Lí thuyết về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông

TÓM TẮT

Bài báo trình bày khái quát tình hình nghiên cứu về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp

trên thế giới và Việt Nam, kế thừa ý tưởng các nhà khoa học trong và ngoài nước, xây dựng cơ sở

lí thuyết về chức năng và nội dung quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp bao gồm kế hoạch hóa,

tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra tích hợp với các thành tố của chủ thể quản lí, đối tượng quản lí và

công cụ quản lí nhằm đảm bảo tính khoa học và hiệu quả trong quản lí hoạt động tư vấn hướng

nghiệp cho học sinh trung học phổ thông, góp phần thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của

giáo dục, đào tạo trong thời kì mới.

pdf 13 trang yennguyen 4380
Bạn đang xem tài liệu "Lí thuyết về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lí thuyết về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông

Lí thuyết về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
ISSN: 
1859-3100 
KHOA HỌC GIÁO DỤC 
Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
EDUCATION SCIENCE
Vol. 16, No. 4 (2019): 189-200
 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website:  
189 
LÍ THUYẾT VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP 
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 
Nguyễn Trần Vĩnh Linh 
Nhà thờ Phương Lâm, xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Trần Vĩnh Linh – Email: linhmap70@gmail.com 
Ngày nhận bài: 07-3-2019; ngày nhận bài sửa: 18-3-2019; ngày duyệt đăng: 24-4-2019 
TÓM TẮT 
Bài báo trình bày khái quát tình hình nghiên cứu về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp 
trên thế giới và Việt Nam, kế thừa ý tưởng các nhà khoa học trong và ngoài nước, xây dựng cơ sở 
lí thuyết về chức năng và nội dung quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp bao gồm kế hoạch hóa, 
tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra tích hợp với các thành tố của chủ thể quản lí, đối tượng quản lí và 
công cụ quản lí nhằm đảm bảo tính khoa học và hiệu quả trong quản lí hoạt động tư vấn hướng 
nghiệp cho học sinh trung học phổ thông, góp phần thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của 
giáo dục, đào tạo trong thời kì mới. 
Từ khóa: quản lí, tư vấn hướng nghiệp, học sinh trung học phổ thông. 
1. Đặt vấn đề 
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Việt Nam là một trong những nước chịu 
ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng công nghiệp 4.0. Trong những năm tới, Việt Nam 
sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về chất lượng nguồn nhân lực như trình độ chuyên 
môn kĩ thuật của lao động còn thấp cũng như năng suất lao động thấp hơn nhiều nước 
trong khu vực ASEAN, không thể không qua con đường giáo dục. Từ nhiều năm Đảng 
và Nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục hướng nghiệp (GDHN) nói riêng nhằm 
giải quyết được những thách thức trên. Tuy nhiên, tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 
15-24 tuổi) năm 2016 là 7,34%, trong đó khu vực thành thị là 11,30%; khu vực nông 
thôn là 5,74%. Tỉ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2016 là 
1,64%, thấp hơn mức 1,89% của năm 2015 và 2,40% của năm 2014. (Trích theo số liệu 
Tổng cục thống kê về tình hình kinh tế xã hội năm 2016). Một trong những yếu tố ảnh 
hưởng dẫn đến tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm trong thanh niên, thậm chí sinh 
viên tốt nghiệp đại học là do các trường trung học phổ thông (THPT) chưa làm tốt công 
tác quản lí tư vấn hướng nghiệp (TVHN) cho học sinh (HS), quản lí hoạt động này còn 
nhiều bất cập, chưa mang lại hiệu quả thiết thực 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
190 
2. Giải quyết vấn đề 
2.1. Tình hình nghiên cứu quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh 
trung học phổ thông 
2.1.1. Trên thế giới 
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, TVHN thực sự trở thành một lĩnh vực khoa học 
độc lập với những công trình nghiên cứu lí thuyết điển hình của các nhà tâm lí học tư 
vấn Kettell (1880), Gallton (1883), Davis (1907), Parsons (1909), Keller & Viteles 
(1937), Holland (1986) Giữa cuối thế kỉ XX, TVHN và quản lí hoạt động TVHN 
được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm. Điển hình như: 
- Ở Mĩ, chương trình TVHN được đề cập trong rất nhiều chương trình, hoạt động 
cụ thể, hướng đến 3 lĩnh vực, gồm: Những kiến thức về bản thân (self-knowledge); 
Giáo dục và khám phá nghề nghiệp (Educational and occupational exploration); Và kế 
hoạch nghề nghiệp (carreer planning). 
- Tại Pháp, TVHN trong các nhà trường được tổ chức một cách chặt chẽ, chịu sự 
quy định nghiêm ngặt của luật pháp, chính phủ và ngành giáo dục trong việc bắt buộc 
các cơ sở giáo dục, đào tạo (nhà trường các cấp) xây dựng, triển khai các hoạt động 
TVHN thông qua Bộ Luật TVHN và đào tạo nghề suốt đời (2009) và được tiếp tục áp 
dụng cho đến nay. 
- Ở Malaysia, từ những năm 1960, Bộ Giáo dục đã nhận thức rõ tầm quan trọng 
của tư vấn hướng dẫn nghề trong trường học và đã thiết lập bộ phận tư vấn và hướng 
dẫn tại phòng kế hoạch và nghiên cứu giáo dục (Educational Planning and Research 
Division). Đề đảm bảo hiệu quả của công việc TVHN cho HS, GV làm công tác hướng 
dẫn nghề nghiệp phải nắm qua về 25 môn học, khả năng làm việc nhóm và nhiều hoạt 
động tập thể khác của HS. 
- Ở New Zealand, nhu cầu TVHN của nước này tăng cao, nhưng chi phí của chính 
phủ dành cho hoạt động này lại bị cắt giảm. Chính phủ cũng không có một quy chế cụ 
thể nào về hoạt động của các nhà tư vấn nói chung và tư vấn nghề nghiệp nói riêng, vì 
vậy các nhà tư vấn phải hoạt động dựa trên những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, 
phải tự đặt ra những mức phí có thể chấp nhận được. (dẫn theo Lê Thị Thanh Hương, 
2010, tr.84-87). 
Nhìn chung ở những nước phát triển, quản lí TVHN được tất cả các cấp quản lí từ 
cấp chính phủ đến địa phương coi trọng và được triển khai rộng khắp với sự tham gia 
không chỉ của nhà trường mà còn nhiều tổ chức xã hội khác nhau, tạo thành một hệ 
thống liên hoàn chặt chẽ. Tạo những điều kiện thuận lợi cả về mặt vật chất lẫn hệ thống 
những thông tin cần thiết để đảm bảo cho hoạt động TVHN cho HS có hiệu quả. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Trần Vĩnh Linh 
191 
2.1.2. Tại Việt Nam 
TVHN ở nước ta đã được nghiên cứu từ những năm 80 của thế kỉ XX. Cơ sở 
pháp lí của hoạt động hướng nghiệp được thể hiện qua những chủ trương, chính sách, 
văn bản pháp luật của nhà nước, qua những thông tư quyết định có liên quan của các cơ 
quan quản lí trực tiếp – Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác nhận rõ tầm quan trọng của 
công tác TVHN, đó là: 1) Nội dung cơ bản của hướng nghiệp (sự hài hòa giữa sở thích, 
hứng thú nghề, năng lực cá nhân và nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực; 2) Tính đa 
dạng của các hình thức hướng nghiệp; 3) Sự liên kết, phối hợp của các ban ngành, các 
tổ chức xã hội. Cơ quan chịu trách nhiệm chính trong công tác hướng nghiệp cho HS 
phổ thông là Bộ Giáo dục và Đào tạo; Các ban ngành, tổ chức khác phải có trách nhiệm 
phối hợp (Bộ kế hoạch và đầu tư, chính quyền địa phương các cấp, tổ chức xã hội, tổ 
chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, gia đình). 
Bên cạnh đó, từ năm 1996 đến nay đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về 
hướng nghiệp và tư vấn nghề cho HS, tập trung vào các đặc điểm của bản thân trong 
quá trình chọn nghề, tư vấn nghề đã được công bố điển hình như các nghiên cứu 
chuyên sâu của Đặng Danh Ánh về tư vấn chọn nghề cho HS phổ thông trải dài từ năm 
2003-2010, Phạm Tất Dong về hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông từ năm 
1978-2012, Lê Thị Thanh Hương (2010), Phạm Văn Sơn (2012), Đỗ Thị Bích Loan 
(2015), Lê Duy Hùng (2018). Kết quả về hoạt động TVHN được các tác giả tập trung 
về cơ sở lí luận, thực trạng và đề xuất biện pháp. Trong cơ sở lí luận, đáng lưu ý rằng 
chưa có sự thống nhất về khái niệm “tư vấn hướng nghiệp”, “tư vấn nghề”, “tư vấn 
hướng nghiệp”, “tham vấn hướng nghiệp” và “tư vấn học đường”. Đồng thời, các tác 
giả cũng đã nghiên cứu về nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, thực trạng GDHN và TVHN 
tại 3 trung tâm giáo dục lớn nhất: Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. Những nội 
dung như đã trình bày về TVHN được các tác giả nghiên cứu với cách tiếp cận tâm lí 
học là chủ yếu. 
Tóm lại, mặc dù nhà nước và các cơ quan hữu quan đã có những chủ trương định 
hướng cho việc triển khai hoạt động này nhưng đến thời điểm hiện tại TVHN ở Việt 
Nam vẫn còn chưa thật sự được chú trọng, nhà nước đã đưa những quy định về công 
tác hướng nghiệp xuống các trường THPT, nhưng chưa có chế tài kiểm soát việc thực 
thi các quy định này hay nói cách khác, việc thực hiện quản lí TVHN còn yếu và kém 
hiệu quả. Đây chính là cơ sở lí luận cho phân tích lí thuyết quản lí hoạt động TVHN 
cho HS trường THPT ở phần sau. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
192 
2.2. Cơ sở lí luận về quản lí hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học 
phổ thông 
2.2.1. Khái niệm công cụ 
Trên cơ cở những nghiên cứu mang tính lí luận và thực tiễn về “tư vấn hướng 
nghiệp”, “tư vấn nghề”, “tư vấn hướng nghiệp” ‘tham vấn hướng nghiệp” và “tư vấn 
học đường” của các tác giả Hoàng Phê (2002), Đặng Danh Ánh (2009), Lê Thị Thanh 
Hương (2010), Phạm Văn Sơn (2012), Phạm Ngọc Linh (2013), Hồ Phụng Hoàng 
Pheonix và Trần Thị Thu (2015), Đỗ Thị Bích Loan (2015), Nguyễn Thị Thanh Huyền 
(2015), chúng tôi đưa ra các thuật ngữ có liên quan sau đây: 
 Tư vấn 
Thuật ngữ “couseling” trong tiếng Anh được chuyển sang tiếng Việt chủ yếu 
thành hai thuật ngữ “tư vấn” và “tham vấn”. Có thể hiểu tư vấn là hoạt động có sự tác 
động của chủ thể tư vấn và khách thể được tư vấn nhằm giúp người được tư vấn 
đưa ra quyết định cho một vấn đề nào đó. Chủ thể tư vấn là người có trình độ chuyên 
môn, có kinh nghiệm, được đạo tạo chuyên nghiệp, có kiến thức, kĩ năng và các phẩm 
chất đạo đức phù hợp với hoạt động tư vấn. Khách thể được tư vấn là người đang gặp 
khó khăn về các vấn đề liên quan đến tâm lí hay các mối quan hệ xã hội mà không tự 
giải quyết được và có nhu cầu được giúp đỡ. Kết quả của hoạt động tư vấn là khách thể 
được tư vấn lớn mạnh về nhận thức và tự giải quyết được vấn đề khó khăn của mình. 
Hiện nay, giữa các nhà chuyên môn còn chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng 
những thuật ngữ này. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thuật ngữ “tham vấn” được sử 
dụng trong lĩnh vực tâm lí học bởi tham vấn tâm lí khác với tư vấn ở chỗ nhà tham vấn 
không được phép cho khách hàng những lời khuyên (như trong tư vấn), mà chủ yếu 
bằng các thủ pháp chuyên môn khác nhau, khích lệ khách hàng để họ tự tìm ra cách 
giải quyết vấn đề của mình một cách phù hợp nhất. Thuật ngữ “tư vấn” với nội hàm 
chung, bao gồm cả tham vấn tâm lí thường được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau 
của đời sống xã hội mà trong quá trình làm việc nhà TVHN vừa có thể sử dụng các 
biện pháp tâm lí làm cho khách hàng hiểu rõ bản thân, những mặt mạnh mặt yếu của họ 
vừa cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết liên quan đến ngành nghề khác 
nhau trong xã hội, từ đó hướng dẫn hoặc đề xuất cho khách hàng những cách 
thức/phương án lựa chọn ngành nghề trên cơ sở phân tích sự phù hợp giữa năng lực, sở 
thích điều kiện cá nhân và những yêu cầu của nghề, yêu cầu của thị trường lao động 
(Lê Thị Thanh Hương, 2010, tr.24-25). 
 Hướng nghiệp 
Khái niệm “Hướng nghiệp” (Carreer guidance) được phổ biến rộng rãi sau Hội 
nghị Quốc tế về Tâm lí học năm 1938 ở Barcelona, Tây Ban Nha. Sau đó ở các nước 
phương Tây đã ứng dụng những thành tựu nghiên cứu về lĩnh vực hướng nghiệp vào 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Trần Vĩnh Linh 
193 
thực tế cuộc sống. Ở Việt Nam, Thông tư số 31-TT/17/11/1981 về việc hướng dẫn 
thực hiện quyết định của hội đồng chính phủ về công tác hướng nghiệp trong nhà 
trường phổ thông và sử dụng hợp lí HS phổ thông tốt nghiệp có quy định: “Hướng 
nghiệp là một yêu cầu cần thiết của cải cách giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nguyên 
lí và nội dung giáo dục của Đảng; góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc phân công 
và sử dụng hợp lí HS sau khi tốt nghiệp. Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ 
thông nhằm mục đích bồi dưỡng, hướng dẫn HS chọn nghề phù hợp với yêu cầu phát 
triển của xã hội, đồng thời phù hợp với thể lực và năng khiếu của cá nhân. Hướng 
nghiệp phải dựa trên cơ sở giáo dục kĩ thuật tổng hợp và giáo dục toàn diện; Hướng 
nghiệp phải căn cứ vào phương hướng phát triển kinh tế, văn hoá và nhu cầu sử dụng 
nguồn lao động dự trữ của đất nước và địa phương; Mức độ nội dung, hình thức và 
phương pháp hướng nghiệp phải phù hợp với đặc điểm của HS (sức khỏe, lứa tuổi, 
trình độ học tập, xu hướng...)”. 
Như vậy, có thể định nghĩa: “Hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tác 
động tác động của gia đình, nhà trường và toàn xã hội vào quá trình định hướng nghề 
nghiệp của cá nhân bằng cách giúp họ lựa chọn và xác định được vị trí nghề nghiệp của 
mình trong cuộc sống trên cơ sở kết hợp năng lực, sở trường, nguyện vọng của cá nhân 
với điều kiện gia đình và nhu cầu thị trường lao động, qua đó cá nhân tự quyết định 
chọn lấy một nghề phù hợp trong lao động nghề nghiệp sau này”. 
 Tư vấn hướng nghiệp 
Thuật ngữ Tư vấn hướng nghiệp đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên 
cứu nhưng chưa có công trình nào chỉ ra thật rõ ràng sự giống nhau và khác nhau giữa 
tư vấn nghề, TVHN và tư vấn nghề nghiệp (Career counseling). Theo tác giả Đặng 
Danh Ánh (2009, tr.3-4); Lê Thị Thanh Hương (2010, tr.32-33) về 3 thuật ngữ trên, có: 
Điểm giống nhau: Về hình thức lẫn nội dung thì tư vấn nghề, TVHN và tư vấn nghề 
nghiệp đều có chung mục tiêu chung nhất, cao nhất là giúp HS chọn được ngành học, 
nghề học và trường học sao cho phù hợp với yêu cầu của nghề, của xã hội và đặc điểm 
của bản thân các em. Điểm khác nhau cơ bản: Xét về đối tượng, phạm vi và mức độ thì 
tư vấn nghề là tư vấn diện hẹp, phạm vi diễn ra trong trường dạy nghề, trường trung 
cấp chuyên nghiệp, nó gắn với một ngành, một nghề cụ thể và đặc biệt gắn với khâu 
tuyển chọn nghề. Tư vấn nghề nghiệp bao gồm tất cả những hoạt động tư vấn gắn với 
những lựa chọn nghề nghiệp trải dài trong toàn bộ cuộc đời của cá nhân, trong khi đó 
TVHN quan tâm chủ yếu đến việc tư vấn định hướng nghề nghiệp cho HS trong các 
trường thuộc hệ thống giáo dục phổ thông. TVHN là tư vấn diện rộng, đối tượng của 
TVHN là HS phổ thông, phạm vi diễn ra trong nhà trường phổ thông và trong trung 
tâm kĩ thuật tổng hợp-hướng nghiệp. Như vậy, nội hàm khái niệm tư vấn nghề nghiệp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
194 
bao hàm cả nội hàm khái niệm TVHN. TVHN được xem như là giai đoạn đầu của tư 
vấn nghề nghiệp. 
Các định nghĩa trên cho thấy TVHN bao gồm hai loại công việc: Một là hoạt 
động hướng dẫn, định hướng cho HS đi đến một nghề nhất định và Hai là hoạt động 
chuẩn bị cho các em cả về tri thức, kĩ năng, thái độ để tham gia vào lĩnh vực nghề 
nghiệp đó (tất nhiên nghề nghiệp này phải phù hợp với hứng thú, năng lực của các em 
và phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội, của thị trường sức lao động). 
 Quản lí 
Từ những định nghĩa của Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich 
(1998), Hoàng Phê (2002), Thái Duy Tuyên (2010), Nguyễn Lộc (2010), Trần Kiểm & 
Nguyễn Xuân Thức (2012) có thể khái quát quản lí là “sự tác động có tổ chức, có kế 
hoạch, có hướng đích của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí, thông qua thông qua 
các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá để đạt được mục tiêu 
quản lí. Bản chất của quản lí là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lí đến đối 
tượng quản lí, nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Giữa chủ thể quản lí và khách thể quản lí 
có mối quan hệ tác động qua lại tương hỗ nhau. Chủ thể quản lí nảy sinh các động lực 
quản lí, còn khách thể quản lí làm nảy sinh các giá trị vật chất và tinh thần, đáp ứng 
nhu cầu của con người, thỏa mãn mục đích của chủ thể quản lí”. 
 Tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông 
Hoạt động TVHN cho HS THPT là quá trình tương tác giữ chủ thể tư vấn là GV 
THPT hay chuyên gia TVHN với đối tượng tư vấn là HS, trong đó chủ thể tư vấn phải 
có kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp để giúp HS hiểu  ... ó của nhà trường nhằm đạt mục tiêu của hoạt động này cho HS trong 
trường THPT. 
Bộ máy quản lí hoạt động TVHN ở trường THPT bao gồm: Ban giám hiệu (Hiệu 
trưởng, phó hiệu trưởng); Tổ trưởng bộ môn; GV chủ nhiệm; GV bộ môn; Đoàn Thanh 
niên Cộng sản Hồ Chí Minh; GV giảng dạy kĩ thuật; Đại diện hội cha mẹ HS; Các cơ 
sở sản xuất ở địa phương. (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1981) 
2.2.2. Quản lí hoạt động TVHN ở trường THPT 
Quản lí hoạt động TVHN ở trường THPT có ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc 
định hướng, lựa chọn nghề, lựa chọn trường phù hợp cho HS tốt nghiệp THPT trong 
tương lai. Quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT là hệ thống những tác động có ý 
thức của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí bằng các phương pháp và công cụ nhất 
định thông qua việc thực hiện các chức năng quản lí (lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo 
và kiểm tra, đánh giá) hoạt động TVHN và sử dụng mọi nguồn lực sẵn có của nhà 
trường nhằm đạt mục tiêu của hoạt động này cho HS trong trường THPT. 
Theo Trần Kiểm (2014, tr.11), quản lí giáo dục trong phạm vi nhà trường (vi mô) 
là “hoạt động quản lí bao gồm nhiều loại, như quản lí hoạt động giáo dục: hoạt động 
dạy học, hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp), hoạt động xã hội, hoạt động văn thể, hoạt 
động lao động, hoạt động ngoại khóa, hoạt động GDHN...; quản lí các đối tượng khác 
nhau: quản lí GV, HS, quản lí tài chính, quản lí cơ sở vật chất...; quản lí nhiều khách 
thể khác: quản lí thực hiện xã hội hóa giáo dục, điều tiết và điều chỉnh ảnh hưởng từ 
bên ngoài nhà trường, tham mưu với Hội phụ huynh HS...”. Bên cạnh đó, quản lí giáo 
dục được diễn ra theo một quá trình, trong quá trình này có sự tác động của các nhân tố 
bên trong và bên ngoài nhằm thực hiện mục đích của quản lí đề ra thông qua bốn chức 
năng cơ bản: Kế hoạch hóa, tổ chức, điều khiển (chỉ đạo thực hiện) và kiểm tra. Trong 
quá trình quản lí còn cần sự tác động từ các yếu tố cơ bản: chủ thể quản lí, đối tượng 
quản lí (người tác động trực tiếp đến đối tượng được tư vấn) và công cụ quản lí. Do đó, 
những lí thuyết quản lí giáo dục trong phạm vi nhà trường đều vận dụng trong quản lí 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
196 
hoạt động TVHN. Vậy, quản lí hoạt động TVHN ở trường THPT được khái quát theo 
hai góc độ dưới đây: 
2.2.1. Chức năng quản lí hoạt động TVHN ở trường THPT 
- Xây dựng kế hoạch TVHN cho HS THPT với các nội dung: Xác định mục tiêu 
hoạt động TVHN của trường; Xây dựng chương trình hoạt động TVHN của trường 
trong đó thể hiện rõ: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức TVHN và 
hướng dẫn cách thực hiện chương trình hoạt động TVHN; Lập kế hoạch phát triển và 
bồi dưỡng đội ngũ CBQL, GV, CBĐTN tham gia TVHN cho trường theo từng năm; 
Lập kế hoạch thực hiện hoạt động GDHN, TVHN trong năm học và theo từng học kì, 
từng tháng cho từng khối lớp sát với điều kiện của trường và đáp ứng nhiệm vụ của 
năm học; Lập kế hoạch phối hợp GDHN giữa nhà trường với đoàn thể, với Ban đại 
diện PH để HN cho các em trong năm; Xác định các nguồn lực để thực hiện hoạt động 
TVHN: nhân lực và vật lực; Xây dựng nội dung chi, định mức chi cho hoạt động 
TVHN từng năm, từng học kì, từng tháng; Duyệt kế hoạch, chương trình hoạt động 
TVHN của trường. 
- Tổ chức hoạt động TVHN: Bao gồm phân công chức danh, nhiệm vụ cụ thể cho 
GV tham gia TVHN; Tổ chức các buổi tập huấn, chuyên đề về kiến thức tâm lí, kĩ năng 
TVHN cho GV; Lập danh sách các công việc cần phải hoàn thành để đạt mục tiêu 
TVHN; Phân chia công việc thành các nhiệm vụ để người tham gia TVHN thực hiện 
hoạt động TVHN một cách thuận lợi và hợp lí; Theo dõi đánh giá tính hiệu quả của cơ 
cấu tổ chức TVHN; Thiết lập cơ chế điều phối, liên kết hoạt động giữa các thành viên 
hay bộ phận tạo điều kiện đạt mục tiêu TVHN; Lựa chọn CBQL, GV nhiệt huyết, có 
năng lực, kinh nghiệm về TVHN để làm lực lượng nòng cốt; Thực hiện các chế độ 
chính sách cho GV tham gia hoạt động TVHN: đãi ngộ, khen thưởng; Khuyến khích 
GV tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ TVHN; Tổ chức thực hiện 
hoạt động GDHN, TVHN của trường theo từng học kì, từng tháng; Thực hiện đủ, kịp 
thời các báo cáo về hoạt động GDHN, TVHN của nhà trường về tình hình phân luồng 
HS sau tốt nghiệp THPT năm trước và đề ra nhiệm vụ TVHN cho năm sau. 
- Chỉ đạo (lãnh đạo thực hiện) hoạt động TVHN: Xác định vấn đề và đề ra nhiệm 
vụ TVHN; Chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động TVHN; Thu thập và xử lí 
thông tin TVHN; Đề ra nhiệm vụ TVHN cụ thể, thực hiện được, sát với điều kiện thực 
tiễn của Trường; Dự kiến các phương án TVHN thay thế dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả 
hoạt động TVHN đã xác định; So sách các phương án theo tiêu chuẩn hiệu quả xác 
định; Ra quyết định về TVHN chính thức; Tổ chức thực hiện quyết định về TVHN; Chỉ 
đạo việc thực hiện các hình thức TVHN gây được sự hứng thú cho HS, điều chỉnh hoạt 
động phối hợp giữa các GVCN, GVBM và GVGDKT để đạt hiệu quả GDHN; Chỉ đạo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Trần Vĩnh Linh 
197 
hoạt động bồi dưỡng kiến thức TVHN cho GV, HS, PH; Theo dõi tiến trình thực hiện 
kế hoạch hoạt động TVHN ở từng năm, học kì, tháng. 
- Kiểm tra, đánh giá hoạt động TVHN: Đó là thu thập thông tin về hoạt động 
TVHN; Kiểm tra việc triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình TVHN; Đánh giá 
hoạt động TVHN theo các tiêu chuẩn đã xây dựng, phương pháp đo lường thành tích 
và xác định sự phù hợp của kết quả đạt được so với tiêu chuẩn; Phát hiện những yếu tố 
tích cực và những yếu tố làm hạn chế đến kết quả của hoạt động TVHN.; Tìm hiểu 
nguyên nhân chưa đạt mục tiêu hoạt động TVHN; Điều chỉnh những sai lệch, quyết 
định quản lí hoạt động TVHN. 
Muốn hoạt động TVHN đạt hiệu quả và chất lượng cao thì quản lí phải bám sát 
theo mục tiêu của hoạt động TVHN đã đề ra và: Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá 
TVHN; Lựa chọn phương pháp kiểm tra, đánh giá hoạt động TVHN phù hợp; Đo 
lường kết quả thực hiện TVHN thường xuyên; Điều chỉnh những sai lệch nhằm làm 
cho toàn bộ hệ thống đạt mục tiêu đã xác định; Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế 
hoạch, chương trình TVHN theo từng năm, học kì, tháng; Kiểm tra việc thực hiện các 
chế độ chính sách cho đội ngũ GV, CBQL tham gia hoạt động TVHN; Kiểm tra việc 
thực hiện các chế độ chính sách cho đội ngũ GV, CBQL tham gia hoạt động TVHN. 
2.2.2. Nội dung quản lí của hoạt động TVHN ở trường THPT 
Quản lí hoạt động TVHN cho HS ở trường THPT nằm trong mối quan hệ với 
quản lí hoạt động giáo dục nói chung và quản lí hoạt động GDHN cho HS của người 
hiệu trưởng. Trong đó: 
- Chủ thể quản lí: Ban giám hiệu (Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng) với tư cách là 
chủ thể quản lí của hoạt động này, có nhiệm vụ: 1) Lập kế hoạch công tác hướng 
nghiệp trong cả năm học, từng học kì, từng tháng; 2) Chủ động phối hợp với chính 
quyền, với các cơ sở sản xuất, các trường dạy nghề đóng tại địa phương trong việc xây 
dựng kế hoạch giúp trường về cơ sở vật chất, cán bộ kĩ thuật nghiệp vụ để dạy lao động 
kĩ thuật, hướng nghiệp và tổ chức lao động sản xuất cho HS; 3) Tổ chức thông báo cho 
GV về tình hình phát triển kinh tế của địa phương và nhu cầu sử dụng nguồn lao động 
dự trữ. Kết hợp với địa phương trong việc sử dụng hợp lí HS ra trường; 4) Chỉ đạo và 
kiểm tra công tác hướng nghiệp của các GV, phối hợp các hình thức hướng nghiệp 
trong và ngoài nhà trường. 
- Đối tượng quản lí của hoạt động TVHN: Là tất cả những người thực hiện và 
nhận nhiệm vụ TVHN, bao gồm: các GV và CB phụ trách TVHN; HS; các tổ chức, 
đoàn thể xã hội như Ban đại diện cha mẹ HS, Hội Liên hiệp phụ nữ, các doanh 
nghiệp... Trong đó: 
+ Nhiệm vụ của GV chủ nhiệm: Nắm bắt tình hình, động viên HS trong lớp chủ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
198 
nhiệm tiếp thu tốt nội dung GDHN và tham gia đầy đủ các buổi TVHN. Tìm hiểu hứng 
thú, sở thích, năng lực và trạng thái tâm lí tiêu biểu của mỗi HS trong lớp; Giúp HS 
nhận thức về tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề trong tương lai và về sự cần thiết 
nằm trong một số lĩnh vực lao động nghề nghiệp phổ biến ở địa phương và trung ương; 
Tạo điều kiện cho HS lớp chủ nhiệm tham gia các hoạt động ngoại khóa, ngoài nhà 
trường. 
+ Nhiệm vụ của GV bộ môn: Giới thiệu cho HS những ngành, nghề có liên quan 
trực tiếp đến môn học; Tìm hiểu hứng thú nghề nghiệp của HS; Phối hợp với GVCN 
hướng dẫn lựa chọn nghề (Thông tư 31), cung cấp cho HS một số hiểu biết về nghề 
nghiệp; Kịp thời và có biện pháp thích hợp bồi dưỡng năng lực, tạo hứng thú học tập 
cho HS đối với bộ môn. 
+ Nhiệm vụ của GV giảng dạy kĩ thuật: Định hướng nghề trong tương lại cho HS, 
giảng dạy nội dung hướng nghiệp và tiến hành TVHN ngay trong khi dạy các môn 
Công nghệ. 
+ Nhiệm vụ của tổ chức Đoàn thanh niên (CBĐTN): Thiết lập mối quan hệ mật 
thiết thường xuyên giữa cơ sở đoàn trường với tổ chức cơ sở đoàn của các cơ quan; giữ 
mối quan hệ thường xuyên với các đoàn viên HS của trường đã tốt nghiệp; Động viên 
đoàn viên thanh niên, GV và HS tích cực tham gia đóng góp vật lực cho hoạt động 
TVHN; Xây dựng các phong trào học tập có nếp sống của người lao động mới: làm chủ 
tri thức khoa học, có lòng say mê và sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp. (Nguyễn 
Thị Thanh Huyền, 2015, tr. 58-61) 
Nội dung trọng tâm của quản lí đối tượng quản lí bao gồm: 1) Lập kế hoạch phát 
triển và bồi dưỡng GV, CBĐTN tham gia TVHN; 2) Tổ chức phân công GV, CBĐTN 
tham gia hoạt động TVHN phù hợp theo nhiệm; 3) Chỉ đạo thực hiện công tác phát 
triển và bồi dưỡng GV, CBĐTN tham gia TVHN; 4) Kiểm tra việc thực hiện công tác 
phát triển và bồi dưỡng GV, CBĐTN tham gia TVHN. 
- Đối tượng được TVHN (HS): Nội dung chủ yếu quản lí đối tượng được tư vấn 
bao gồm: Lập kế hoạch thu thập, thống kê và lưu giữ các thông tin cơ bản: Tên, tuổi, 
địa chỉ, nghề nghiệp của cha mẹ... của HS; điểm các môn học từng học kì, từng năm 
học, điểm thi tốt nghiệp của HS; Tổ chức phân công HS tham gia hoạt động TVHN phù 
hợp theo sở thích, năng lực của các em và nục tiêu TVHN; Chỉ đạo HS tham gia hoạt 
động TVHN ở trường; Kiểm tra việc tham gia hoạt động TVHN ở trường của HS. 
- Công cụ quản lí hoạt động TVHN: Đó là các chủ trương chính sách, chúng sẽ 
đảm bảo tính pháp qui của các cơ quan quản lí từ trung ương đến địa phương, từ bộ đến 
các trường trực thuộc. Đây những căn cứ pháp lí để các nhà quản lí xây dựng kế hoạch, 
tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện quản lí hoạt động TVHN. Nội dung cơ bản của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Trần Vĩnh Linh 
199 
quản lí công cụ quản lí tập trung vào: 1) Lập kế hoạch thu thập, thống kê, lưu giữ các 
chính sách liên quan đến GDHN và TVHN; 2) Tổ chức triển khai các chính sách liên 
quan đến GDHN và TVHN ở trường THPT; 3) Chỉ đạo thực hiện triển khai các chính 
sách liên quan đến GDHN, TVHN ở trường THPT; và 4) Kiểm tra việc triển khai chính 
sách liên quan đến GDHN và TVHN ở trường THPT. 
3. Kết luận 
Hoạt động TVHN không phải là vấn đề mới, đã được xuất hiện trên thế giới từ 
giữa thế kỉ XIX và đã được nghiên cứu ở nước ta khoảng 40 năm. Nhưng nghiên cứu 
quản lí về hoạt động TVHN cho HS trường THPT ở Việt Nam còn bỏ ngỏ hoặc chỉ 
nghiên cứu dưới góc độ nội dung của hoạt động: mục tiêu, nội dung, phương pháp, 
hình thức và điều kiện thực hiện TVHN. Đây cũng chính là cơ sở cho việc xây dựng 
mô hình quản lí TVHN dưới góc độ chức năng quản lí: Kế hoạch hóa, tổ chức (nhân 
sự, tổ chức bộ máy), lãnh đạo (chỉ đạo thực hiện) và kiểm tra cùng với sự tác động từ 
các yếu tố cơ bản: chủ thể quản lí, đối tượng quản lí và công cụ quản lí, góp phần tìm 
hiểu về thực trạng cũng như đề xuất biện pháp thúc đẩy quản lí hoạt động TVHN cho 
HS THPT hiện nay. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Đặng Danh Ánh (2010). Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin. 
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (1981). Thông tư số 31-TT ngày 17/11/1981 hướng dẫn thực hiện quyết 
định của hội đồng chính phủ về công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông và sử 
dụng hợp lí HS phổ thông tốt nghiệp. 
Lê Duy Hùng. (2018). Thực trạng nhu cầu về các hình thức tư vấn hướng nghiệp của học sinh một 
số trường THPT tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục, 427 (Kì 1 - 4/2018), 
15-18; 55. 
Lê Thị Thanh Hương (chủ biên). (2010). Tư vấn hướng nghiệp cho HS THPT: thực trạng ở Việt 
Nam và kinh nghiệm quốc tế. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. 
Nguyễn Thị Thanh Huyền. (2015). Tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường 
phổ thông. Thái Nguyên: NXB Đại học Thái Nguyên. 
Trần Kiểm. (2014). Những vấn đề cơ bản của khoa học quản lí giáo dục. Hà Nội: NXB Đại học 
Sư phạm. 
Đỗ Thị Bích Loan (2015). Tư vấn hướng nghiệp học đường thực trạng và giải pháp. Tạp chí 
Nghiên cứu và ứng dụng, 123, 2. 
Phạm Ngọc Linh. (2013). Tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông. Luận án Tiến sĩ. 
Hà Nội: Học viện Khoa học xã hội. 
Nguyễn Lộc. (2010). Lí luận về quản lí. Hà Nội: NXB Đại học Sư phạm. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 4 (2019): 189-200 
200 
Hoàng Phê (chủ biên). (2002). Từ điển Tiếng Việt. Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển 
học, Hà Nội – Đà Nẵng. 
Hồ Phụng Hoàng Phoenix, Trần Thị Thu (2015). Tài liệu chuyên đề: Kĩ năng tư vấn cá nhân về 
khám phá, lựa chọn, phát triển nghề nghiệp cho học sinh trung học. Bộ Giáo dục và Đào tạo 
phối hợp với Tổ chức hợp tác phát triển và Hỗ trợ kĩ thuật vùng Flamăng, Vương quốc Bỉ 
(VVOB). 
Phạm Văn Sơn. (2012). Xây dựng và sử dụng bản mô tả nghề trong tư vấn hướng nghiệp cho HS 
phổ thông. Tạp chí Tâm lí học, 6(159), 57-64. 
Tổng cục Thống kê. (2016). Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – 
 xã hội năm 2016, truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2017, 
THEORY OF MANAGING CAREER COUNSELING ACTIVITIES AT HIGH SCHOOL 
Nguyen Tran Vinh Linh 
Phuong Lam Church, Phu Lam commune, Tan Phu district, Dong Nai province 
Corresponding author: Nguyen Tran Vinh Linh – Email: linhmap70@gmail.com 
Received: 07/3/2019; Revised: 18/3/2019; Accepted: 24/4/2019 
ABSTRACT 
This report will present an overview of studies on managing career counseling activities in 
the world and in Vietnam, inheriting the idea of domestic and foreign scientists, building a 
theoretical foundation of functions and content of managing career counseling activities including 
planning, organization, leadership and inspection, integrated with elements of management 
subjects, objects and tools to ensure the scientific and effective management of career counseling 
activities for high school students, contributing to the implementation of the basic tasks and 
objectives of education and training in the new era. 
Keywords: management, career counselling, high school students. 
CÁC SỐ TẠP CHÍ KHOA HỌC SẮP TỚI: 
 Tập 16, Số 5 (2019): Khoa học xã hội và nhân văn 
 Tập 16, Số 6 (2019): Khoa học tự nhiên và công nghệ 
 Tập 16, Số 7 (2019): Khoa học giáo dục. 
Ban biên tập Tạp chí Khoa học rất mong nhận được sự trao đổi thông tin 
của các đơn vị bạn và được bạn đọc thường xuyên cộng tác bài vở, góp ý xây dựng. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Trần Vĩnh Linh 
201 

File đính kèm:

  • pdfli_thuyet_ve_quan_li_hoat_dong_tu_van_huong_nghiep_o_truong.pdf