Hạ thấp lòng dẫn và những tác động của nó đến hệ thống sông Cửu Long

Tóm tắt: Trước những nhận định về việc hạ thấp lòng dẫn có tác động đến hạ thấp mực nước

sông sẽ ảnh hưởng đến chế độ thủy động lực, hình thái sông Cửu Long. Nghiên cứu này góp phần

làm sáng tỏ hơn nhận định đó, đồng thời cho thấy việc khai thác cát quá mức, xây đập thượng

nguồn, sẽ có những tác động lớn đến quá trình ổn định và phát triển của đồng bằng sông Cửu

Long. Từ hai cách tiếp cận: (1) phân tích tài liệu thu thập đáy địa hình, (2) phân tích thu thập mực

nước sông; kết quả nghiên cứu cho thấy hạ thấp lòng dẫn ngày càng rõ rệt với tốc độ trung bình

lên tới 3m/ năm (Sa Đéc trong giai đoạn 3 năm gần nhất 2014-2017), mực nước chân triều giảm

thấp từ -3÷-10mm/năm tùy theo từng khu vực, trong khi đó biên độ thủy triều tăng lên mạnh +9-

+10mm/ năm. Từ kết quả này cho thấy, nếu cộng thêm cả sụt lún đất và nước biển dâng, chế độ

thủy động lực của vùng ĐBSCL đang thay đổi và chịu ảnh hưởng mạnh hơn của động lực biển.

Điều này sẽ dẫn tới xu hướng ngập lụt do triều, tăng dòng chảy trong sông kênh, xâm nhập mặn

vào sâu nội đồng, và hạn chế dần khả năng tưới tự chảy cho các vùng cao và tiêu tự chảy cho các

vùng trũng

pdf 8 trang yennguyen 980
Bạn đang xem tài liệu "Hạ thấp lòng dẫn và những tác động của nó đến hệ thống sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hạ thấp lòng dẫn và những tác động của nó đến hệ thống sông Cửu Long

Hạ thấp lòng dẫn và những tác động của nó đến hệ thống sông Cửu Long
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 1
HẠ THẤP LÒNG DẪN VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN 
HỆ THỐNG SÔNG CỬU LONG 
Nguyễn Nghĩa Hùng, Lê Quản Quân 
Viện khoa học Thủy lợi miền Nam 
Nguyễn Công Thành 
Đại học Khoa học Tự nhiên, Hồ Chí Minh 
Tóm tắt: Trước những nhận định về việc hạ thấp lòng dẫn có tác động đến hạ thấp mực nước 
sông sẽ ảnh hưởng đến chế độ thủy động lực, hình thái sông Cửu Long. Nghiên cứu này góp phần 
làm sáng tỏ hơn nhận định đó, đồng thời cho thấy việc khai thác cát quá mức, xây đập thượng 
nguồn, sẽ có những tác động lớn đến quá trình ổn định và phát triển của đồng bằng sông Cửu 
Long. Từ hai cách tiếp cận: (1) phân tích tài liệu thu thập đáy địa hình, (2) phân tích thu thập mực 
nước sông; kết quả nghiên cứu cho thấy hạ thấp lòng dẫn ngày càng rõ rệt với tốc độ trung bình 
lên tới 3m/ năm (Sa Đéc trong giai đoạn 3 năm gần nhất 2014-2017), mực nước chân triều giảm 
thấp từ -3÷-10mm/năm tùy theo từng khu vực, trong khi đó biên độ thủy triều tăng lên mạnh +9-
+10mm/ năm. Từ kết quả này cho thấy, nếu cộng thêm cả sụt lún đất và nước biển dâng, chế độ 
thủy động lực của vùng ĐBSCL đang thay đổi và chịu ảnh hưởng mạnh hơn của động lực biển. 
Điều này sẽ dẫn tới xu hướng ngập lụt do triều, tăng dòng chảy trong sông kênh, xâm nhập mặn 
vào sâu nội đồng, và hạn chế dần khả năng tưới tự chảy cho các vùng cao và tiêu tự chảy cho các 
vùng trũng. 
Từ khóa: hạ thấp lòng dẫn, hạ thấp mực nước, thủy triều, đồng bằng sông Cửu Long 
Summary: Confront informing that river bed degradation and its impacts to river gradients will 
strongly impact to hydrodynamics regime and its river morphology in the Mekong Delta. This 
study elaborates and contributes for that message, it show that overload sand mining, upstream 
damming will strongly impact to stability of the Mekong Delta. From our two key approaches: 1) 
historical bed topography analysis; and 2) water level analysis, the results show trend of bed 
degradation from up to 3m/yr (Sa Dec in the period 2014÷2017) and low tide water level is 
reduced about 3÷10mm/yr at different locations. This impact counterpart with rate of land 
subsidence, sea level rise will push Mekong Delta into tidal stronger influenced which might will 
causes tidal flooding, higher flow velocity in canal system, stronger salinity intrusion, limitation 
of self –irrigate in higher regions and self-drainage for lower regions. 
Key words: river bed degradation, lowering water level, tide, Mekong Delta 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Quá trình tương tác tự nhiên giữa lòng dẫn sông 
và dòng nước là quá trình liên tục, chịu sự chi 
phối của chế độ mưa, dòng chảy, đặc tính bùn 
cát và thổ nhưỡng của mỗi lưu vực và con sông. 
Tuy vậy, khi có sự phát triển kinh tế xã hội, nhu 
Ngày nhận bài: 28/8/2018 
Ngày thông qua phản biện: 01/10/2018 
cầu về nguồn nước cho điện năng, tưới tiêu, 
phát triển công nghiệp, nhu cầu cát cho việc xây 
dựng hạ tầng, đã làm cho quá trình này bị 
biến dạng và nếu không có phương pháp quản 
lý, kiểm soát tốt, việc mất cân bằng trạng thái 
lòng sông sẽ diễn ra. Như một nhu cầu của cơ 
Ngày duyệt đăng: 12/10/2018 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 2
thể sống của tự nhiên, lòng sông lại tiếp tục phát 
triển và lập lại các trạng thái cân bằng mới, 
trong đó có sự biến động lớn về dòng chảy và 
lòng dẫn (có thể xảy ra cả xói ngang và xói sâu), 
đặc biệt có nhiều hố xói ở trên hệ thống sông 
Cửu Long có thể sẽ bị tác động và dịch chuyển. 
Sông Mê Công nói chung và hệ thống sông Cửu 
Long nói riêng không nằm ngoài quy luật đó, 
đã có nhiều nghiên cứu nhận định rõ việc hạ 
thấp lòng dẫn ở Mê Công đã diễn ra. Guillaume 
et al (2014) đã phân tích tài liệu trong khoảng 
10 năm (1998 và 2008) với tổng số điểm đo 
khoảng 10.000 điểm từ khảo sát đường thủy 
nhận định, lòng sông hạ thấp trung bình 1,3m/ 
năm, lượng cát lấy trên tuyến sông Tiền khoảng 
93 triệu m3 và sông Hậu 110 triệu m3, đồng 
thời có những chỗ xói sâu lên đến 15m tại Sa 
Đéc. Mặt khác Darby et al (2016) chỉ ra rằng, 
bùn cát trên lưu vực sông Mê Công có sự ảnh 
hưởng lớn do bão (chiếm 45%) tổng lượng bùn 
cát trong khu vực, tuy vậy với dự báo xu thế bão 
có hướng chuyển sâu về phía bắc trong những 
năm tới, tác động này làm triết giảm bùn cát trên 
lưu vực sông. Dan et al (2013) đã chỉ ra rằng, 
lượng cát lấy từ Campuchia chiếm hơn nhiều so 
với lượng cát tự nhiên sẵn có. Lê Mạnh Hùng et 
al (2010) chỉ ra rằng, lượng cát lấy từ các tỉnh ở 
ĐBSCL đã vượt ngưỡng bùn cát cho phép với 
tổng lượng khoảng 28 triệu m3/ năm, tương 
đương khoảng 0,076 triệu tấn/ ngày, thực tế con 
số này còn lớn hơn nhiều do đây chỉ là tài liệu 
báo cáo chính thống từ các tỉnh năm 2013. 
Chính những lý do đó, nghiên cứu này có mục 
đích cụ thể hóa, những ảnh hưởng cho một số 
vùng và qua hai cách tiếp cận vấn đề cho thấy 
sự tồn tại của hiện tượng, đồng thời sẽ ảnh 
hưởng trực tiếp đến tương lai của vùng ĐBSCL, 
trước mắt là ổn định thế sông. 
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ TÀI LIỆU SỬ 
DỤNG NGHIÊN CỨU 
2.1. Phương pháp nghiên cứu 
Sử dụng phương pháp nội suy đa giác 3 hoặc 4 
điểm ngẫu nhiên trong việc tạo bản đồ DEM ở 
trong phần mềm MIKE 21FM, chúng tôi tiến 
hành xây dựng các bản đồ đáy sông qua các thời 
kỳ, sau đó chập bản đồ để xem xét diễn biến lòng 
dẫn một cách trực quan. Thông qua việc chập các 
bản đồ khác thời điểm có cùng hệ tọa độ, chúng 
tôi xác định được sự biến động về mặt không gian 
và thời gian của đáy sông. Lượng bùn cát bị biến 
động trong các vùng nghiên cứu. 
Hình 1. Phương pháp nội suy đa giác dựa trên các tài liệu thực đo 
Trên Hình 1a, chỉ ra tại một điểm cần tìm địa 
hình có tọa độ (xc,yc) có 4 vùng lân cận là 
Q1÷Q4. Phần mềm sẽ tìm ra các điểm gần nhất 
có tài liệu thực đo trong 4 vùng này để tiến hành 
nội suy và đưa ra các điểm chưa có tài liệu thành 
tài liệu cho vùng, tùy thuộc có 4 điểm hay 3 
điểm lân cận thể hiện như ở Hình 1b,c. Đây 
cũng là cách để nội suy tài liệu thường dùng 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 3
trong các phần mềm xử lý nội nghiệp cho khảo 
sát địa hình hoặc tạo DEM như phần mềm 
Hydro, Suffer. 
Sử dụng bộ công cụ lọc nhiễu tín hiệu thường 
dùng cho việc phân tích các chuỗi số liệu liên 
tục trong phần mềm Matlab (low pass filter) để 
nghiên cứu các hiệu ứng khác nhau có tính lặp 
lại như lũ, triều, để tìm ra xu thế diễn biến của 
mực nước. Trong đó có thể loại bỏ các tín hiệu 
bị nhiễu, những tài liệu đột biến do quá trình đo 
đạc xử lý tài liệu. Tùy thuộc vào đặt các tần suất 
lọc và cửa sổ lọc để trung bình hóa chuỗi số liệu 
trong khuôn khổ cho phép. Như ở Hình 2a là tài 
liệu chuỗi mực nước lũ trước khi lọc triều và 
hình 2b là thủy triều được tách ra từ chuỗi tài 
liệu lũ. 
Xuất phát từ tài liệu thực đo giai đoạn 
1979÷2016, chúng tôi tiến hành loại bỏ các tác 
động của chế độ thủy triều để xét xu thế chung 
của mực nước trung bình ngày. Sử dụng bộ lọc 
với bước tần suất trung bình hóa là 24,8h, tương 
đương thời gian một chu kỳ triều trung bình, để 
xem xét các yếu tố cơ bản sau: mực nước đỉnh 
triều cao, mực nước chân triều thấp, biên độ 
triều lớn nhất trong ngày. 
Hình 2. Minh họa cho phương pháp lọc nhiễu 
bằng bộ lọc “low-pass-filter” 
2.2. Tài liệu sử dụng 
Dựa trên khả năng thu thập tài liệu hiện có, 
chúng tôi lựa chọn 5 trạm (Tân Châu, Châu 
Đốc, Cần Thơ, Mỹ Thuận và An Thuận) so sánh 
với trạm ngoài biển ở trạm Vũng Tàu với mực 
nước thực đo cung cấp từ Đài Khí Tượng Thủy 
Văn giai đoạn (1979-2016). 
Về tài liệu địa hình chúng tôi lựa chọn 4 khu vực 
có tài liệu lặp lại khảo sát trong các giai đoạn khác 
nhau cụ thể như sau và vị trí ở Hình 3: 
- Khu vực Tân Châu – Hồng Ngự đoạn cù lao 
Long Khánh, 08/2010 và 12/2014; 
- Khu vực cù lao Ma thuộc đoạn phân nhánh 
giữa sông Tiền và sông Hậu trước Vàm Nao với 
thời gian số liệu 09/2009 và 12/2014; 
- Khu vực cù lao Tân Lộc, Thốt Nốt tại thành 
phố Cần Thơ với 2 tài liệu khảo sát địa hình 
09/2010 và tháng 08/2013; 
- Khu vực Sa Đéc với thời gian số liệu 
12/2014 và 12/2017; 
Hình 3. Minh họa cho phương pháp lọc nhiễu 
bằng bộ lọc “low-pass-filter” 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Hạ thấp lòng dẫn tại các khu vực trọng 
điểm 
a. Diễn biến hình thái trên mặt bằng tại khu vực 
Tân Châu- Hồng Ngự 
Khu vực Tân Châu - Hồng Ngự đoạn cù lao 
Long Khánh sau khoảng thời gian 50 tháng, sau 
khi tính toán cân bằng có tổng lượng xói là 
18,537 triệu m3 (tương đương khoảng 0,37 
tr/m3/tháng). Tuy vậy, nếu xét về xu thế xói, chủ 
yếu là xói tập trung tại các khu vực 3 và khu 
vực 4, 5 trên hình 4 dưới đây. 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 4
Hình 4. Diễn biến lòng dẫn tại khu vực Tân 
Châu – Hồng Ngự từ 08/2010÷12/2014 
Điểm đặc biệt, khu vực 1 đã được kè ổn định, 
nhưng theo tài liệu chập bản đồ thì vẫn có xuất 
hiện xói đáy sông, điều này cần thiết phải theo 
dõi và duy tu bảo dưỡng sớm, nếu không sẽ nguy 
hiểm đến an toàn công trình. Ở khu vực 2, đây là 
khu vực đầu cồn tuy vậy việc xói lở ở nhánh trái 
theo chiều dòng chảy cho thấy rõ việc khai thác 
khơi thông ở nhánh này, qua điều tra thực tế, thì 
đây cũng là dự án khơi thông luồng lạch ở khu 
vực này. Ở khu vực 3, xói sâu ép sát bờ phải đây 
khu vực thuộc xã Long Thuận, mặc dầu vậy bên 
phía bờ đối diện ở xã Long Khánh lại xuất hiện 
bãi bồi, đây là kết quả. Khu vực 4, trên thực tế 
đây là đoạn hợp lưu giữa sông Tiền và sông sở 
Thượng, dòng chảy mùa lũ khi hợp lưu của hai 
dòng nước tạo ra hố xói sâu khu vực này. Tương 
tự ở khu vực 5, đây là khu vực hợp lưu, mức độ 
xói sâu ở đây lớn nhất trong khu vực 8,56m sau 
50 tháng ở cuối mùa lũ năm 2010 và năm 2014, 
theo những nghiên cứu trước đây, hố xói sâu này 
khá ổn định, nhưng đến nay lòng dẫn đã thay đổi 
một cách cần phải xem xét. 
Nhìn về mặt tổng thể, ngoài 5 khu vực đáng 
quan tâm nói trên, xu hướng đang diễn biến tại 
khu vực sông này là bồi ở phía nhánh trái theo 
hướng dòng chảy và xói ở phía nhánh phải. Đây 
là diễn biến chuyển lạch diễn ra khá mạnh mẽ, 
theo tài liệu nghiên cứu cũ của GS.Lương 
Phương Hậu và Lê Ngọc Bích (1997), cách đây 
khoảng 105 năm dòng chảy chủ lưu nằm ở phía 
bên trái. 
b. Diễn biến hình thái trên mặt bằng tại khu vực 
cù lao Ma 
Do tài liệu địa hình khu vực này hạn chế về mặt 
không gian, nhưng cũng đủ để phân tích thực 
trạng diễn biến hạ thấp lòng dẫn ở tại ngã ba 
sông này. 
Hình 5. Hạ thấp lòng dẫn tại khu vực đầu cù 
lao Ma (09/2009 đến 12/2014) 
Trên hình 5 cho thấy, gần sát đầu cù lao có sự 
hạ thấp lòng dẫn lớn, hầu hết trên 8m ở phạm vi 
khoảng 200-300m gần khu vực mũi cù lao, đặc 
biệt phía nhánh sông chảy về Vàm Nao, xói sâu 
ép sát bờ. Đây mặc dù là khu vực chỉ trồng các 
cây giống (VT1) nhưng lại có ý nghĩa hết sức 
quan trọng trong việc đảm bảo thế ổn định sông 
Tiền và sông Hậu. Do đất cù lao dạng hạt đất 
pha cát rời (VT2) nên việc dòng nước tác động 
gây xói lở khu vực đầu cồn rất lớn. Kết quả chập 
bản đồ cho thấy, tổng lượng bùn cát do hạ thấp 
đáy sông mất đi khu vực này trong giai đoạn 
09/2009-12/2014 là 12,64 triệu m3, với diện tích 
bờ mất đi khoảng 5.380ha. 
c. Diễn biến hình thái trên mặt bằng tại khu vực 
Sa Đéc 
Tại khu vực Sa Đéc đây là đoạn sông cong tự 
nhiên, diễn ra sạt lở ở bờ lõm liên tục trong rất 
nhiều năm. Chập tài liệu khảo sát năm 12/2014 
và 12/2017 cho thấy sau 3 năm mức độ hạ thấp 
đáy sông lớn hơn 8m diễn ra hầu hết, chỉ có khu 
vực bờ lồi phía đối diện có bồi do hoạt động của 
đoạn sông cong gây ra. Điều đáng quan tâm ở 
đây là ở các vị trí trước và sau đoạn sông cong 
(MC1, MC3) đều có xu thế lòng dẫn hạ thấp, 
qua kết quả khảo sát hiện trường cho thấy tại 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 5
MC1 có rất nhiều vùng được khai thác cát. 
Hình 6. Diễn biến hình thái trên mặt bằng 
tại khu vực Sa Đéc 
Ở khu vực mặt cắt 2, diễn biến bồi lắng ở vùng 
bờ lồi phía Cao Lãnh diễn ra mạnh mẽ, và vì sự 
bồi lấp này, hiện nay người dân đã triển khai 
phát triển nuôi trồng thủy sản, sử dụng vùng đất 
này thành vùng sản xuất nuôi thủy sản mạnh. 
Tuy vậy, cần xem xét yếu tố sạt lở bên bờ đối 
diện và tính cân bằng của nó, tránh tình trạng 
khu vực bồi này dần dần trở thành cù lao non và 
già như trường hợp tại Tân Châu giai đoạn 
2004-2008. Khi đó, tác động lên phía kè Sa Đéc 
sẽ mạnh hơn và nguy hiểm hơn. 
d. Diễn biến hình thái trên mặt bằng tại khu vực 
Thốt Nốt 
Diễn biến xói sâu và bồi lắng tại khu vực cù lao 
Tân Lộc giai đoạn 09/2010-10/2013 cho thấy 
thể hiện mạnh ở 3 khu vực: khu vực 1 ở đầu 
cồn, đây là diễn biến xói do dòng chảy ép sát bờ 
gây ra. Riêng khu vực 2,3 việc xói và bồi đều 
diễn ra trong một đoạn sông có xu hướng thẳng, 
điều này có thể nhận thấy đây là khu vực khai 
thác cát gây ra. 
Qua việc phân tích đại diện cho 4 khu vực ở trên 
hệ thống sông cho thấy, hạ thấp lòng dẫn sông 
đang diễn ra, có những nơi hạ thấp mạnh như ở 
khu vực Sa Đéc, các vùng khác hạ thấp lòng dẫn 
diễn ra ở các khu vực nạo hút cát, xen lẫn với 
đáy lòng dẫn cũ tạo nên những đoạn xói, bồi rất 
trái quy luật tự nhiên và cũng rất khó đoán. 
Hình 7. Diễn biến hình thái tại khu vực cù lao 
Tân Lộc, Thốt Nốt, Cần Thơ 09/2010-10/2013 
3.2. Tác động của việc hạ thấp lòng dẫn lên 
chế độ thủy triều trong khu vực 
a. Biến đổi xu thế lũ 
Kết quả loại bỏ yếu tố thủy triều để xem xét 
mực nước trung bình ngày thể hiện ở hình dưới 
đây. 
Hình 8. Xu thế mực nước lũ hạ thấp sau năm 2000 
Kết quả phân tích cho thấy rất rõ, mực nước tại 
Tân Châu và Châu Đốc sau năm 2000 lũ hạ thấp 
dần, đặc biệt sau năm 2010 các đỉnh lũ biến 
thiên giữa các năm rất khác nhau, có thể một 
phần do lượng mưa phân bố diễn biến phức tạp 
cộng với việc quản lý nước của các hồ chứa 
thượng nguồn tạo ra sự biến động này. 
b. Biến đổi mực nước trung bình tháng 
Kết quả diễn biến mực nước tại Tân Châu và 
Châu đốc có xu hướng giảm khoảng 
3,7+2,7÷4,8+2,8mm/ năm, trong khi đó ở khu 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 6
vực cửa biển Vũng Tàu và Vàm Kênh có xu hướng tăng lên từ 3,3+0,3÷5,8+0,2mm/năm. 
Hình 9. Xu hướng mực nước trung bình tháng tại các trạm lựa chọn 
Riêng tại trạm thành phố Cần Thơ cho thấy mực 
nước tăng một cách đột biến +10,4mm/năm, 
đây là điều bất ngờ từ kết quả phân tích. Có thể 
cần thêm số liệu các trạm lân cận để đối chứng 
với tài liệu mực nước tại thành phố Cần Thơ. 
Tại trạm Mỹ Thuận, mức độ hạ thấp mực nước 
trung bình tháng vẫn xác định được khoảng -
1,8mm+0,6/năm. 
c. Sự thay đổi mực nước chân triều thấp nhất 
trong ngày và biên độ triều 
Tại trạm Tân Châu và Châu Đốc, xu thế hạ thấp 
mực nước chân triều rất rõ rệt trong giai đoạn 
phân tích số liệu, cụ thể ở Tân Châu hạ thấp 
mực nước chân triều là -11,5mm/ năm và tại 
trạm Châu Đốc là -9,2mm/ năm. Trong khi đó, 
biên độ thủy triều lại có xu hướng tăng nhanh 
(+10,9mm và +10,8mm/ năm) của (Tân Châu 
và Châu Đốc). 
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 7
Hình 10. Xu hướng mực nước chân triều thấp và biên độ triều tại Tân Châu, Châu Đốc 
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
- Qua nghiên cứu hạ thấp lòng dẫn từ tài liệu địa 
hình và phân tích mực nước nhiều năm cho thấy: 
+ Xu hướng hạ thấp lòng dẫn đang diễn ra rất 
mạnh mẽ, hầu hết ở các điểm do khai thác cát. 
Đặc biệt ở khu vực Sa Đéc nơi có nhiều chỗ hạ 
thấp lòng dẫn lớn và trên phạm vi rộng, đây 
cũng là đoạn sông cong gấp chế độ dòng chảy 2 
chiều chuyển đổi mạnh. 
+ Xu hướng hạ thấp mực nước lũ rất rõ nét, đặc 
biệt là từ năm 2000 tới nay. 
+ Mực nước chân triều thấp đang ngày càng 
thấp dần và biên độ triều có xu hướng tăng 
mạnh, điều này cho thấy, tác động ảnh hưởng 
của thủy triều lên chế độ thủy động lực ở vùng 
ĐBSCL đang xu thế lấn sâu hơn so với chế độ 
thủy động lực dòng chảy sông. Điều này sẽ có 
nhiều bất lợi như ngập do triều tăng lên, mặn 
xâm nhập sâu hơn vào nội đồng, nguy cơ tưới, 
tiêu tự chảy sẽ không còn nữa mà thay vào đó 
là chế độ chủ động tưới tiêu. 
+ Mặc dầu chỉ là bước đầu thử về phương pháp 
tiếp cận vấn đề, song đây là nhận diện khá đầy 
đủ, và nhóm thực hiện sẽ tiếp tục làm rõ hơn các 
vấn đề thượng nguồn, số trạm sẽ được xem xét 
tăng lên cả nội đồng và dòng sông chính. Để có 
được bước tranh tổng thể hơn về hạ thấp lòng 
dẫn và mực nước ở vùng ĐBSCL. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Stephen E. Darby, Christopher R.Hackney, Julian Leyland, Matti Kummu, Hannu Lauri, 
Daniel R. Parsons , James L. Best, Andrew P. Nicholas, Rolf Aalto, (2016) Fluvial sediment 
supply to a mega-delta reduced by shifting tropical-cyclone activity, 
Nature, doi:10.1038/nature19809. 
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 49 - 2018 8
[2] Guillaume B., Edward A., Marc G., Phillippe D., “Recent morphological changes in the 
Mekong and Bassac river channels, Mekong delta: The marked impact of river-bed 
mining and implications for delta destabilisation”, Geomorphology 224:177–
191 · November 2014. 
[3] Chris H., Jim B., Dan P., Stephen D., Julian L., Rolf A., Andrew N., Chris U., (2013) 
Measuring Bedload and Suspended Load Sediment Flux in Large Rivers: New Data from 
the Mekong River and its Applications in Assessing Geomorphic Change, AGU 2013. 
[4] Lê Mạnh Hùng và nnk, 2012, Nghiên cứu ảnh hưởng hoạt động khai thác cát đến thay đổi 
lòng dẫn sông Cửu Long (sông Tiền, sông Hậu) và đề xuất giải pháp quản lý, quy hoạch khai 
thác hợp lý, Kết quả đề tài độc lập cấp nhà nước ĐTĐL 2010T/29, Viện Khoa học Thủy lợi 
miền Nam, 2012. 
[5] Nguyễn Nghĩa Hùng và nnk, “Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ để điều chỉnh 
và ổn định các đoạn sông có cù lao đang diễn ra biến động lớn về hình thái trên sông Tiền, 
sông Hậu”, Viện khoa học Thủy lợi miền Nam, Kết quả đề tài KC08.21/11-15/2015; 

File đính kèm:

  • pdfha_thap_long_dan_va_nhung_tac_dong_cua_no_den_he_thong_song.pdf