Loại suy như là một hình thức tư duy và ý nghĩa của nó trong nhận thức

Tóm tắt: Loại suy là một hình thức tư duy được con người sử dụng thường xuyên trong

cuộc sống hàng ngày cũng như trong nghiên cứu khoa học. Cùng với hình thức suy luận

gần với nó là quy nạp, loại suy không cho kết luận xác thực như diễn dịch. Tuy nhiên,

loại suy là bước đi đầu tiên không thể thiếu trong quá trình tư duy và nghiên cứu khoa

học; tuy nó chỉ cho những kết luận sơ bộ mang tính xác suất, nhưng lại có tác dụng

hình thành trực giác trong tư duy. Bài viết phân tích loại suy như là một hình thức tư

duy logic, đồng thời chỉ ra ý nghĩa của nó trong nhận thức nói chung và nhận thức khoa

học nói riêng.

pdf 6 trang yennguyen 4120
Bạn đang xem tài liệu "Loại suy như là một hình thức tư duy và ý nghĩa của nó trong nhận thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Loại suy như là một hình thức tư duy và ý nghĩa của nó trong nhận thức

Loại suy như là một hình thức tư duy và ý nghĩa của nó trong nhận thức
 Loại suy như là một hình thức tư duy 
và ý nghĩa của nó trong nhận thức 
Nguyễn Gia Thơ(*) 
Tóm tắt: Loại suy là một hình thức tư duy được con người sử dụng thường xuyên trong 
cuộc sống hàng ngày cũng như trong nghiên cứu khoa học. Cùng với hình thức suy luận 
gần với nó là quy nạp, loại suy không cho kết luận xác thực như diễn dịch. Tuy nhiên, 
loại suy là bước đi đầu tiên không thể thiếu trong quá trình tư duy và nghiên cứu khoa 
học; tuy nó chỉ cho những kết luận sơ bộ mang tính xác suất, nhưng lại có tác dụng 
hình thành trực giác trong tư duy. Bài viết phân tích loại suy như là một hình thức tư 
duy logic, đồng thời chỉ ra ý nghĩa của nó trong nhận thức nói chung và nhận thức khoa 
học nói riêng. 
Từ khóa: Loại suy, So sánh, Quy nạp, Logic, Nhận thức, Hình thức tư duy 
1. Trước hết, về bản chất của loại suy. 
Thuật ngữ “loại suy” theo tiếng Hy Lạp cổ 
có nghĩa là tỷ lệ. Đầu tiên thuật ngữ này 
được các nhà toán học sử dụng để chỉ mối 
quan hệ tỷ lệ giữa các con số. Hệ thống 
hai số 6 và 9 “loại suy” (tương tự) với hệ 
thống hai số 36 và 54, vì 6:9=36:54 
(=2/3). (*) 
Sau đó “loại suy” được sử dụng với 
nghĩa rộng hơn như là sự giống nhau, sự 
tương ứng, tương tự giữa các sự vật, đối 
tượng, sự đồng nhất các mối quan hệ giữa 
chúng. Không chỉ có các đối tượng, các sự 
kiện lịch sử có thể tương tự nhau mà cả 
các khái niệm, tư tưởng, ý nghĩ. Ví dụ, về 
vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và ý thức, 
Hegel có những tư tưởng giống với các tư 
tưởng của Platon. Tính đa nghĩa của khái 
(*) PGS.TS., Viện Triết học, Viện Hàn lâm KHXH 
Việt Nam; Email: nguyentho54@yahoo.com.vn 
niệm loại suy là do có sự sử dụng rộng rãi 
nó trong thực tiễn tư duy, nhận thức. 
Như vậy, loại suy là một dạng suy 
luận về tính thuộc về đối tượng một dấu 
hiệu xác định (hoặc có thể là tính chất hay 
mối quan hệ xác định) trên cơ sở sự giống 
nhau theo những dấu hiệu cơ bản với sự 
vật khác. 
 Trong logic học và nhận thức luận, 
loại suy được xem như hình thức thu nhận 
tri thức kết luận như một suy luận, trong 
đó trên cơ sở giống nhau của các sự vật ở 
một số dấu hiệu người ta rút ra kết luận về 
sự giống nhau của những sự vật này ở 
những dấu hiệu khác. Ví dụ từ thực tiễn 
nhận thức khoa học: trong phổ vùng các 
nguyên tố hóa học ở xa trái đất, các đường 
sương mù chuyển dịch về hướng màu đỏ 
của quang phổ so với các vạch của nguyên 
tố này - có thể quan sát được trong những 
điều kiện trái đất. Đó là hiện tượng của 
4 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
“hỗn hợp màu đỏ” - là kết quả của sự xa 
nhau ra của các thiên hà trong lĩnh vực vũ 
trụ bao quanh ta. Hiện tượng “hỗn hợp 
màu đỏ” đã được phát hiện tương tự với 
các hiện tượng âm thanh - cái gọi là “hiệu 
ứng Dopler”. Tần suất dao động hay là độ 
dài của sóng âm, được nhận biết bởi nhà 
quan sát, thay đổi phụ thuộc vào sự vận 
động của nguồn âm thanh và tương ứng 
với người quan sát. Khi chúng gần nhau, 
tần suất tăng lên; khi xa nhau, tần suất 
giảm. Trong âm học, khi nguồn âm và 
người tiếp nhận gần nhau, âm sắc cao lên; 
khi xa nhau, âm sắc hạ thấp. Sự giống 
nhau giữa bản chất của ánh sáng và âm 
thanh ở hàng loạt tính chất là có cơ sở cho 
sự phân tích “hỗn hợp màu đỏ” giống với 
hiệu ứng Dopler. Như đã biết, tốc độ ánh 
sáng không phụ thuộc vào tốc độ của 
nguồn phát sáng nhưng độ dài sóng ánh 
sáng tri giác được lại phụ thuộc vào tốc độ 
nguồn phát sáng. Nếu nguồn chuyển động 
theo hướng đến người quan sát, thì người 
quan sát tiếp nhận ánh sáng tri giác được 
ánh sáng có tần suất lớn (nghĩa là tiếp cận 
đến vùng tím của quang phổ). Nếu nguồn 
vận động theo hướng xa người quan sát, 
thì tần suất ánh sáng tri giác được sẽ giảm 
và diễn ra sự hỗn hợp các vạch quang phổ 
đến vùng đỏ. 
 Công thức sơ đồ của suy luận theo 
loại suy như sau: 
A có các dấu hiệu a b c d 
B có các dấu hiệu a b c 
------------------------------------------- 
Kết luận: Khả năng là B cũng có dấu hiệu d 
 Dấu hiệu của đối tượng (hay của hệ 
thống các đối tượng, hệ thống tư tưởng, tri 
thức) có thể là tính chất của đối tượng, 
mối quan hệ của nó, đặc điểm, cấu trúc, 
chức năng của nó. 
Ý nghĩa của loại suy thể hiện ở chỗ là 
để tìm ra những dấu hiệu chưa biết của đối 
tượng trên cơ sở tri thức được lĩnh hội từ 
trước về đối tượng khác giống với nó, 
chuyển thông tin từ một đối tượng sang 
đối tượng khác trên cơ sở một số mối 
quan hệ giữa chúng. 
2. Các kiểu loại suy được phân biệt 
với nhau phụ thuộc vào đặc điểm thông 
tin chuyển dịch. Nếu các đối tượng được 
so sánh với nhau theo các tính chất của 
chúng, thì có một kiểu loại suy thuộc tính. 
Nếu cơ sở của sự so sánh là các mối quan 
hệ của các đối tượng, thì sẽ có kiểu loại 
suy khác - loại suy quan hệ. Trong loại 
suy về nguyên nhân, những hiện tượng 
giống nhau là những hiện tượng được sinh 
ra bởi các nguyên nhân như nhau. Thuộc 
tính “có nguyên nhân như nhau” được 
chuyển từ hiện tượng này sang hiện tượng 
khác. Nhưng khả năng còn có cả quá trình 
đối lập, khi cơ sở của kết luận theo loại 
suy là tính cùng loại của các nguyên nhân, 
còn kết luận thể hiện ở việc chuyển dịch 
thông tin về một trong những hoạt động 
của nguyên nhân sang hiện tượng khác 
(loại suy hệ quả). Trong loại suy về chức 
năng-cấu trúc, cấu trúc của các hệ thống 
đồng nhất với nhau trên cơ sở đồng nhất 
các chức năng của chúng. Ngược lại, 
trong những loại suy cấu trúc-chức năng, 
sự đồng nhất về cấu trúc là cơ sở cho sự 
đồng nhất các chức năng. 
 Cơ sở khách quan của loại suy là mối 
quan hệ của các đối tượng, mối liên hệ 
mang tính quy luật giữa những mặt, những 
thuộc tính riêng biệt trong các đối tượng 
được so sánh. Ví dụ, ở động vật có vú có 
sự phụ thuộc giữa chất lượng thức ăn, cấu 
tạo răng và dạ dày. Sự phụ thuộc này là cơ 
bản và cần thiết. Nó cho phép dựa trên cơ 
sở giống nhau của các điều kiện tự nhiên 
của sự tồn tại động vật mà kết luận về tính 
chung của cấu trúc các cơ quan của chúng. 
Sự lặp lại hàng tỷ lần sự phụ thuộc lẫn 
nhau này của các đối tượng trong hoạt 
Loại suy như lš§ 5 
động thực tiễn của con người được thể 
hiện trong tiền đề của phép loại suy: nếu 
các đối tượng giống nhau ở một số dấu 
hiệu nhất định, chúng có thể giống nhau ở 
các dấu hiệu khác. Loại suy phản ánh sự 
giống nhau của các đối tượng và hiện 
tượng. Khi người ta nói rằng hai sự vật 
giống nhau, có nghĩa là: chúng giống nhau 
trong một số mối quan hệ. Những đối 
tượng giống nhau có những phần giống 
nhau, có những phần khác nhau. Vây ở cá 
giống như cánh ở chim. Sự giống nhau 
của các đối tượng trong một mối quan hệ 
nhất định không thể là cơ sở cho sự đồng 
nhất hoàn toàn của các đối tượng này. 
3. Những điều kiện để nâng cao trình 
độ xác thực của kết luận trong loại suy. 
Kết luận theo loại suy luôn mang đặc 
điểm xác suất. Xác thực và xác suất thể 
hiện những trình độ khác nhau của tính 
chứng minh được của tri thức. Tri thức 
xác suất có nhiều tầng khác nhau: từ xác 
suất nhỏ, không xác thực, đến gần với xác 
thực. Vậy trình độ tính xác suất chân thực 
của các kết luận theo loại suy phụ thuộc 
vào cái gì? Có những cơ sở logic nào của 
các kết luận này? 
 Có những cơ sở khách quan tạo ra 
khả năng có các kết luận theo loại suy. Để 
biến khả năng thành hiện thực cần những 
điều kiện xác định - những điều kiện đó là 
cơ sở logic cho loại suy. Những điều kiện 
để nâng cao xác suất chân thực của các kết 
luận theo loại suy về cơ bản là tính chi tiết 
và bề rộng của sự nghiên cứu các đối 
tượng hay hiện tượng giống nhau. Công 
việc nghiên cứu các hiện tượng tất nhiên 
có trước các kết luận. 
Loại công việc nghiên cứu đơn giản 
nhất, đó là xem xét sự giống nhau giữa 
các hiện tượng tương tự nhau, vạch ra một 
số lượng lớn các dấu hiệu giống nhau. 
Nhưng tự nó, sự hiện diện của các dấu 
hiệu chung ở các đối tượng so sánh với 
nhau không phải là quyết định để nhận 
được các kết luận theo loại suy. Cần cố 
gắng sao cho các dấu hiệu chung của các 
đối tượng cần so sánh là điển hình đối với 
các đối tượng này, sao cho chúng có mối 
liên hệ chặt chẽ với các dấu hiệu đặc thù 
của chúng. Trái đất và sao hỏa đều được 
tạo nên từ các nguyên tử và phân tử. 
Nhưng những dấu hiệu chung này cũng 
vốn có của các đối tượng vật chất khác, vì 
thế chúng không được sử dụng với vai trò 
là cơ sở logic cho loại suy trong việc xem 
xét vấn đề tồn tại sự sống trên sao hỏa. 
 Sự đa dạng các tính chất chung ở các 
đối tượng được so sánh có ý nghĩa lớn. 
Nếu các tính chất chung là cùng một kiểu 
(ví dụ hình học hay vật lý), thì kết luận sẽ 
ít hợp lý hơn so với ở tính chung như hình 
học, cũng như cả vật lý, hóa học và các 
tính chất khác cùng được xem xét. 
 Trong việc phân tích các cơ sở logic, 
cần đi từ hiện tượng đến bản chất, bởi vì 
sự vận động này là quy luật chung của 
mọi loại nhận thức. Suy luận theo loại suy 
sẽ có cơ sở, căn cứ lớn hơn, nếu các đối 
tượng cần so sánh có tính chung ở những 
dấu hiệu cơ bản, hơn là trong các trường 
hợp chúng chỉ giống nhau ở những dấu 
hiệu ngẫu nhiên. Sự giống nhau giữa các 
đối tượng so sánh càng mang tính căn bản, 
thì suy luận theo loại suy càng có căn cứ 
lớn hơn. Ví dụ, sẽ có xác suất chân thực 
cao hơn khi chúng ta chờ đợi hái những 
quả tương tự từ những cây ăn quả mà 
chúng ta đã biết. Nhưng nếu chúng ta thấy 
trên công trường xây dựng có vài đống cát 
mà ở mỗi đống có ba viên gạch, theo loại 
suy chúng ta có hy vọng chăng sẽ gặp trên 
đống cát tiếp theo ba viên gạch? Ở trường 
hợp thứ nhất, mối liên hệ hữu cơ trong 
thành phần các đối tượng giống nhau là mối 
liên hệ cơ bản; còn trong trường hợp thứ 
hai, sự liên kết máy móc của hai đối tượng 
6 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
mang đặc điểm ngẫu nhiên. Sự không 
phân biệt được các mối liên hệ này sẽ dẫn 
đến tính không có căn cứ của loại suy. 
 Trong số các cơ sở logic của loại suy 
còn cần chỉ ra một quy tắc nữa: trình độ 
xác suất chân thực của kết luận phụ thuộc 
vào sự làm quen chi tiết hơn với các đối 
tượng giống nhau. Sự hiểu biết mỗi đối 
tượng càng đầy đủ, thì mặt số lượng càng 
ít vai trò. Các đối tượng có thể giống nhau 
ở nhiều dấu hiệu mà chúng ta biết, và hơn 
nữa, chúng ta sẽ không có cơ sở cho xác 
suất chân thực cao các kết luận theo loại 
suy, nếu các đối tượng ít được nghiên cứu, 
nếu không vạch ra được bản chất của 
chúng, nếu không chú ý đến các đặc thù 
của các hiện tượng cần nghiên cứu, nếu 
không chú ý đến các dấu hiệu khác nhau 
có trong các hiện tượng cần so sánh. 
Không tính đến tất cả các nhân tố này sẽ 
dẫn đến loại suy hời hợt. 
 Như vậy, việc nâng cao trình độ xác 
suất chân thực của các kết luận theo loại 
suy phụ thuộc vào những điều kiện sau: 1) 
số lượng các dấu hiệu giống nhau được 
xem xét ở các hiện tượng cần so sánh; 2) 
mức độ tính căn bản của các dấu hiệu này. 
Tóm lại, phân tích sự giống và khác nhau 
giữa các hiện tượng cần nghiên cứu càng 
tỉ mỉ, kết luận theo loại suy càng có cơ sở. 
 Để có được những kết luận theo loại 
suy có xác suất chân thực cao cần có sự 
giống nhau nhiều hơn giữa các hiện 
tượng, đối tượng so sánh. Thế nhưng ở 
đây tính đến một hoàn cảnh rất căn bản: 
sự giống nhau càng nhiều giữa các đối 
tượng so sánh, thì suy luận theo loại suy 
càng ít giá trị sáng tạo. Ví dụ, trong lý 
thuyết mô hình, có thể hoàn toàn đúng khi 
cho rằng mô hình quá xa (so với khách 
thể) có thể sẽ dẫn đến nhầm lẫn, còn khi 
mô hình “quá chính xác” cũng mất ý 
nghĩa và trở thành không có hiệu quả. 
Trong nghiên cứu so sánh các ngôn ngữ 
gần nhau, nhà nghiên cứu dựa vào các sự 
kiện không chỉ giống nhau, mà cả sự khác 
nhau. Nếu sự khác biệt giữa chúng cực 
tiểu, thì chúng không cho nhà nghiên cứu 
nhiều tư liệu để tìm tòi. 
 Các kết luận theo loại suy mang tính 
xác suất. Nhưng đặc điểm xác suất của 
các kết luận này không nên tuyệt đối hóa. 
Khác với các loại suy thông thường - được 
sử dụng trong thực tiễn hàng ngày của con 
người, một số kết luận khoa học được xây 
dựng trên sự loại suy-gần với tri thức xác 
thực. Chúng ta biết rằng, hoạt động của 
các công trình như cầu, đập đầu tiên 
được nghiên cứu dựa trên các mô hình. 
Mô hình - giống với đối tượng. Mô hình 
hóa cho phép dựa trên tỷ lệ tăng, giảm, 
người ta nghiên cứu được các mặt lượng 
và chất của quá trình diễn ra trong nguyên 
mẫu (nguyên mẫu này không nghiên cứu 
chi tiết được). Các kết quả của kinh 
nghiệm đơn lẻ được khái quát và chuyển 
sang toàn bộ nhóm các đối tượng giống 
với các đối tượng cần nghiên cứu. Phương 
pháp mô hình hóa dựa vào lý thuyết giống 
nhau cung cấp cơ sở cho việc chuyển các 
quy luật nhận được từ mô hình sang 
nguyên mẫu. Ở những trường hợp này, kết 
luận gần xác thực. 
4. Ý nghĩa nhận thức của suy luận 
theo loại suy . 
Nhận thức có tính biện chứng. Trong 
nhận thức, con người đi từ không biết đến 
biết, từ tri thức chưa đầy đủ đến ngày càng 
đầy đủ hơn, xác thực hơn. Hiểu biết về 
hiện tượng và nhận thức bản chất thể hiện 
là những nấc thang đặc thù của quá trình 
nhận thức. Công việc nghiên cứu có trước 
việc khám phá ra quy luật và bản chất. 
 Ý nghĩa nhận thức của loại suy được 
xác định ở chỗ, loại suy thể hiện là một 
trong những thủ pháp nghiên cứu tích cực 
Loại suy như lš§ 7 
có ưu thế ở giai đoạn ban đầu của quá 
trình nhận thức. Đơn giản trong cấu trúc, 
phổ thông trong sử dụng, loại suy thể hiện 
là hình thức ban đầu của nhận thức, nó 
cấu thành một trong những mắt xích đầu 
tiên trong sợi xích các kết quả khoa học. 
 Nghiên cứu các hiện tượng của hiện 
thực được bắt đầu từ sự quan sát và so 
sánh chúng. Tất cả được nhận thức trong 
so sánh. Để nói được rằng vật này hay vật 
khác tốt hay xấu, cần so sánh chúng với 
vật khác nào đó. So sánh tạo nên bước đầu 
tiên trong quá trình đi đến kết luận theo 
loại suy. So sánh cho phép tìm ra đặc 
điểm chung và khác biệt trong các đối 
tượng. Khoa học đã biết không ít các phát 
minh, sáng chế mà sự nghiên cứu để tạo ra 
chúng được bắt đầu từ sự loại suy. Những 
kết luận sơ bộ, ban đầu, thường ít có cơ 
sở, có tính phỏng đoán - là điểm xuất phát 
cho những nghiên cứu mới, kích thích nhà 
khoa học tìm kiếm bổ sung. Ví dụ, sự loại 
suy giữa các hiện tượng ánh sáng và âm 
thanh đã chỉ ra rằng chúng có hàng loạt 
tính chất giống nhau: tính lan truyền theo 
đường thẳng, tính phản ánh, tính khúc xạ; 
giao thoa. Ngoài ra, người ta biết được 
rằng âm thanh được sinh ra do các vận 
động theo chu kỳ. Trên cơ sở sự giống 
nhau của các tính chất đó, các nhà bác học 
giả định rằng ánh sáng cũng được sinh ra 
do những sự vận động tương tự. Điều này 
sau đó dẫn đến phát minh ra sóng ánh 
sáng. Hay là, sự giống nhau giữa các hiện 
tượng trong máy phát điện và tia chớp đã 
dẫn Franklin sáng chế ra cột thu lôi. 
 Hàng ngàn vật liệu được tạo ra bởi 
các nhà hóa học dựa trên tư duy theo loại 
suy với các hợp chất tự nhiên của chúng. 
Tập hợp các phân tử được tổng hợp theo 
các cơ chế loại suy. 
 Các nhà tư tưởng xuất chúng đều sử 
dụng loại suy trong nghiên cứu khoa học. 
Vai trò của loại suy trong sáng tạo của 
Darwin là một ví dụ. Các kết luận về mặt 
lý thuyết trong các nghiên cứu của ông đã 
được thực hiện theo sự loại suy với chọn 
lọc nhân tạo. Sự khởi đầu trong công việc 
khoa học của ông là khái quát thực tiễn 
đang biến đổi của việc hoàn thiện, chọn 
lọc vật nuôi, cây trồng của con người 
Vì khái niệm loại suy có nghĩa tương đối 
rộng, nên việc sử dụng nó trong thực tiễn 
tư duy và nhận thức cũng đa dạng 
Tư duy theo loại suy không chỉ có ý 
nghĩa lớn trong nghiên cứu khoa học về 
mặt lý thuyết, mà cả trong thực tiễn. Ví 
dụ, việc tìm ra kim cương ở Siberia: Đầu 
tiên người ta nhận ra cấu trúc địa chất của 
cao nguyên Nam Phi có nhiều tính chất 
chung với cấu trúc địa chất của đất vùng 
Đông Siberia. Trong các mạch kim cương 
ở Nam Phi, người ta tìm thấy khoáng chất 
có màu xanh lam. Một cách ngẫu nhiên 
người ta cũng tìm thấy khoáng chất có 
màu xanh lam như vậy ở cửa một con 
sông ở Yakutsk. Và đi đến kết luận có tính 
giả thuyết là ở Yakutsk (Siberia) khả năng 
cũng có kim cương. Kết luận có tính giả 
thuyết này sau được xác nhận là đúng. 
 Trong hiện thực khách quan cái 
chung tồn tại trong cái riêng. Tư duy là cái 
phản ánh hiện thực (nên nó tương tự hiện 
thực) và do đó ở đây cái chung và cái trừu 
tượng biểu hiện thông qua cái riêng và cái 
cụ thể. Ví dụ, trong quá trình định nghĩa 
khái niệm - khái niệm dùng để định nghĩa 
được thể hiện thông qua một hệ thống tri 
thức cụ thể - tri thức đó vạch ra nghĩa của 
khái niệm cần định nghĩa. Ở đây cần các 
khái niệm và hình ảnh tương tự - mà 
chúng không làm thay đổi ngoại diên khái 
niệm - làm cụ thể hóa nội hàm của chúng. 
Tư duy, giống như một ngân hàng lớn - có 
lượng vốn nhất định trong quỹ của mình - 
đó là các khái niệm, biểu tượng cụ thể. Ở 
những nơi không có vốn đó, những khái 
niệm chung chỉ là những sự trừu tượng ít 
8 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 10.2016 
thích dụng, và tư duy - giống như một nhà 
băng bị phá sản - trở thành không có căn cứ. 
 Chỉ ra ý nghĩa nhận thức của loại suy, 
cùng với các khái niệm khác, người ta đã 
chỉ ra những phạm trù triết học quan trọng 
như trừu tượng và cụ thể. Loại suy là 
phương tiện cụ thể hóa ý nghĩ, tư tưởng. 
Liên quan đến điều này cần chính xác hóa 
vấn đề về vai trò của các trừu tượng khoa 
học. So với các hình ảnh trực quan cảm 
tính, chúng phản ánh hiện thực sâu hơn - 
giúp cho nghiên cứu khoa học tránh được 
phiến diện. Nhưng tự các trừu tượng khoa 
học không phải là mục đích của nhận 
thức. Chúng là phương tiện đạt mục đích. 
Mục đích của nhận thức là phân tích một 
cách cụ thể các hiện tượng của hiện thực, 
nhận thức chúng trong hoàn cảnh lịch sử 
cụ thể tương ứng với các điều kiện không 
gian - thời gian nhất định. Trong mối liên 
hệ này, tư duy trừu tượng - có nghĩa là đặt 
ra và giải quyết các vấn đề một cách 
chung chung, ví dụ, bàn về bình đẳng “nói 
chung” mà không xem xét kinh nghiệm cụ 
thể của lịch sử sẽ ít có hiệu quả. Hegel đã 
đúng khi cho rằng, tính cụ thể của tư duy 
là một trong những điều kiện cần thiết cho 
tính đúng đắn của nó. Tư duy đúng không 
chỉ là tư duy xác định, nhất quán, được 
chứng minh, mà còn là tư duy cụ thể. 
 Là một phương pháp tư duy đôi khi 
dẫn con người đến phát minh, loại suy 
không thích dụng với chứng minh và bác 
bỏ. Những người không làm quen với 
logic học thường nhầm lẫn và coi các suy 
luận xác suất theo loại suy là chứng minh. 
 Các suy luận loại suy về lịch sử mà 
trong đó dẫn ra sự giống nhau của hai 
hay nhiều hiện tượng lịch sử không xác 
định các đặc điểm khác nhau, là không có 
căn cứ. 
 Loại suy dẫn con người đến tri thức, 
giúp phát minh ra chân lý, nhưng không 
thể thực hiện vai trò là phương pháp 
nghiên cứu khoa học duy nhất và căn bản. 
Loại suy là một thủ pháp bổ trợ trong 
nhận thức Và, cũng cần nhớ rằng loại 
suy không phải luôn luôn có vai trò tích 
cực. Loại suy thực chất là so sánh, mà mọi 
so sánh đều khập khiễng, nên loại suy 
không phải bao giờ cũng hữu dụng. Loại 
suy có thể đẩy nhà nghiên cứu đi theo con 
đường sai lầm. 
Loại suy được xem như một phương 
pháp bổ trợ, như là một trong các phương 
pháp thuộc kho tàng các phương pháp 
nhận thức - là hoàn toàn có cơ sở, và đồng 
thời là thủ pháp thu nhận tri thức mới, là 
thủ pháp đưa nhà nghiên cứu đến những 
phỏng đoán trước phát minh, thủ pháp giải 
thích và cụ thể hóa tri thức  
Tài liệu tham khảo 
1. Vương Tất Đạt (1997), Logic học đại 
cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Hà Nội. 
2. Nguyễn Đức Dân (2003), Giáo trình 
Nhập môn logic hình thức, Đại học 
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp. 
Hồ Chí Minh. 
3. D.F. Gorki (1963), Logic học, Moskva 
(tiếng Nga). 
4. E.K. Voishvilo, M.G. Degtiarev 
(1998), Logic học - Sách giáo khoa 
dành cho các trường đại học, Moskva 
(tiếng Nga). 
5. N.I. Kandacov (1976), Từ điển logic 
học - Sách tra cứu, Moskva (tiếng 
Nga). 
6. Bùi Thanh Quất (chủ biên), Nguyễn 
Tuấn Chi (1994), Giáo trình logic 
hình thức, Khoa luật, Trường Đại học 
Tổng hợp Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfloai_suy_nhu_la_mot_hinh_thuc_tu_duy_va_y_nghia_cua_no_trong.pdf