Năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất nghiên cứu, phát triển đối với các vùng biển Việt Nam

Tóm tắt: Bài báo giới thiệu sơ bộ hiện trạng tài nguyên năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất về năng lượng sóng biển đối với các vùng biển Việt Nam. Tiềm năng năng lượng sóng có thể khai thác được trên thế giới là 29.500 TWh/năm. Các trạm điện bằng sóng biển có công suất phổ biến từ 50 kW, 100 kW, 300 kW đến 500 kW đã được xây dựng ở một số nước như Ấn Độ, Scotland, Na Uy, Bồ Đào Nha, Anh. Theo kết quả tính toán năng lượng sóng trung bình năm dựa trên các nguyên lý tạo ra năng lượng sóng biển, cách tính toán mật độ năng lượng sóng, phương thức phân vùng tài nguyên năng lượng sóng biển Việt Nam cho thấy khu vực có tiềm năng năng lượng sóng 10 kW/m trải rộng toàn bộ vùng giữa Biển Đông, áp sát vào khu vực ven bờ biển Nam Trung Bộ và đây là khu vực khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất

pdf 7 trang yennguyen 920
Bạn đang xem tài liệu "Năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất nghiên cứu, phát triển đối với các vùng biển Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất nghiên cứu, phát triển đối với các vùng biển Việt Nam

Năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất nghiên cứu, phát triển đối với các vùng biển Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
105
NĂNG LƯỢNG SÓNG BIỂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ ĐỀ XUẤT NGHIÊN CỨU, 
PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI CÁC VÙNG BIỂN VIỆT NAM
Lê Đức Đạt, Dư Văn Toán, Nguyễn Cao Văn, Đỗ Tá Hòa
Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo
Ngày nhận bài 16/5/2017; ngày chuyển phản biện 17/5/2017 ; ngày chấp nhận đăng 15/6/2017
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu sơ bộ hiện trạng tài nguyên năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất về 
năng lượng sóng biển đối với các vùng biển Việt Nam. Tiềm năng năng lượng sóng có thể khai thác được 
trên thế giới là 29.500 TWh/năm. Các trạm điện bằng sóng biển có công suất phổ biến từ 50 kW, 100 kW, 
300 kW đến 500 kW đã được xây dựng ở một số nước như Ấn Độ, Scotland, Na Uy, Bồ Đào Nha, Anh. Theo 
kết quả tính toán năng lượng sóng trung bình năm dựa trên các nguyên lý tạo ra năng lượng sóng biển, cách 
tính toán mật độ năng lượng sóng, phương thức phân vùng tài nguyên năng lượng sóng biển Việt Nam cho 
thấy khu vực có tiềm năng năng lượng sóng 10 kW/m trải rộng toàn bộ vùng giữa Biển Đông, áp sát vào khu 
vực ven bờ biển Nam Trung Bộ và đây là khu vực khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất. 
Từ khóa: Biển Đông, điện sóng biển, tính toán, tài nguyên sóng.
1. Mở đầu
Theo báo cáo đánh giá Đại dương thế giới 
“World Ocean Review” lần thứ nhất năm 2010 
của Hiệp hội các nhà Nghiên cứu biển châu Âu, 
tổng năng lượng sóng biển toàn cầu vào khoảng 
11.400 TWh mỗi năm và có thể chuyển 1.700 TWh 
trong đó thành điện năng, đáp ứng khoảng 10% 
nhu cầu dùng điện của thế giới. 
Hiện nay các quốc gia ven biển trên thế giới 
như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, 
Scotland, Bồ Đào Nha, Nga, Trung Quốc,... có 
nhiều nghiên cứu ứng dụng tài nguyên năng 
lượng sóng để phát điện năng phục vụ chiếu 
sáng và hoạt động kinh tế ở các hải đảo và vùng 
ven biển. Năng lượng sóng biển có ưu điểm là nó 
có chu kỳ và dự đoán được. Hiện có khá nhiều 
công nghệ phát điện từ sóng biển thành công và 
đã được thương mại hóa. Nhà máy điện thương 
mại từ sóng biển đầu tiên với công suất 30 MW 
được xây dựng ở Bồ Đào Nha bằng công nghệ 
hình rắn biển Pelamis và 1 nhà máy 100 MW 
đang được xây dựng tại vương quốc Anh.
Việt Nam là nước có đường bờ biển dài trên 
3.260 km có nhiều tiềm năng về năng lượng sóng 
biển nhưng cho đến hiện nay chúng ta mới chỉ 
có một số nghiên cứu đề cập đến tài nguyên 
năng lượng sóng, mật độ năng lượng sóng biển 
tại Việt Nam, do đó việc “Nghiên cứu tài nguyên 
năng lượng sóng biển trên thế giới và đề xuất đối 
với các vùng biển Việt Nam” là rất cần thiết.
2. Hiện trạng năng lượng sóng biển trên thế giới
Nhiều nước trên thế giới đã đưa vào ứng 
dụng trong thực tế nhiều trạm phát điện bằng 
năng lượng sóng biển có công suất từ vài chục, 
vài trăm kW đến vài MW cung cấp điện cho các 
khu dân cư, đặc biệt cho các hải đảo xa bờ.
Năng lượng sóng biển có tiềm năng rất phong 
phú và có thể khai thác khắp mọi nơi để làm 
nguồn phát điện. Theo kết quả điều tra, tiềm 
năng năng lượng sóng có thể khai thác được 
trên thế giới là 29.500 TWh/năm [5]. Tiềm năng 
năng lượng sóng biển trên thế giới là rất khác 
nhau, dưới đây là hình ảnh thể hiện nguồn tài 
nguyên năng lượng sóng biển và mật độ năng 
lượng sóng biển trên thế giới (Hình 1).
 Cho đến nay đã có trên 30 nước đầu tư hơn 
20 năm nghiên cứu công nghệ khai thác nguồn 
năng lượng này. Năng lượng sóng biển rất thích 
hợp cho việc cung cấp điện cho các hải đảo. Các 
trạm điện bằng sóng biển có công suất phổ biến 
từ 50 kW, 100 kW, 300 kW đến 500 kW đã được 
xây dựng ở một số nước như Ấn Độ, Scotland, 
Na Uy, Bồ Đào Nha, Anh.
Châu Âu là khu vực đứng đầu trong việc áp 
dụng năng lượng sóng, hiện đã có 4 dự án khai 
thác thương mại năng lượng sóng. Giá thành 
106 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
điện năng từ sóng hiện nay đã giảm 80% trong 
vòng 20 năm vừa qua nhờ có các tiến bộ về thiết 
bị và tối ưu hóa trong kết cấu. Với chi phí đầu tư 
ban đầu khoảng 1/2 chi phí đầu tư ban đầu của 
năng lượng gió và 1/4 chi phí đầu tư ban đầu của 
năng lượng pin mặt trời, năng lượng sóng có một 
tiềm năng rất lớn để trở thành một nguồn năng 
lượng có giá rẻ nhất trong tương lai [4].
Khai thác năng lượng sóng biển để cung cấp 
điện ngày càng được nhiều nước đặc biệt quan 
tâm. Các chương trình nghiên cứu quốc gia đã 
thành lập từ những năm 80 của thế kỷ trước, 
hiệu quả của các nguồn điện từ sóng biển ngày 
càng cao, công suất các tổ máy ngày càng lớn 
(750 kW tổ máy), các sản phẩm đã bắt đầu 
thương mại hóa.
3. Công nghệ chuyển đổi năng lượng sóng
Hiện nay, công nghệ phát điện bằng chuyển 
đổi năng lượng sóng biển rất đa dạng, có loại 
được lắp trên bờ (onshore), có loại gần bờ 
(nearshore), có loại xa bờ (offshore).
Thiết bị trên bờ (onshore): Những thiết bị 
chuyển đổi này nằm ở bờ và có thể được đặt 
trên mặt biển (nước cạn), trong đập, hoặc cố 
định vào một vách đá. Ưu điểm của những bộ 
chuyển đổi này là dễ dàng bảo trì và cài đặt. Hơn 
nữa, họ không cần hệ thống neo đậu hoặc cáp 
dài để kết nối WEC với lưới điện. Tuy nhiên, tại 
bờ biển, sóng có ít năng lượng hơn do sự tương 
tác của chúng với đáy biển, và việc thiếu đất đai 
phù hợp cũng gây khó khăn cho việc triển khai 
các hệ thống này.
Thiết bị gần bờ (nearshore): Những thiết bị 
chuyển đổi này được lắp đặt cách bờ khoảng độ 
sâu trung bình khoảng 10 m đến vài trăm mét. 
Chúng thường nằm trên đáy biển (tránh những 
chỗ neo đậu) nhưng cấu trúc phải chịu đựng 
được áp lực phát sinh khi sóng vượt qua nó; trong 
các trường hợp khác, chúng cũng là cấu trúc nổi.
Thiết bị ngoài khơi (offshore): Những thiết bị 
chuyển đổi này nằm trong vùng nước sâu (hơn 
40 m), cách bờ và được xây dựng trong các cấu 
trúc nổi hoặc ngập nước được gắn ở đáy biển để 
khai thác sức mạnh sóng to lớn của vùng biển 
mở. Tuy nhiên, độ tin cậy và khả năng tồn tại của 
thiết bị là một vấn đề lớn, và cấu trúc của chúng 
phải chịu tải rất cao. Hơn nữa, bảo trì thiết bị 
là một quá trình phức tạp và tốn kém. Các loại 
cáp biển dài được sử dụng để vận chuyển năng 
lượng cho lưới điện.
Hình 1. Tài nguyên và mật độ năng lượng sóng biển trên thế giới [5]
Hình 2. Công nghệ khai thác năng lượng sóng biển [6]
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
107
 4. Phương pháp tính toán và phân vùng tiềm 
năng năng lượng sóng biển
4.1. Nguyên lý tạo ra năng lượng sóng biển
Có 7 nguyên lý chính tạo ra tài nguyên năng 
lượng sóng biển: 
- Nguyên lý sử dụng dao động của sóng biển 
để tạo ra dao động của hệ phao nổi, biến chuyển 
động sóng thành sự thay đổi của áp suất không 
khí trong phao nổi.
- Phương pháp biến đổi dòng điện cảm ứng 
để tạo ra điện năng.
- Nguyên lý sử dụng phương pháp dao động 
thủy lực để biến đổi điện năng bằng cách tạo áp 
suất không khí.
- Nguyên lý sử dụng phương pháp lắc có 
công suất lớn để biến đổi năng lượng sóng sang 
cơ - điện năng.
- Nguyên lý tạo điện năng từ sóng với công 
suất nhỏ thông qua tuốc bin thủy lực.
- Nguyên lý tạo điện năng bằng guồng quay.
- Phương pháp tích tụ năng lượng sóng biển 
để chuyển sang điện năng với công suất lớn.
4.2. Công thức tính năng lượng sóng và thông 
lượng năng lượng sóng 
a. Năng lượng sóng: Bao gồm động năng và 
thế năng
- Động năng được gây ra bởi tốc độ quỹ đạo 
của hạt nước trong chuyển động sóng.
- Thế năng thể hiện ở độ cao của phần nước 
phía trên bụng sóng.
Theo lý thuyết sóng tuyến tính, thế năng 
tương ứng với mực nước trung bình khi lặng 
sóng. Các sóng chuyển động theo một hướng 
thì các thành phần thế năng và động năng bằng 
nhau. Năng lượng cho mỗi bước sóng (độ dài 
sóng) trên một đơn vị bề rộng của đỉnh sóng là:
Tổng năng lượng trung bình cho một đơn vị 
bề mặt biển - mật độ năng lượng sóng là:
2
8
E gHE
L
ρ
= =
b. Thông lượng năng lượng sóng
Thông lượng năng lượng sóng là năng lượng 
sóng truyền theo hướng truyền sóng qua một 
mặt phẳng vuông góc với hướng truyền sóng 
tính từ mặt biển đến đáy biển. Thông lượng 
năng lượng trung bình cho một đơn vị đỉnh 
sóng, truyền qua một mặt phẳng vuông góc với 
hướng truyền sóng sẽ được biểu diễn như sau:
P EnC ECg= = 
(4.3)
Trong đó: P là thông lượng năng lượng sóng, 
mà còn được gọi là lực sóng
- Tại vùng nước sâu: 
P E C2
1
0 0= (4.4)
 - Tại vùng nước nông: 
P EC ECg= = (4.5)
Khi đỉnh sóng song song với các đường đẳng 
sâu, phương trình cân bằng năng lượng sóng sẽ là:
E n C EC0 0 0 = (4.6)
Với n 2
1
0 = , suy ra
E C EC2
1
0 0 =
Khi đỉnh sóng không song song với đường 
đẳng sâu, (4.6) sẽ không đứng vì các sóng 
sẽ truyền với các tốc độ khác nhau mà thông 
thường được gọi là hiện tượng khúc xạ.
Tốc độ của nhóm sóng hay tốc độ truyền 
năng lượng sóng C
g
 được xác định bởi:
1 4 /1
2 sinh(4 / )g
L d LC nC
T d L
π
π
 
= + = 
 
Trong đó: C là tốc độ pha của sóng
[ ]2tanh tanh
2 2g
gL d gLC kd
L
π
π π
 = =  
 Trong đó: k là số sóng.
4.3. Tiềm năng năng lượng sóng Việt Nam 
Theo kết quả nghiên cứu khoa học về khai 
thác sử dụng năng lượng sóng biển ở nước ta 
trong những năm gần đây đã xây dựng được 
tập bản đồ năng lượng sóng khu vực Biển Đông. 
Tập bản đồ năng lượng sóng được xây dựng dựa 
trên các tham số sóng tính toán từ mô hình tính 
sóng toàn cầu SWAN cho khu vực Biển Đông với 
số liệu đầu vào là trường gió phân tích từ vệ tinh 
của JMA. Dưới đây là một số là bản đồ về độ cao 
sóng và năng lượng sóng trong tập bản đồ mà 
đề tài đã nghiên cứu được: 
Các bản đồ năng lượng sóng theo tháng, 
mùa và năm chỉ ra rằng tiềm năng năng lượng 
sóng vùng Biển Đông và ven bờ biển Việt Nam 
phụ thuộc trực tiếp vào chế độ gió, trong đó chế 
độ gió mùa đóng vai trò quyết định.
- Gió mùa Đông Bắc tạo ra vùng năng lượng 
2 2 2
16 16 8k P
gH L gH L gH LE E E ρ ρ ρ= + = + = (4.1)
(4.2)
(4.8)
(4.9)
(4.7)
108 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
sóng khá mạnh trên vùng Bắc và giữa Biển Đông. 
Vào thời kỳ các tháng 11 năm trước đến tháng 1 
năm sau trường sóng trên Biển Đông trong gió 
mùa Đông Bắc rất mạnh tạo ra các vùng có tiềm 
năng năng lượng sóng cực đại khoảng 40 kW/m. 
Vào tháng 12, khu vực với năng lượng sóng đạt 
30 kW/m bao phủ toàn bộ vùng giữa Biển Đông 
và ép sát vào vùng bờ biển miền Trung Việt 
Nam từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận. Đây là thời 
gian khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất 
trong năm. Năng lượng sóng trung bình trong 
mùa gió mùa Đông Bắc có độ lớn cực đại đạt 
25 kW/m tập trung tại hai khu vực phía ngoài 
khơi Đông Bắc Biển Đông và phía ngoài khơi 
Nam Trung Bộ.
- Mùa gió mùa Tây Nam, do tốc độ gió không 
mạnh bằng gió mùa Đông Bắc và khu vực ảnh 
hưởng cũng hạn chế ở vùng phía Nam Biển 
Đông nên tiềm năng năng lượng sóng về cơ 
bản không lớn. Năng lượng sóng cực đại trong 
mùa này chỉ đạt khoảng 20 kW/m xảy ra vào 
các tháng 7, tháng 8 và tập trung tại khu vực 
ngoài khơi phía Đông Nam Biển Đông. Tại khu 
vực quần đảo Trường Sa có thể tận dụng nguồn 
năng lượng sóng trong mùa gió mùa Tây Nam 
để khai thác năng lượng sóng. Năng lượng sóng 
trung bình trong mùa này có khu vực cực đại 
tại vùng biển Đông Nam Biển Đông và độ lớn 
của năng lượng sóng cực đại tại vùng này chỉ đạt 
khoảng 10 kW/m.
Theo kết quả tính toán năng lượng sóng 
trung bình năm cho thấy khu vực có tiềm năng 
năng lượng sóng 10 kW/m trải rộng toàn bộ 
vùng giữa Biển Đông và áp sát vào khu vực ven 
bờ biển Nam Trung Bộ. Xét trung bình mùa gió 
Đông Bắc và trung bình năm cho thấy đây là khu 
vực khai thác năng lượng sóng thuận lợi nhất 
trong tất cả các vùng ven bờ biển Việt Nam.
Hình 3. Bản đồ độ cao sóng (trái) và năng lượng sóng (phải) trung bình gió mùa Tây Nam [1]
Hình 4. Bản đồ độ cao sóng (trái) và năng lượng sóng (phải) trung bình gió mùa Đông Bắc [1]
QĐ. Hoàng Sa QĐ. Hoàng Sa
QĐ. Hoàng Sa QĐ. Hoàng Sa
QĐ. Trường Sa
QĐ. Trường Sa
QĐ. Trường Sa
QĐ. Trường Sa
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
109
4.4. Phân vùng năng lượng sóng biển [3]
- Vùng 1: Bắc Vịnh Bắc Bộ từ Móng Cái đến 
Thanh Hóa: Tại vùng này, do đặc điểm rất thoáng 
đối với sóng từ phía Nam - là trường sóng chiếm 
ưu thế trong gió mùa Tây Nam tại khu vực Vịnh 
Bắc Bộ nên năng lượng sóng chiếm ưu thế vào 
các tháng 6, 7, 8 với giá trị từ 16 kW/m trở lên vào 
thời gian này. Vào mùa gió mùa Đông Bắc, trường 
sóng tại khu vực này bị giới hạn bởi đà sóng ngắn 
nên năng lượng sóng không lớn. Tại các trạm phía 
Nam của vùng này (từ trạm 7-11) năng lượng 
sóng khá đều quanh năm đạt từ 15 kW/m trở lên. 
Dòng năng lượng sóng trung bình năm của vùng 
này đạt khoảng 15 kW/m.
- Vùng 2: Từ Thanh Hóa - Quảng Bình là 
vùng phía Nam Vịnh Bắc Bộ với đặc điểm là 
dòng năng lượng sóng trong gió mùa Đông Bắc 
chiếm ưu thế. Tại vùng này, từ tháng 10 năm 
trước đến tháng 2 năm sau, dòng năng lượng 
sóng đạt giá trị 30 kW/m trở lên trong mùa 
gió mùa Tây Nam, vào các tháng mùa hè, năng 
lượng sóng tại khu vực này nhỏ hơn 20 kW/m. 
Dòng năng lượng sóng trung bình của khu vực 
này đạt khoảng 25 kW/m.
- Vùng 3: Quảng Bình đến Quảng Nam là khu 
vực Bắc miền Trung. Đây là khu vực có dòng 
năng lượng khá nhỏ quanh năm vì nguồn gió 
mùa Đông Bắc trường sóng bị đảo Hải Nam che 
chắn trong khi đó trong mùa gió Tây Nam thì gió 
thường thổi từ trong bờ ra. Tuy nhiên, vào mùa 
đông, dòng năng lượng sóng tại vùng biển này 
khá mạnh. Dòng năng lượng sóng trung bình 
năm của vùng này đạt khoảng 10 kW/m.
- Vùng 4: Từ Quảng Ngãi đến Ninh Thuận - khu 
vực Nam Trung Bộ. Đây là vùng có dòng năng 
lượng sóng mạnh nhất trên toàn dải ven bờ Việt 
Nam vì là vùng tiếp xúc trực tiếp với biển thoáng 
và có đà sóng gần như không bị giới hạn, trong 
cả hai mùa gió thịnh hành. Trong gió mùa Đông 
Bắc, năng lượng sóng tại vùng này đạt khoảng 
30 kW/m trở lên. Đặc biệt, tại các vùng ven bờ 
Phú Yên, Ninh Thuận, dòng năng lượng sóng đạt 
xấp xỉ 100 kW/m. Dòng năng lượng sóng trung 
bình năm của vùng này đạt khoảng 18 kW/m.
- Vùng 5: Từ Bình Thuận đến Mũi Cà Mau - 
khu vực đồng bằng Nam Bộ. Dòng năng lượng 
sóng tại vùng này không lớn. Vì ở đây tác động 
của trường sóng trong gió mùa Đông Bắc đã bị 
yếu đi. Dòng năng lượng sóng trung bình năm 
của vùng này đạt khoảng 18 kW/m. 
- Vùng 6: Ven bờ phía Tây từ Cà Mau đến Kiên 
Giang - khu vực biển phía Tây Nam là vùng có 
dòng năng lượng sóng yếu nhất trong toàn dải 
ven biển Việt Nam có những trạm quanh năm 
độ cao sóng nhỏ hơn 0,5 m và chu kỳ sóng nhỏ 
hơn 5 s. Do đó, không tính năng lượng sóng. 
Dòng năng lượng sóng lớn nhất phía Tây đảo 
Phú Quốc với khoảng 15 kW/m và xảy ra vào 
thời gian tháng 8, thời gian hoạt động mạnh của 
gió mùa Tây Nam. Dòng năng lượng sóng trung 
bình của vùng này là khoảng 5-6 kW/m.
5. Kết quả và thảo luận 
Kết quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ khai 
thác sử dụng năng lượng sóng biển hiện nay 
Hình 5. Bản đồ độ cao sóng (trái) và năng lượng sóng (phải) trung bình năm [1]
QĐ. Hoàng Sa QĐ. Hoàng Sa
QĐ. Trường SaQĐ. Trường Sa
110 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
trên thế giới là rất khả quan, đạt được nhiều 
thành tựu, nhất là các công nghệ sản xuất điện 
năng từ sóng biển. Tạo điều kiện cho cho các 
nước có tiềm năng về năng lượng sóng biển, 
trong đó có Việt Nam có thể khai thác và sử 
dụng, góp phần đa dạng hóa nguồn năng lượng 
và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Theo kết quả tính toán năng lượng sóng trung 
bình năm cho thấy khu vực có tiềm năng năng 
lượng sóng 10 kW/m trải rộng toàn bộ vùng giữa 
Biển Đông và áp sát vào khu vực ven bờ biển 
Nam Trung Bộ. Xét trung bình gió mùa Đông Bắc 
và trung bình năm cho thấy đây là khu vực khai 
thác năng lượng sóng thuận lợi nhất trong tất cả 
các vùng ven bờ Việt Nam. Vào thời kỳ các tháng 
11 năm trước đến tháng 1 năm sau trường sóng 
trên Biển Đông trong gió mùa Đông Bắc rất mạnh 
tạo ra các vùng có tiềm năng năng lượng sóng 
cực đại khoảng 40 kW/m. Vào tháng 12, khu vực 
với năng lượng sóng đạt 30 kW/m bao phủ toàn 
bộ vùng giữa Biển Đông và ép sát vào vùng bờ 
biển miền Trung Việt Nam từ Đà Nẵng đến Ninh 
Thuận. Đây là thời gian khai thác năng lượng 
sóng thuận lợi nhất trong năm. Năng lượng 
sóng trung bình trong mùa gió mùa Đông Bắc có 
độ lớn cực đại đạt 25 kW/m tập trung tại hai khu 
vực phía ngoài khơi Đông Bắc Biển Đông và phía 
ngoài khơi Nam Trung Bộ.
Hình 6. Sơ đồ các điểm tính dòng và phân vùng năng lượng sóng biển dải ven biển Việt Nam [3]
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
111
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng hợp đề tài cấp Nhà nước, Nghiên cứu đánh giá tiềm năng các nguồn năng lượng 
biển chủ yếu và đề xuất các giải pháp khai thác, Viện Cơ học, Viện Khoa học và Công nghệ 
Việt Nam, 2010.
2. Nguyễn Mạnh Hùng, Dương Công Điển (2007), “Khai thác năng lượng sóng trên thế giới và sơ 
bộ đánh giá tiềm năng nguồn năng lượng này ở Việt Nam”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa 
học toàn quốc “Năng lượng biển Việt Nam - Tiềm năng, Công nghệ và Chính sách”, Hạ Long, 22 - 
24/10/2007.
3. Đỗ Ngọc Quỳnh (2004), “Đánh giá tiềm năng năng lượng biển Việt Nam”, Báo cáo tổng kết đề tài 
cấp Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2002-2003, Hà Nội.
4. Dư Văn Toán (2014), “Năng lượng tái tạo trên biển và định hướng phát triển tại Việt Nam”, Tập san 
Tài nguyên và Môi trường biển, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam.
5. Annual Report (2016), Ocean Energy Systems.
6. Iraide López (2013), Review of wave energy technologies and the necessary power-equipment, 
Universidad del País Vasco, Spain, 50pp.
OCEAN WAVE ENERGY IN THE WORLD AND PROPOSALS FOR RESEARCH 
AND DEVELOPMENT IN THE VIETNAMESE SEA
Le Duc Dat, Du Van Toan, Nguyen Cao Van, Do Ta Hoa
Viet Nam Institute of Seas and Islands
Abstract: This paper presents the current situation of marine wave energy resources in the world and 
suggestions on wave energy in Vietnam's sea areas. The wave energy potential that can be exploited in the 
world is 29,500 TWh per year. Wave power stations with a common capacity of 50 kW, 100 kW, 300 kW and 
500 kW have been built in some countries such as India, Scotland, Norway, Portugal and England. According to 
calculations of annual average wave energy based on the principles of generating wave energy, the calculation 
of wave energy density, the method of partitioning wave energy resources in Viet Nam shows that the area 
has potential 10 kW/m wave energy extends across the entire East Sea to the South Central Coast and is the 
most advantageous area for wave energy.
Keywords: East Sea, wave energy, calculation, wave resources.

File đính kèm:

  • pdfnang_luong_song_bien_tren_the_gioi_va_de_xuat_nghien_cuu_pha.pdf