tỉ lệ bếp trưởng được đào tạo nghiệp vụ nấu ăn thấp có thể là vì họ đang hoạt động tự do, tự phát chưa ràng buộc vào bất kỳ điều kiện nào, do đó những người bếp trưởng tổ chức nấu ăn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Hoạt động của cơ sở DVNALD không liên tục nên đa phần người bếp trưởng có nghề khác ngoài phục vụ đám tiệc, nghề không liên quan đến điều kiện ATTP chiếm tỉ lệ cao 73%, do tần suất nấu ăn phục vụ cho đám tiệc không nhiều nên họ có ít quan tâm vấn đề VSATTP, vì thế đây là nguy cơ tiềm ẩn không đảm bảo VSATTP. Bảng 3: Tỉ lệ tiếp nhận thông tin kiến thức VSATTP (n=89) Nội dung Tần số Tỉ lệ % Tiếp nhận kiến thức VSATTP Có 45 50,6 Không 44 49,4 Nguồn thông tin Cán bộ y tế 23 51,1 Ti vi, đài phát thanh 32 71,1 Báo, internet, pano 30 66,7 Gia đình, bạn bè 8 17,8 Học ở trường 12 26,7 Tỉ lệ bếp trưởng có tiếp nhận thông tin kiến thức VSATTP chỉ khoảng 50% và đa phần bếp trưởng tiếp nhận từ mạng lưới thông tin đại chúng còn từ cán bộ y tế rất thấp. Kết quả này thấp so với nghiên cứu tại huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh năm 2014 là 100%, từ cán bộ y tế 98,7%, từ ti vi 100%, từ trường học 54%(3); nghiên cứu tại thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương năm 2013 lệ người trực tiếp chế biến có tiếp nhận thông tin kiến thức VSATTP từ cán bộ y tế Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 264 81,6%, từ ti vi 72,1%, từ trường học 61,2%, từ báo, internet 68,7%(9). Vì tăng quá nhanh số cơ sở trên địa bàn trong thời gian ngắn, hầu hết người bếp trưởng có tuổi nghề dưới 1 năm và việc quản lý của cơ quan chức năng chưa thực hiện được, do đó cán bộ y tế chưa tuyên truyền kiến thức VSATTP thông qua tập huấn hay khi kiểm tra, giám sát. Bảng 4: Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng (n=89) Nội dung Tần số Tỉ lệ % Kiến thức về điều kiện cơ sở 31 34,8 Kiến thức về điều kiện thiết bị, dụng cụ 31 34,8 Kiến thức về điều kiện con người 66 74,2 Kiến thức về mối nguy VSATTP 43 48,3 Kiến thức về chế biến, bảo quản thực phẩm 88 98,9 Đúng chung 19 21,4 Tỉ lệ bếp trưởng của cơ sở DVNALD có kiến thức VSATTP chung đúng 21,4%, thấp hơn kết quả nghiên cứu tại Hà Nội năm 2011 là 33,9%(6), tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013 là 44,1%(8). Kết quả này phù hợp với thực tại vì những bếp trưởng ở các cơ sở DVNALD huyện Hoài Nhơn, đa phần có tuổi nghề thấp, chưa được tập huấn kiến thức VSATTP, tỉ lệ được đào tạo nghiệp vụ nấu ăn thấp. Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức đúng điều kiện cơ sở 34,8%, thấp hơn kết quả nghiên cứu tại Hà Nội năm 2011 là 55,6%(6). Việc tổ chức địa điểm nấu ăn là tạm thời, người chế biến thực phẩm thực hiện với mục tiêu thuận tiện cho việc nấu ăn, phục vụ là chính cho nên các cơ sở không quan tâm đến điều kiện VSATTP. Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức đúng về điều kiện trang thiết bị, dụng cụ chế biến thực phẩm thấp hơn nghiên cứu tại Hà Nội năm 2011 là 49%(6), tại TP. Hồ Chí Minh năm 2010 là 65%(5). Trong đó tỉ lệ bếp trưởng biết đúng ở nội dung vật liệu mặt bàn, kệ dùng chế biến thực phẩm là thấp nhất. Điều này là do họ chưa được tập huấn hoặc đào tạo qua các lớp VSATTP và thiếu sự giám sát của đơn vị chức năng nên họ tận dụng những thiết bị, dụng cụ sẵn có cho công việc của mình. Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức đúng về điều kiện con người tương đương với kết quả nghiên cứu tại Hà Nội năm 2011 là 70,9%(6), tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 là 80,6%(1). Những nội dung dùng đánh giá kiến thức về điều kiện con người là tương đối cơ bản vì thế tỉ lệ biết đúng cao lý do là nhiều bếp trưởng chưa được tập huấn, tìm hiểu các văn bản quy định về VSATTP. Tỉ lệ người bếp trưởng có kiến thức đúng về mối nguy thực phẩm là 48,3%, biết đúng về nội dung “những tác nhân gây ô nhiễm thực phẩm” chỉ 28,1% rất thấp so với kết quả nghiên cứu của tại TP. Hồ Chí Minh năm 2010 là 72%(5), tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 là 94%(7), tại huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh năm 2014 là 100%(3). Điều này có thể do mối nguy VSATTP thuộc về kiến thức chuyên môn mà trình độ học vấn của bếp trưởng ở bậc tiểu học và THCS chiếm tỉ lệ lớn và phần đông chưa được đào tạo nghiệp vụ về nấu ăn. Tỉ lệ người bếp trưởng có kiến thức đúng trong chế biến, bảo quản thực phẩm là 99%, kết quả này cao hơn một số nghiên cứu trước như nghiên cứu tại huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh năm 2014 là 47,4%(3), tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 là 73%(1), có lẽ kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn là do thiết kế nội dung kiến thức về chế biến, bảo quản thực phẩm rất cơ bản áp dụng cho phần đông đối tượng và chỉ tiêu đạt của chủ đề này chỉ cần đối tượng trả lời đúng 3/4 nội dung. Bảng 5: Tỉ lệ bếp trưởng thực hành VSATTP chung đúng (n=89) Nội dung Tần số Tỉ lệ % Thủ tục hành chính 17 19,1 Trang phục bảo hộ 55 61,8 Vệ sinh cá nhân 57 64 Chế biến, bảo quản thực phẩm 10 11,2 Đúng chung 8 9 Tỉ lệ bếp trưởng có thực hành VSATTP chung đúng rất thấp so với các nghiên cứu tại Hà Nội năm 2011 là 58,2%(6), tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013 là 43,1%(8), tại Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 265 huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 là 59%(1). Điều này cho thấy sự cần thiết của việc quản lý, giám sát thường xuyên của cơ quan chức năng, một mặt đem đến kiến thức VSATTP cho người chế biến thực phẩm, mặt khác giúp họ thay đổi được hành vi tốt trong việc thực hành chế biến thực phẩm. Tỉ lệ bếp trưởng được xác nhận kiến thức VSATTP và có khám sức khỏe định kỳ rất thấp so với hầu hết các nghiên cứu tại thành phố Hà Nội năm 2010 là 94,6%(2), tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 là 89%(6). Điều này dễ nhận thấy tất cả cơ sở DVNALD trên địa bàn hoạt động tự do, tỉ lệ cao bếp trưởng có nghề khác ngoài phục vụ đám tiệc không liên quan đến điều kiện VSATTP và đối tượng của các nghiên trên đã được cơ quan chức năng quản lý, giám sát về VSATTP, do vậy tỉ lệ này thấp hơn các nghiên khác là cũng phù hợp. Tỉ lệ bếp trưởng có mang đầy đủ trang phục bảo hộ 61,8% thấp hơn kết quả nghiên cứu tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013 là 73,5%(8), tại Hà Nội năm 2010 là 94,6%(2), tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 là 95%(1). Việc chấp hành nghiêm túc trang phục bảo hộ có thể do ý thức của đối tượng nhưng nếu có sự quản lý, giám sát của cơ quan chức năng thì việc chấp hành sẽ tốt hơn, vì vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn là phù hợp. Tỉ lệ bếp trưởng có thực hành đúng về vệ sinh cá nhân chiếm phần lớn 64%, kết quả cũng tương đồng với nghiên cứu tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013: không mang đồng hồ, nhẫn là 94,1%, không hút thuốc, khạc nhổ trong khu vực chế biến 96,1%, móng tay cắt ngắn, sạch 98,1%(5). Bảng 6: Liên quan giữa đặc tính mẫu với kiến thức VSATTP chung (n=89) Đặc tính Kiến thức VSATTP P PR (KTC 95%) Đúng Không đúng Giới tính Nam 3(9,1) 30(90,9) 0,03 0,32 (0,1 - 0,9) Nữ 16(28,6) 40(71,4) 1 Tuổi < = 35 7 (28,0) 18 (72,0) 1 36 – 45 5(13,5) 32(86,5) 0,2 0,48 (0,17 - 1,35) > 45 7 (25,9) 20(74,1) 1,0 0,93 (0,38 - 2,27) Học vấn Tiểu học 1(14,3) 6(85,7) 1 THCS 10(20,8) 38(79,2) 1,0 1,46 (0,22 - 9,72) THPT trở lên 8 (23,5) 26(76,5) 1,0 1,65 (0,24 - 11,16) Thâm niên <= 1 năm 5(11,9) 37(88,1) 1 >1-3 năm 4(21,1) 15(78,9) 0,44 1,77 (0,53- 5,86) > 3 năm 10 (35,7) 18(64,3) 0,03 3(1,15 - 7,84) Nghiệp vụ nấu ăn Có 11 (91,7) 1(8,3) <0,001 8,82 (4,48 - 17,38) Không 8 (10,4) 69(89,6) 1 Nghề khác liên quan đến điều kiện ATTP Có 14 (58,3) 10(41,7) <0,001 7,58 (3,06 - 18,79) Không 5 (7,7) 60(92,3) 1 Tỉ lệ bếp trưởng có thực hành đúng về chế biến, bảo quản thực phẩm rất thấp so với kết quả nghiên cứu tại Hà Nội năm 2010: 51,7% cơ sở có chế biến, bảo quản thực phẩm trên kệ cách mặt sàn >60cm, 85% cơ sở có thu gom rác thải vào thùng có nắp kín, 78,3% cơ sở có thực hiện chế biến thực phẩm theo nguyên tắc một chiều(2). Người bếp trưởng thực hành không đúng nhiều nội dung đựợc cho là nguy cơ rất lớn dẫn đến mất an toàn thực phẩm như không cơ sở nào tổ chức chế biến theo nguyên tắc một chiều, gần 78% bố trí nơi chế biến gần nguồn ô nhiễm, trên 75% không thu gom rác thải hoặc chứa trong dụng cụ không an toàn, thực phẩm không được bảo quản đúng cách trên 68%, đó là điều thực tế việc tổ chức nơi nấu ăn là tạm thời thường không chú ý nhiều đến đảm bảo VSATTP mà chỉ cần thuận tiện cho việc phục vụ. Do vậy cơ quan Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 266 chức năng địa phương cần can thiệp ngay, hướng dẫn kịp thời việc tổ chức khu vực nấu ăn đảm bảo an toàn. Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng ở nam giới là 9,1% và ở nữ giới là 28,6%, sự khác biệt giữa 2 tỉ lệ này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỉ lệ những bếp trưởng cở sở DVNALD là nam giới có kiến thức VSATTP đúng chỉ bằng 0,32 lần những bếp trưởng là nữ giới (KTC 95%: 0,1–0,9, p=0,03). Các nghiên cứu trước như nghiên cứu tại huyện Cần Giuộc tỉnh Long An năm 2013, tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009 mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), vì đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi có đặc điểm: chủ yếu tỉ lệ bếp trưởng được đào tạo nghiệp vụ nấu ăn và nghề khác ngoài phục vụ đám, tiệc có liên quan đến điều kiện VSATTP là nữ giới, vì thế cần phải có giải pháp, khuyến khích nam giới tham gia các khóa đào tạo nghiệp vụ nấu ăn, tập huấn kiến thức VSATTP. Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng ở độ tuổi từ dưới 35 tuổi là 28%; 36 – 45 tuổi là 13,5% và trên 45 tuổi là 25,9%, sự khác biệt giữa các tỉ lệ này không có ý nghĩa thống kê p>0,05. Mối liên quan giữa các nhóm tuổi với kiến thức VSATTP không có ý nghĩa thống kê p>0,05, khác với nghiên cứu tại huyện Hóc Môn TP.Hồ Chí Minh năm 2009, tại thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương năm 2013(9) tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi với kiến thức VSATTP (p<0,05). Tuy chúng tôi chia nhóm tuổi có sự khác nhau với các tác giả trên nhưng nhận thấy kết quả của chúng tôi phù hợp vì đối tượng nghiên cứu của chúng tôi hầu hết có tuổi nghề thấp cho nên sự tiếp cận với kiến thức VSATTP, kinh nghiệm ở các nhóm tuổi không khác biệt nhiều. Tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng ở trình độ học vấn tiểu học là 14,3%, phổ thông cơ sở là 20,8% và từ phổ thông trung học trở lên là 23,5%, sự khác biệt giữa các tỉ lệ này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Khác với các nghiên cứu trước mối liên quan này có ý nghĩa thống kê p<0,05 tại huyện Hóc Môn TP. Hồ Chí Minh năm 2009, tại huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh năm 2014(3), tại Nigeria năm 2013(7), có thể do địa điểm khác và cỡ mẫu không đủ lớn nên ở nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng ở các nhóm tuổi nghề có ý nghĩa thống kê với p< 0,05; nhóm tuổi nghề trên 3năm có kiến thức đúng gấp 3 lần so với nhóm có tuổi nghề từ 1 năm trở xuống với p=0,03, KTC 95% (1,15 – 7,84). Kết quả này đồng nhất với nghiên cứu tại huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh năm 2014(3), chúng tôi nhận thấy phù hợp vì người có tuổi nghề cao thì sẽ có thời gian nhiều hơn trong công việc nên nhận được kinh nghiệm và kiến thức về VSATTP nhiều hơn. Tỉ lệ bếp trưởng ở các cở sở DVNALD có kiến thức VSATTP chung đúng ở nhóm có nghiệp vụ nấu ăn là 91,7% và ở nhóm chưa học nghiệp vụ nấu ăn là 10,4%, sự khác biệt giữa 2 tỉ lệ này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỉ lệ những bếp trưởng cở sở DVNALD có nghiệp vụ nấu ăn có kiến thức VSATTP cao gấp 8,8 lần ở những bếp trưởng cở sở DVNALD chưa học nghiệp vụ nấu ăn (KTC 95%: 4,48 – 17,38, p<0,001). Ở các nghiên cứu tại TP. Hồ Chí Minh năm 2010(5), tại Bang Bahir Dar năm 2011(4), tại Nigeria năm 2013(7) cũng tìm thấy mối liên quan này có ý nghĩa thống kê p<0,05. Vì thế cơ quan chức năng cần mở nhiều lớp đào tạo nghiệp vụ nấu ăn không những cho đối tượng là bếp trưởng, người trực tiếp chế biến thực phẩm mà người nội trợ ở gia đình cũng rất hữu ích. Tỉ lệ những bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng ở nhóm có nghề khác ngoài phục vụ đám tiệc liên quan đến điều kiện VSATTP cao gấp 7,6 lần tỉ lệ những bếp trưởng có kiến VSATTP chung đúng ở nhóm nghề nghiệp khác không liên quan đến điều kiện VSATTP (KTC 95%: 3,06 – 18,79, p<0,001). Đây là loại hình phục vụ ăn uống tương đối khác với bếp ăn tập thể cố định, thức ăn đường phố, do tần suất phục vụ không liên tục nên ngoài thời Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 267 gian phục vụ đám tiệc bếp trưởng còn làm nghề nghiệp khác, cho nên cơ quan chức năng cần quan tâm đến những người làm nghề khác không liên quan đến điều kiện VSATTP. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã tiến hành trên 89 bếp trưởng của 89 cơ sở dịch vụ nấu ăn lưu động tại huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định, nhìn chung quy mô phục vụ của những cơ sở này rất lớn trung bình 500 suất/bữa ăn, thấp nhất cũng từ 250 suất/bữa ăn. Giới tính nữ chiếm đa số 62,9%; độ tuổi tập trung chủ yếu ở từ 36-45 chiếm 41,6%; trình độ học vấn THCS chiếm hơn phân nửa 53,9%, thấp nhất là tiểu học 7,9%; đa số tuổi nghề của bếp trưởng tại các cở sở DVNALD dưới hoặc bằng 1 năm 47,2%; người bếp trưởng được đào tạo nghiệp vụ nấu ăn chiếm tỉ lệ rất thấp 13,5%; đa phần người bếp trưởng có nghề khác ngoài phục vụ đám tiệc không liên quan đến điều kiện VSATTP chiếm tới 73%. Tỉ lệ bếp trưởng của các cở sở DVNALD có tiếp nhận thông tin kiến thức VSATTP rất thấp chỉ 50,6%. Nguồn thông tin tiếp nhận từ ti vi, đài phát thanh là cao nhất 71,1%, từ báo, internet, pano 66,7%, từ cán bộ y tế 51,1%, từ học ở trường 26,7% và gia đình, bạn bè 17,8%. Tỉ lệ người bếp trưởng có kiến thức VSATTP chung đúng chỉ khoảng 21%, trong đó: tỉ lệ bếp trưởng có kiến thức VSATTP đúng về điều kiện cơ sở 34,8%; điều kiện thiết bị, dụng cụ 34,8%; điều kiện con người 74,2%; mối nguy ATTP 48,3%; chế biến, bảo quản thực phẩm 98,9%. Tỉ lệ người bếp trưởng có thực hành VSATTP chung đúng rất thấp (9%), trong đó tỉ lệ có thực hành đúng về chế biến, bảo quản thực phẩm thấp nhất 11,2%; thực hiện đầy đủ thủ tục hành chính là 19,1%; mang đầy đủ trang phục bảo hộ cá nhân 61,8%; thực hiện đảm bảo vệ sinh cá nhân 64%. Nghiên cứu cho thấy giữa các nhóm tuổi, trình độ học vấn của bếp trưởng có hiểu biết kiến thức VSATTP cũng không khác nhau. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ bếp trưởng nam giới có kiến thức VSATTP đúng thấp hơn nữ giới; tuổi nghề càng cao thì tỉ lệ có kiến thức VSATTP đúng cao hơn; người được đào tạo nghiệp vụ nấu ăn thì có kiến thức VSATTP đúng nhiều hơn những người chưa được đào tạo; tỉ lệ bếp trưởng có nghề khác liên quan đến điều kiện VSATTP thì có kiến thức VSATTP đúng cao hơn những bếp trưởng có nghề không liên quan với điều kiện VSATTP. KHUYẾN NGHỊ Cần phân cấp quản lý cho tuyến huyện và xã để tăng cường sự quản lý, giám sát phù hợp đối với cơ sở DVNALD. Thúc đẩy người chế biến thực phẩm đi khám sức khỏe định kỳ, học tập kiến thức VSATTP để từ đó có ý thức tổ chức nấu ăn đảm bảo đúng quy định VSATTP. Phối hợp tổ chức đào tạo nghiệp vụ nấu ăn cho người chế biến thực phẩm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Thị Thu Trang, Tô Gia Kiên (2010). Kiến thức và thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm tại các bếp ăn tập thê trường học huyện Hóc Môn năm 2009. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 14(1): Tr: 121-126. 2. Hoàng Đức Hạnh, Lê Đức Thọ, Nguyễn Thùy Dương (2014). Đánh giá thực trạng an toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2010. Tạp chí Y tế công cộng, số 33: Tr 37-41. 3. Hùng Công Bình (2014). Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể trường mẫu giáo huyện Hòa Thành tỉnh Tây Ninh năm 2014. Luận văn chuyên khoa I ATTP, Viện Y tế Công cộng Tp Hồ Chí Minh: Tr: 26-40. 4. Mulugeta K, Bayeh A (2012). The Sanitary Conditions of Food Service Establishments and Food Safety Knowledge and Practices of Food Handlers in Bahir Dar Town. Ethiop J Health Sci, 22(1): pp 27–35. 5. Nguyễn Minh Hùng, Nguyễn Thị Huỳnh Mai, Lê Trường Giang (2010). Tình hình an toàn vệ sinh thực phẩm bếp ăn tập thể trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và các giải pháp phòng ngừa ngộ độc thực phẩm. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(1): Tr. 88-94. 6. Nguyễn Thùy Dương, Lê Đức Thọ, Đỗ An Thắng (2012). Đánh giá KAP của người quản lý, người chế biến tại bếp ăn tập thể các trường mầm non khu vực nội thành Hà Nội 2011. Tạp chí Y tế công cộng, 25: Tr. 43-49. 7. Sylvester NO, Craig WH (2013). An Assessment of Food Safety Needs of Restaurants in Owerri, Imo State, Nigeria. nt J Environ Res Public Health, 10(8): pp. 3296-3309. 8. Trần Văn Tập (2013). Kiến thức thực hành vệ sinh an toàn thực phẩm ở người tham gia nhóm nấu ăn gia đình tại huyện Cần Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 268 Giuộc, tỉnh Long An năm 2013. Luận văn chuyên khoa I ATTP, Viện Y tế Công cộng Tp Hồ Chí Minh: Tr. 24 - 41. 9. Vũ Thị Tuyết Trinh (2013). Kiến thức, thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của nhân viên nhà bếp tại các trường mầm non thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương năm 2013. Luận văn chuyên khoa I, Viện Y tế Công cộng Tp Hồ Chí Minh: Tr. 24-38. Ngày nhận bài báo: 12/7/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/7/2016 Ngày bài báo được đăng: 05/10/2016
File đính kèm:
- kien_thuc_thuc_hanh_cua_bep_truong_cac_co_so_dich_vu_nau_an.pdf