Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam (Qua Luật tục của một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên)

Tóm tắt: Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã được các tộc người quan tâm chú

ý từ rất lâu. Để bảo vệ, khai thác và quản lý vấn đề này, họ đã tạo ra những thế ứng xử hài hoà

giữa con người và thế giới tự nhiên. Đó là những nguyên tắc, cách ứng xử được được áp dụng

trong cuộc sống của các dân tộc thiểu số để nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo tồn sự hài

hoài giữa con người và thế giới tự nhiên. Các tộc người đều có những biện pháp bảo vệ môi trường

riêng của mình, mà một trong những biện pháp được coi là có hiệu quả nhất chính là các điều

khoản của Luật tục dân gian đã tồn tại hàng ngàn đời nay trong xã hội của họ.

pdf 9 trang yennguyen 4160
Bạn đang xem tài liệu "Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam (Qua Luật tục của một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam (Qua Luật tục của một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên)

Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam (Qua Luật tục của một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên)
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 
 71 
Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt Nam 
(Qua Luật tục của một số dân tộc thiểu số ở 
Tây Bắc và Tây Nguyên) 
Hoàng Văn Quynh* 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 08 tháng 7 năm 2015 
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 8 năm 2015; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 8 năm 2015 
Tóm tắt: Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã được các tộc người quan tâm chú 
ý từ rất lâu. Để bảo vệ, khai thác và quản lý vấn đề này, họ đã tạo ra những thế ứng xử hài hoà 
giữa con người và thế giới tự nhiên. Đó là những nguyên tắc, cách ứng xử được được áp dụng 
trong cuộc sống của các dân tộc thiểu số để nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và bảo tồn sự hài 
hoài giữa con người và thế giới tự nhiên. Các tộc người đều có những biện pháp bảo vệ môi trường 
riêng của mình, mà một trong những biện pháp được coi là có hiệu quả nhất chính là các điều 
khoản của Luật tục dân gian đã tồn tại hàng ngàn đời nay trong xã hội của họ. 
Từ khóa: Luật tục, Tài nguyên thiên nhiên và môi trường, dân tộc thiểu số, Tây Bắc, Tây Nguyên 
1. Khái niệm luật tục 
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu 
luật học: Luật tục là những phương ngôn, ngạn 
ngữ diễn đạt bằng lời nói có vần điệu, chứa 
đựng các quy tắc xử sự, thể hiện, phản ánh quy 
chuẩn phong tục, tập quán, ý chí, nguyện vọng 
của cộng đồng bảo đảm thực hiện trong cộng 
đồng dân tộc thiểu số, được cộng đồng bảo đảm 
thực hiện [1]. 
Đối với các nhà nghiên cứu văn hoá dân 
gian, các quan niệm của họ lại đi sâu phân tích 
làm rõ nội hàm của luật tục. Thuật ngữ Luật tục 
_______ 
ĐT.: 84-934667111 
 Email: quynhhv@vnu.edu.vn 
hay tập quán pháp ở Việt Nam có thể gọi với 
nhiều tên gọi khác nhau, như là "Luật địa 
phương", "Luật dân gian". Đây là một hiện 
tượng xã hội phổ quát của nhân loại ở thời kỳ 
phát triển tiền công nghiệp và còn tồn tại đến 
ngày nay với những mức độ khác nhau ở nhiều 
tộc người trên thế giới, nhất là các tộc người 
châu Á và châu Phi. Luật tục về cơ bản là một 
hình thức của tri thức bản địa, tri thức địa phương 
về cách ứng xử và quản lý cộng đồng còn tồn tại 
ở hầu khắp các dân tộc ở nước ta, không kể đó là 
dân tộc gì, ít người hay đa số [2]. 
Ngoài ra, còn nhiều ý kiến khác về khái 
niệm Luật tục, nhưng trên cơ sở các quan điểm 
khác nhau đó, sau một thời gian dài tìm hiểu, 
nghiên cứu, thảo luận, thông qua tại nhiều cuộc 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 
72 
hội thảo quốc tế cũng như trong nước và các 
cuộc thảo luận chuyên đề, các nhà khoa học 
nước ta tạm thời chấp nhận khái niệm Luật tục 
của Ngô Đức Thịnh như sau: "Luật tục là một 
hình thức của tri thức bản địa, được hình thành 
trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử 
với môi trường và xã hội, được thể hiện dưới 
nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời này 
qua đời khác bằng trí nhớ qua thực hành sản 
xuất và thực hành xã hội, nó hướng đến việc 
hướng dẫn các quan hệ xã hội, quan hệ con 
người với thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy 
của Luật tục được cả cộng đồng thừa nhận và 
thực hiện, nhờ đó đã tạo ra sự thống nhất và 
cân bằng trong mỗi cộng đồng. Luật tục như 
hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ 
và là hình thức sơ khai của luật pháp" [3]. 
Từ các quan niệm trên, chúng ta có thể nhận 
thấy, đối tượng điều chỉnh của Luật tục là 
những quan hệ xã hội tồn tại khách quan của 
đời sống cộng đồng, Luật tục có phạm vi điều 
chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực của 
đời sống xã hội. Như lĩnh vực tổ chức và quản 
lý cộng đồng xã hội, lĩnh vực ổn định trật tự an 
ninh và bảo đảm lợi ích cộng đồng; việc tuân 
thủ phong tục, tập quán; các quan hệ dân sự, 
hôn nhân gia đình; lĩnh vực giáo dục nếp sống 
văn hoá tín ngưỡng; lĩnh vực quản lý sử dụng 
đất đai, bảo vệ sản xuất, tài nguyên thiên nhiên 
và môi trường. 
Như vậy, Luật tục là một hệ thống các quy 
tắc xử sự mang tính dân gian, quy định về mối 
quan hệ ứng xử của con người đối với môi 
trường tự nhiên và con người với con người 
trong cộng đồng, thể hiện ý chí của toàn thể 
cộng đồng, được thực hiện một cách tự giác, 
theo thói quen, nhưng vẫn có tính cưỡng chế và 
bắt buộc đối với những ai không tuân theo. Và 
Luật tục là những quy định của quần chúng 
trong cộng đồng đặt ra để điều hoà mối quan hệ 
của tập thể cộng đồng một cách tự nguyện và 
dân chủ, không phải là luật lệ do một tầng lớp 
người đặt ra và thực thi để bảo vệ quyền lợi của 
giai cấp thống trị. 
2. Các quy định về bảo vệ tài nguyên thiên 
nhiên và môi trường trong luật tục của một 
số tộc người ở Tây Bắc và Tây Nguyên. 
Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của 
ngành dân tộc học, cho đến nay có 54 dân tộc, 
trong đó có 53 dân tộc là các dân tộc thiểu số. 
Các dân tộc này chủ yếu sống ở miền núi, như 
miền núi Tây Bắc, Đông Bắc, Dãy Trường Sơn 
và Tây Nguyên. Đây là những nơi tập trung 
nhiều tài nguyên thiên nhiên quý của đất nước 
với hàng chục ngàn loài thực vật và đất rừng 
phù hợp với trồng cây công nghiệp; các nguồn 
khoáng sản như than đá, quặng kim loại.... 
Trong đó, miền núi và cao nguyên chiếm 3/4 
diện tích cả nước, là nơi cư trú chủ yếu của 
đồng bào các dân tộc thiểu số. Ở đây có rất 
nhiều tiềm năng về kinh tế, có hơn 10 triệu ha 
rừng và đất rừng với nhiều loại gỗ quý, trữ 
lượng cao và nhiều loại động thực vật có giá trị 
kinh tế và khoa học lớn [4]. 
Với tiềm năng tự nhiên dồi dào, phong phú 
như vậy, trong một thời gian dài các dân tộc 
thiểu số miền núi nước ta chủ yếu dựa và tự 
nhiên mà sống, mọi sinh hoạt cuộc sống đều 
dựa vào thiên nhiên và cho đến tận bây giờ 
nhiều nơi vẫn như vậy, môi trường thiên nhiên 
có vai trò rất quan trọng đối với đời sống sinh 
hoạt của họ, gần như trong tất cả các lĩnh vực 
ăn, mặc, ở, sinh hoạt đều dựa vào thiên nhiên, 
gắn bó mật thiết với thiên nhiên và thấy được 
sự tác động trở lại của thiên nhiên đến đời sống 
sinh hoạt của họ. Từ đó, việc hình thành những 
kinh nghiệm và cách thức bảo vệ, khai thác môi 
trường tài nguyên thiên nhiên từ rất lâu đời ở 
các dân tộc thiểu số miền núi nước ta là điều 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 73 
hiển nhiên. Bởi vì họ quan niện rằng, cuộc sống 
của họ tồn tại được chính là nhờ môi trường thiên 
nhiên, nếu môi trường thiên nhiên bị huỷ hoại thì 
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. 
2.1.Bảo vệ tài nguyên rừng 
Các dân tộc thiểu số ở nước ta sống chủ yếu 
ở các vùng rừng núi (3/4 diện tích là rừng núi) 
rừng rất cần thiết đối với họ, rừng gần như 
quyết định cuộc sống của họ (với cuộc sống săn 
bắt hái lượm trước đây). Nói chung rừng không 
thể thiếu được trong đời sống của họ. Do đó, họ 
đã có những quy định rất chặt chẽ, cụ thể về 
cách thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng, 
được thể hiện trong các bộ Luật tục của từng 
tộc người. 
Trong việc quản lý và bảo vệ rừng, nạn 
cháy rừng là một trong những vấn đề nan giải, 
phức tạp nhất. Nếu để việc này xảy ra thì thiệt 
hại không lường trước được. Vì vậy các dân tộc 
thiểu số ở nước ta đã rất chú ý tới vấn đề này. 
Trong Luật tục Êđê đã có những điều luật 
về các vụ cháy rừng (Điều 80 -Về các vụ cháy 
rừng), quy định về việc đốt lửa bừa bãi, vô ý 
thức khi vào rừng, khuyên răn mọi người phải 
hết sức chú ý khi dùng lửa, nếu ai gây ra sẽ bị 
trừng phạt rất nặng. 
“Đàn ông thường đốt lửa bừa bãi, đàn bà 
thường đốt lửa bậy bạ, có những người đốt lửa 
mà làm như kẻ điếc, kẻ đui. có những người đốt 
lửa mà làm như kẻ điên, người dại,”  
“E rằng đi rẫy lo việc nương rẫy mà không 
biết đi, cầm theo những đầu dây còn cháy dở có 
thể huỷ diệt cả rừng. Lửa sẽ bén vào rừng thiêu 
trụi cỏ cây, mọi vật. 
Còn e rằng lửa sẽ cháy lan, thiêu trụi cả 
xóm làng người ta, thiêu trụi cả chòi, cả kho lúa 
người ta đã dựng lên trong rừng, trong rẫy, mà 
xung quanh chưa kịp dọn quang” [3]. 
Trong Luật tục M’nông cũng vậy, vấn đề 
cháy rừng được cộng đồng rất quan tâm. Để 
bảo vệ tốt, trước hết thường có những quy định 
mang tính chất phòng ngừa, dạy bảo ý thức của 
mọi người về những tác hại của vụ việc đó gây 
ra cho công đồng, cho chính cuộc sống hàng 
ngày của họ. Điều 18 Luật tục M’nông quy 
định: "Rừng bị cháy mà không dập tắt, Người 
đó sẽ không có rừng, Người đó sẽ không có 
đất" [5]. 
Ngoài ra, trên thực tế ở một số vùng dân tộc 
Thái, vấn đề ngăn chặn nạn cháy rừng cũng 
được quy định thành lệ rất cụ thể. Trước khi đốt 
rẫy họ thường phát xung quanh rẫy hai, ba sải 
tay để có một khoảng cách an toàn nhất định 
tránh lửa có thể bén tới chân rừng. Hoặc đốt 
nương cũng phải chọn những ngày không có 
gió, còn những ngày có gió to, gió lào tuyệt đối 
không ai được đốt nương. 
Trong Luật tục Thái (Hịt khòng Mường 
Bản) cũng có đoạn quy định: 
 “Không nạn nào hơn nạn lửa, nạn nước 
Dùng nước phải biết tránh luồng nước 
Dùng lửa hãy giữ gìn nạn cháy”[6] 
Như vậy, trên thực tế các quy định của Luật 
tục của một số dân tộc thiểu số, chúng ta thấy ở 
đây việc quy định về cách bảo vệ, phòng chống 
nạn cháy rừng rất cụ thể, sát thực tiễn, thể hiện 
sự am hiểu về các vấn đề này của các cộng 
đồng dân tộc thiểu số là rất cơ bản, có khoa 
học. Do đó, khi đã được quy định thì mọi người 
rất hưởng ứng tuân theo và nó ăn sâu vào trong 
tâm thức của từng con người họ. Nhiều lúc 
khiến họ rất vui khi phải thực hiện những quy 
định của cộng đồng đề ra. Đây là một vấn đề có 
lẽ pháp luật bảo vệ tài nguyên môi trường của 
nước ta, cũng như các luật pháp khác của Nhà 
nước chưa làm được. 
Ngoài nạn cháy rừng, Luật tục quy định rất 
cụ thể về quản lý, khai thác, bảo vệ các cánh 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 
74 
rừng, việc vi phạm những điều luật về bảo vệ 
rừng bị xử phạt nghiêm khắc. Thông thường 
đồng bào quan niệm rừng, môi trường thiên 
nhiên là tài sản chung của tất cả mọi người, 
không phải của riêng ai và là nguồn sống không 
thể thiếu được của họ. Do vậy, mọi người phải 
có trách nhiệm bảo vệ lấy rừng, bảo vệ môi 
trường thiên nhiên. 
Trong Luật tục M’nông quy định: “Khu 
rừng sâu đâu phải của nai, Khu rừng đó là của 
tổ tiên, Khu rừng đó là của con cháu, Khu rừng 
đó là của ông bà, Khu rừng đó là của chúng ta” 
Do đó, nếu ai phá rừng sẽ bị lên án bằng 
cách:“Làm nhà đừng dùng cây nữa; Làm chòi 
đừng đừng dùng cây nữa; Làm rẫy không phát 
rừng nữa; Khi thiếu đói đừng đào củ nữa;”[5] 
Còn Luật tục Thái quy định về sự cân bằng 
sinh thái giữa con người với rừng núi; nó thể 
hiện trong tập quán phân loại rừng thành từng 
khu vực nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau 
của cuộc sống như: 
- Rừng núi phòng hộ nằm trên khu vực đầu 
nguồn nước, tuyệt đối cấm khai thác. 
- Rừng núi dành cho việc khai thác tre, gỗ 
để dựng nhà và phục vụ các nhu cầu cuộc sống 
thì tuyệt đối không được chặt đốt làm nương 
- Núi rừng phục vụ cuộc sống tâm linh, 
được gọi bằng tên chung là “rừng thiêng”
1
. 
Tóm lại, việc quản lý bảo vệ và sử dụng tài 
nguyên rừng được quy định rất chặt chẽ và cụ 
thể trong các điều khoản của các bộ Luật tục. 
_______ 
1 Rừng thiêng: + Một loại, nơi rừng cấm để làm lễ cũng 
“thần linh bản” (xên phi bản) hoặc “thần linh mường” (xên 
phi mường). 
+ Loại hai, chỉ có ở đất Chiềng (xiềng) tức trung 
tâm của mường môứi có ngọn núi được chọn để cúng khí 
thiêng của đất, mang ý niệm là “siêu linh cạn” (phi bốc) 
đối lập với “siêu linh nước” (phi nặm) mang tên là “Núi 
hồn mường” (pom minh mương). Bề mặt của núi thường 
phủ lớp rừng thiêng. 
+ Loại ba, gồm những khu rừng già dành để 
chôn cất người chết. 
Ngoài ra, việc bảo vệ, khai thác và sử dụng tài 
nguyên rừng này còn được thể hiện rộng rãi 
trong các phong tục tập quán sinh hoạt hàng 
ngày của từng dân tộc khác nhau mà không 
được ghi chép thành văn bản. Nó được truyền 
miệng từ đời này đến đời khác và ăn sâu trong 
tâm thức của từng con người. Với cách thức 
bảo vệ rừng như vậy của các dân tộc thiểu số ở 
nước ta trước đây, trong một thời gian dài các 
dân tộc thiểu số đã bảo vệ được những cánh 
rừng luôn xanh tươi. Vì vậy, trong quá trình 
phát triển kinh tế thị trường hiện nay, nếu biết 
vận dụng tốt các phong tục tập quán, luật lệ 
quản lý và bảo vệ rừng trên cơ sở của Luật bảo 
vệ và phát triển rừng của Nhà nước để xây dựng 
nên một quy chế bảo vệ và phát triển rừng ở 
từng cơ sở thì việc quản lý, bảo vệ và khái thác 
tài nguyên rừng sẽ có hiệu quả hơn. 
2.2. Bảo vệ tài nguyên nước 
Tài nguyên nước cũng là một thành phần 
quan trọng của môi trường, có vai trò rất quan 
trọng trong đời sống của con người. Ở nước ta, 
luật tài nguyên nước mới được ban hành và 
đang dần dần đi vào cuộc sống của người dân. 
Ngoài pháp luật về tài nguyên nước của Nhà 
nước, ở các dân tộc thiểu số nước ta từ lâu đã 
có những phong tục tập quán, luật lệ bảo vệ và 
giữ gìn nguồn nước rất cụ thể, họ đều cho rằng 
có nước sẽ có tất cả. Người Thái có khẩu ngữ 
quen thuộc là: “có nước mới có ruộng, có ruộng 
mới có lúa”, có nơi còn quy định “ăn cắp nước 
lã phải phạt 80 lạng bạc, kèm theo rượu, trâu, 
phải cúng cho chủ hồn nước 3 đồng bạc và trả 
lại số nước đã lấy”. 
Để bảo vệ tốt nguồn nước, dân tộc Thái có 
những quy định rất chặt chẽ về các vùng nước, 
các khúc sông suối, họ thường quy những vùng 
nước, khúc sông suối cần bảo vệ thành những 
vùng linh thiêng như “vũng cấm” (văng hảm) 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 75 
hay “Vũng mường” (văng mương). Đây là 
những chỗ sông, suối sâu thẳm, xanh biếc và 
được mở rộng ra hai bên bờ nơi có phủ khu 
rừng già, nước chảy lững lờ nên có cảnh quan 
bề ngoài như một cái ao trời phú. Theo tôn giáo 
tín ngưỡng Thái thì đây là những chỗ để các 
siêu linh dưới nước trú ngụ và là những nơi để 
tế chủ nước cũng như tổ chức hội đánh cá. 
Để giữ gìn, bảo vệ nguồn nước thường 
xuyên cho các con sông, suối và các mạch nước 
ngầm, người Thái đã sớm biết tạo ra và bảo vệ 
các khu rừng đầu nguồn. Trên mỗi một nguồn 
nước là những khu rừng có nhiều cây cối um 
tùm. Tín ngưỡng dân gian coi mỗi khu rừng đó 
là nhà của các loại ma liên quan đến sức mạnh 
tạo ra nguồn nước. Cây cối càng rậm rạp chúng 
càng thích trú ngụ. Bởi vậy, nếu phá rừng đầu 
nguồn cũng có nghĩa là phá nhà và những người 
đụng chạm đến chúng sẽ bị ma bắt mất hồn mà 
sinh ra ốm hay chết. Theo tác giả Cầm Trọng và 
Phan Hữu Dật, nguồn nước nào cũng có “thần 
chủ” gọi bằng thuật ngữ tôn giáo tín ngưỡng Thái 
là “ma đầu nguồn” (phi hua bó) hay “ma huỷ” 
(phi khuông) chuyên gây cho người bệnh đau 
khớp xương không thể chữa chạy được và đến khi 
khuất núi thì linh hồn không thể biến thành ma về 
cõi trời mà phải “trực gác” nơi đầu nguồn chuyên 
hại người [7]. 
Luật tục Gia Lai có những quy định rất cụ thể 
về bảo vệ nguồn nước, nước sạch, như: Cấm làm 
nhà nơi nguồn nước, nơi có mạch ngầm, mạch 
phun, ỉa đái làm ngập “hầm cua hay hang cá 
lóc”. “Hầm cua hay hang cá” được hiểu là 
mạch ... ầm trong sạch đó thì: sẽ khiến cho 
con người bị phù thũng, to bụng, tả lỵ bủng beo 
Điều này quy định: nước uống dùng một 
con sông, một dòng suối, một hồ nước sạch 
phải dùng một phía, nhà ở về một phía, đi chôn 
người chết không được sang sông, sang suối, 
vượt nhà, vượt làng, qua rẫy, qua nương. 
Ai phạm vào một trong các điều trên đều bị 
xử phạt tuỳ theo mức độ vi phạm mà có mức 
phạt nặng nhẹ khác nhau, vì luật nên: điều tối 
kỵ - nếu vi phạm sẽ ngui khốn, gây nhiều tai 
hoạ như cọp bắt, voi chà, vvbị trọng thương, 
bị chết bất đắc; phạm tội nghiêm trọng, xúc 
phạm đến Nha Giàng ông bà. 
Nói chung, cách thức bảo vệ, gìn giữ nguồn 
nước của các dân tộc thiểu số chủ yếu là bảo vệ 
rừng đầu nguồn, nơi tạo ra nguồn nước, cấp 
nước sinh hoạt cũng như trồng trọt. Hầu như 
các dân tộc đều có những quy định về bảo vệ 
rừng đầu nguồn, bảo vệ mạch nước ngầm, bảo 
vệ các khúc sông, suối chạy qua làng, bản của 
họ. Điều đặc biệt ở đây là các dân tộc đều rất 
chú ý, cấm kỵ việc làm dơ bẩn nguồn nước. 
Hiện nay, vấn đề bảo vệ, gìn giữ nguồn 
nước đã được Nhà nước luật pháp hoá bằng 
việc ban hành Luật tài nguyên nước. Các vấn đề 
như sở hữu, quản lý nước, bảo vệ, khai thác, sử 
dụng tài nguyên nước, phòng chống khắc phục 
hậu quả lũ lụt và các tác hại khác do nước gây 
ra được pháp luật quy định rất cụ thể, tạo ra 
một hành lang pháp lý trong việc quản lý, khai 
thác và sử dụng tài nguyên nước. Tuy nhiên 
việc ban hành là như vậy, nhưng việc thực thi 
có hiệu quả lại là một vấn đề khác, vấn đề triển 
khai còn rất chậm, nội dung chung chung, 
không cụ thể, mọi việc đều được quy về Nhà 
nước và hầu như các vùng dân tộc miền núi 
không biết đến luật này mà các dân tộc thiểu số 
nước ta chủ yếu thực hiện bảo vệ nguồn nước 
theo phong tục tập quán, các luật lệ của dân tộc 
và bảo vệ về tài nguyên nước có hiệu quả rất 
cao. Vì vậy, cùng với sự ra đời của Luật tài 
nguyên nước, nếu biết kết hợp tốt với các phong 
tục tập quán, Luật tục của các địa phương, các 
dân tộc thiểu số thì hiệu quả bảo vệ, giữ gìn tài 
nguyên nước của cả nước sẽ cao hơn. 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 
76 
 2.3. Tài nguyên đất đai 
Đất đai là một tài nguyên quốc gia vô cùng 
quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành 
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, 
là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng 
các cơ sở kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh và 
quốc phòng. Nhà nước ta đã ban hành khá 
nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ rừng, đất 
rừng, đất đai nói chung nhưng hiệu quả đạt 
được lại không được như ý muốn. Trong khi đó, 
ở các dân tộc thiểu số miền núi nước ta có rất 
nhiều kinh nghiệm, phong tục tập quán trong 
việc bảo vệ tài nguyên đất. Nhiều dân tộc đã 
hình thành những bộ Luật tục và có những quy 
định về bảo vệ đất đai rất cụ thể mà chủ yếu là 
đất rừng. 
Trong Luật tục Êđê đã có hẳn một chương 
quy định về đất đai và người chủ đất, như về 
chăm nom đất đai, không để mất người chủ đất, 
quyền hạn, quyền lợi và nhiệm vụ của người 
chủ đất, về việc lấn chiếm đất đai, xâm phạm 
đất đai. Họ coi: 
 “Đất đai, sông suối, cây rừng (là) cái nong, 
cái nia, cái lưng của ông bà
2
. (Điều 232 – Luật 
tục Êđê) 
Và những người được gọi là chủ đất có 
trách nhiệm rất lớn đối với đất đai thuộc quyền 
quản lý cuả họ, họ phải có nhiệm vụ đi thăm đất 
(Điều 233 – Luật tục Êđê), đi thăm là để đất đai 
mãi mãi tốt tươi, để nước không ngừng chảy, để 
chuối mía mọc xum xuê. (Đất) nào phải đâu 
như con ngựa không chủ, như con bò không 
người chăn. 
Về việc lấn chiếm đất đai cũng được quy 
định tai Điều 234 - 235. “Đất đai, sông suối, 
_______ 
2 Người Êđê coi đất là mẹ, đất trên cao nguyên lại có cấu 
trúc lượn sóng nên họ quan niệm mặt đất là cái lưng của tổ 
tiên. Thành ngữ này thường thấy lặp đi lặp lại trong văn 
ngôn của tập quán pháp ca. Đất đai, rừng núi cũng được ví 
như cái nong, cái nia 
rừng cây, sao lại lấn chiếm, chia cắt, cướp lấy 
của chúng tôi (người chủ đất) được. 
Đất đai, sông suối, rừng cây là của chúng 
tôi (người chủ đất), chúng tôi không chịu đâu. 
Khi rừng bị người ta chiếm, đất bị người ta 
lấn, để người ta không lấy mất, ông bà (người 
chủ đất) hãy kể lên ranh giới đất đai, rừng núi 
của mình” 
Còn Luật tục M’nông quy định về bảo vệ, 
quản lý đất đai, như quy định về tội bán đất 
rừng: “Bán đất bon làng khiếu nại; Bán rẫy 
lúa mất đất làm khổ con cháu” hoặc “Bán 
đất, rừng có tội với con cháu” [5] 
Còn ở Luật tục Thái cũng có quy định về 
quản lý, sử dụng và khai thác đất đai. Như có 
điều luật về tranh chấp đất ruộng: “Nếu hai bên 
tranh chấp nhau thửa ruộng, luật sẽ giải quyết 
theo văn tự của thửa ruộng. Nếu không có văn 
tự, bên nào quen “ăn” thửa ruộng đó, đã được 
một đời không bỏ, thì cho bên đó được tiếp tục 
“ăn” thửa ruộng như cũ”. [6]. 
Về việc quản lý đất đai, trong Luật tục cũng 
có những điều luật như: 
 “Những tội phạm”vùng đất có đường 
biên”, bị bản mường xử tội gồm các hạng người 
như sau: 
- Chiếm đất bản mường thành đất riêng của 
mình 
- Tự cắt đất bản mường của mình nhập vào 
mường khác 
- Người ở nơi khác đến cướp phá bản, 
mường của mình” 
Bản nào cũng có phạm vi đất bản bao gồm 
khúc sông, suối nơi có vũng cấm; rừng núi rộng 
lớn, cây mọc san sát và đồng ruộng. Người nào 
tự ý xâm phạm vào vùng đất của bản thì lệ theo 
luật mường cho tội ấy ngang như câu tục ngữ 
đã quy định “Hiếp bà goá, xâm phạm bờ 
ruộng 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 77 
Ai tự ý xâm phạm đất mường phìa, nếu bắt 
được quả tang thì đều bị bản mường xử lý. 
Người mà dám xâm phạm đất châu mường 
thì bị bản mường quy tội rất nặng, bởi vì làm 
trái: Minh mường từ thời đẳm, Nen mường thừ 
thời xưa” [6] 
Với những quy định truyền thống như vậy 
đã có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số miền 
núi nước ta đã rất thành công trong việc quản lý 
khai thác và sử dụng đất đai (chủ yếu là đất 
rừng). Vậy, tại sao hiện nay chúng ta không vận 
dụng những quy định do đồng bào các dân tộc 
thiểu số đặt ra và được thi hành bao đời nay để 
thực hiện những chính sách của Đảng và Nhà 
nước đề ra đối với các dân tộc miền núi. Trong 
thời gian gần đây, do không hiểu Luật tục 
(phong tục tập quán) và những quy định truyền 
thống của đồng bào về quyền sở hữu đất đai, đã 
dẫn đến những tranh chấp về đất đai giữa các 
đồng bào với nhau, giữa người kinh và đồng 
bào các dân tộc thiểu số, giữa các tổ chức làm 
kinh tế, các cơ quan nhà nước, thậm chí cả 
các đơn vị bộ đội với các dân tộc thiểu số. 
2.4. Bảo vệ động thực vật 
Động thực vật cũng là một trong những 
thành phần trong môi trường. Do vậy, việc quản 
lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng chúng cũng là 
một vấn đề cấp thiết. Như chúng ta biết, trong 
thời gian gần đây, tệ nạn săn bắt, buôn bán thú 
rừng xảy ra ở khắp đất nước. 
Cũng như việc quản lý, bảo vệ các nguồn 
tài nguyên môi trường khác, động thực vật cũng 
được các dân tộc thiểu số miền núi nước ta 
quản lý, bảo vệ và khai thác rất hiệu quả bằng 
các phong tục tập quán, Luật tục truyền thống 
từ rất lâu. 
Trong Luật tục M’nông có đến hàng trăm 
điều luật khác nhau, trong đó có khá nhiều điều 
luật liên quan đến các loại động thực vật, như 
trong quan hệ sở hữu, tài sản, các điều luật đã 
đề cập đến việc bảo vệ, gìn giữ động thực vật 
quý hiếm. Loại động vật được nói đến nhiều 
nhất là con voi, đã có những điều luật quy định 
xử phạt những ai vi phạm như ăn thịt voi, coi 
khinh voi, chửi mắng voi, nhất là tội hành hạ 
voi đến mức làm cho chúng bị thương và bị 
chết. Người nào sử dụng voi nhưng không 
chăm sóc chu đáo hoặc cục cằn, đối xử tàn nhẫn 
với voi sẽ bị phạt rất nặng. 
Luật tục M’nông còn đề cập tới các tội vi 
phạm đến con voi rất nhiều như tội gây thương 
tích cho voi; tội bắn chết voi rừng; tội giết voi 
lấy ngà, tội bắt trộm voi 
Tội bắn voi rừng cũng được coi là tội nặng 
và được phản ánh khá rõ ràng trong các điều 
của Luật tục M’nông: 
 “Bò rừng, trâu rừng thần nuôi 
Tê giác, voi rừng thần chăn 
. Bắn trâu bò, voi, tê giác 
phải làm đủ lễ cúng 
Trầu cau, xôi nếp, bánh 
Cũng không đủ bị thần trừng phạt” [5] 
Nếu người nào săn bắn làm chết các loài thú 
hiếm, Luật tục buộc người đó phải nộp phạt rất 
nặng để tạ tội vớ thần linh. 
Ngoài ra, việc bắt cá bằng cách đánh thuốc, 
chập điện như hiện nay cũng bị coi là một trọng 
tội, phải nghiêm cấm vì nó huỷ hoại môi trường 
sống của các sinh vật khác. Vấn đề này được 
Luật tục M’nông quy định trong điều Tội thuốc 
cá: “Thuốc cá làm suối nghèo; Muốn ăn ếch 
phải dùng ná bắn; Muốn ăn cá dùng rổ mà 
vớt” tức là làm gì cũng phải bảo vệ nòi 
giống, không được giết hàng loạt “Làm chết 
sạch cả tép, cả cua; Ai thuốc cá có tội với làng; 
Tội thuốc cá không ai đền nổi” (Luật tục 
M’nông - Điều Tội thuốc cá suối) [5]. 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 
78 
Luật tục Êđê cũng có nhiều điều liên quan 
đến quản lý, bảo vệ, khai thác động thực vật. 
Con voi cũng được Luật tục Êđê đề cập tới 
nhiều như: “Nếu làm voi đau ở chân thì anh ta 
(người vi phạm) phải chăm sóc voi, băng bó 
cho voi, khấn lên bài khấn cầm máu cho voi, 
đặt cho voi các thứ thuốc để lành sẹo vết 
thương, nếu máu vẫn chảy, vết thương không 
khô, người ta không còn đóng bành trên lưng 
voi được nữa, nếu voi không ăn cỏ (voi chết) thì 
anh ta phải đền lại giá trị hoặc thay thế một con 
voi khác to bằng” (Điều 222 - Luật tục Êđê). 
Về vấn đề này Luật tục Gia Lai cũng có 
những điều luật quy định chặt chẽ, như: việc 
bảo vệ thú rừng: 
 “Cấm săn bắt quá mức 
Thịt con khỉ, con dộc, con vượn, con khỉ 
đột, con chuật, con ếch, con nhái 
Không được mang về nhà ăn, xuy khiến 
cháy khô bắp lúa, ghẻ lở phong độc tới con 
người, và không được săn bắn.” 
Hoặc để bảo vệ tốt các loài thú rừng họ 
thường có những sự tích nhằm nhắc nhở con 
người, như sự tích về con dộc/voọc. 
Trong các bộ Luật tục của dân tộc Thái rất 
ít đề cập đến việc bảo vệ, khai thác các loài 
động thực vật. Nhưng trong cuộc sống hàng 
ngày của họ vẫn có những luật lệ rất cụ thể, mà 
gần như ai cũng biết và phải thực hiện đó là 
điều đương nhiên. Ví dụ: ở người Thái Mường 
Tấc (Phù Yên - Sơn La) khi con cháu lớn lên 
các cụ (ông bà, bố mẹ) thường chỉ bảo con 
cháu rất cẩn thận về cách thức bảo vệ các loại 
động, thực vật như khi đi đánh cá cũng phải có 
mùa, tránh đánh bắt cá vào mùa cá đẻ, tránh săn 
bắn thú rừng vào mùa sinh nở, hoặc một số 
dòng họ của người Thái thường được gắn với 
một loài động thực vật nào đó như hổ, chim, 
khỉ Khi đã gắn với loài đó như vậy thì dòng 
họ đó không được giết hại, cũng như ăn thịt loài 
đó, vì họ cho rằng đó là tổ tiên của họ. Hoặc các 
bà lang khi đi hái thuốc trong rừng không bao 
giờ họ chặt cả cây, nhổ cả gốc, nếu cần lấy rễ 
cây thì họ chỉ đào lấy những rễ phụ không ảnh 
hưởng đến sự sống của cây, hoặc lấy là thì cũng 
không bao giờ vặt trụi cả cây 
 Chỉ với những phong tục truyền thống, 
những quy định đơn giản như vậy, nhưng đã có 
một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số ở nước ta 
đã rất thành công trong việc bảo vệ các loài 
động thực vật quý hiếm cũng như các loại động 
thực vật phục vụ đời sống hàng ngày của họ. 
Tóm lại, cùng với việc hoàn thiện hệ thống 
pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường ở 
nước ta hiện nay thì việc giữ gìn, phát huy các 
phong tục tập quán truyền thống của các dân 
tộc thiểu số về bảo vệ tài nguyên môi trường là 
rất cần thiết. 
Nhìn một cách khái quát, chúng ta thấy rằng 
các quy định của Luật tục mặc dù rất manh 
mún, nhỏ mọn, phạm vi áp dụng hẹp và có lẽ 
còn là lạc hậu, lỗi thời, không khoa học, nhưng 
đi sâu tìm hiểu chúng ta thấy rất hợp lý, phù 
hợp với từng địa phương, đời sống của từng tộc 
người cụ thể. Có thể khẳng định rằng nó thể 
hiện tính tự quản rất cao trong việc quản lý xã 
hội nói chung và trong việc bảo vệ tài nguyên 
môi trường sinh thái phục vụ cho riêng đồng 
bào các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, với các quy 
định của Luật tục như vậy chỉ phù hợp với xã 
hội trong điều kiện thuần tuý về mặt nông 
nghiệp, có thành phần cư dân thuần nông. Vì 
vậy, với điều kiện phát triển nền kinh tế thị 
trường như hiện nay thì việc thực hiện những 
quy định của Luật tục cũng sẽ có những biến 
đổi. Do đó, cùng với hệ thống pháp luật bảo vệ 
tài nguyên và môi trường của nước ta hiện nay, 
chúng ta có thể xây dựng quy chế dân chủ cơ sở 
(quy ước địa phương) trên cơ sở kế thừa những 
yếu tố tốt đẹp của Luật tục truyền thống, đó là 
tính cộng đồng (mọi người cùng tham gia xây 
H.V. Quynh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 3 (2015) 71-79 79 
dựng và chấp hành), tính nhân bản và hợp lý 
(đề cao trách nhiệm, hình phạt có lý có tình) và 
đưa vấn đề bảo vệ các thành phần quan trọng 
của môi trường của quốc gia như rừng, nguồn 
nước, đất rừng, động thực vật quý hiếm  nằm 
trong địa bàn địa phương. Làm được như vậy, 
vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường của 
quốc gia sẽ có hiệu quả hơn, khuyến khích được 
mọi người dân hưởng ứng tham gia. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Lê Hồng Sơn, Vai trò của phong tục tập quán và 
việc kế thừa phong tục tập quán trong xây dựng 
pháp luật, Luật tục và phát triển nông thôn hiện 
nay ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. 
[2] Viện Dân tộc học, Tư liệu lịch sử và xã hội dân 
tộc Thái. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997 
[3] Hoàng Xuân Tý, Vai trò của Luật tục vùng cao 
trong công tác giao đất, khoán rừng và quản lý tài 
nguyên thiên nhiên, Luật tục và phát triển nông 
thôn hiện nay ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa 
học), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000 
[4] Bế Viết Đẳng (chủ biên), 50 năm các dân tộc 
thiểu số Việt Nam (1945 – 1995), Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội, 1995 
[5] Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục M’nông, Nxb 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998 
[6] Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, Luật tục Thái (Tập 
quán pháp). Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1999 
[7] Phan Hữu Dật - Cầm Trọng, Văn hoá Thái Việt 
Nam. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1995 
Customary Laws Protecting Natural Resources and 
Environment in Vietnam (through Customary Law of some 
Ethnic Minorities in Northwest and Central Highlands) 
Hoàng Văn Quynh 
VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Protection of natural resource and environment has been the concern of ethnic groups 
for decades. To protect, distribute to manage natural resources, they have created harmonious 
interaction with their surrounding nature and environment. Principles of resource use in daily life have 
been applied to create sustainable interaction between local users and their environment. While each 
ethnic group has its own natural resource management system, this paper will show that customary 
law of resource management, which has existed for centuries in their society, is the most effective one. 
Keywords: Customary laws, natural resources and the environment, minorities, Northwest, Central 
Highlands 

File đính kèm:

  • pdfluat_tuc_bao_ve_tai_nguyen_thien_nhien_va_moi_truong_o_viet.pdf