Meiji restoration: The Japanese thought revolution and Asian Perception
Abstract: The "Meiji Restoration", a series of reform and renovation events leading to
tremendous changes in the Japanese social and political structure, has brought dramatic
changes in the political, economic and social fields in Japan. The reform started from the
change in perception and thinking: the Japanese bravely broke with the traditional views,
traditional ideas and well-received thoughts; the progressive knowledge of mankind brought
Japan to a strong integration and Japan achieved miracles in the national development. The
achievements of the Meiji Restoration have established a solid framework and foundation for
the development of modern Japan.
Bạn đang xem tài liệu "Meiji restoration: The Japanese thought revolution and Asian Perception", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Meiji restoration: The Japanese thought revolution and Asian Perception
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 72 Original Article Meiji Restoration: The Japanese Thought Revolution and Asian Perception Do Duc Minh1,*, Vo Thi Hoa2 1Inspection and Legislation Department, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2Academy of Journalism and Communication, 36 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 12 April 2019 Revised 25 May 2019; Accepted 05 June 2019 Abstract: The "Meiji Restoration", a series of reform and renovation events leading to tremendous changes in the Japanese social and political structure, has brought dramatic changes in the political, economic and social fields in Japan. The reform started from the change in perception and thinking: the Japanese bravely broke with the traditional views, traditional ideas and well-received thoughts; the progressive knowledge of mankind brought Japan to a strong integration and Japan achieved miracles in the national development. The achievements of the Meiji Restoration have established a solid framework and foundation for the development of modern Japan. Keywords: Meiji Restoration, tradition, modernity, development. _______ Corresponding author. E-mail address: minhdd@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4219 VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 73 Minh Trị duy tân: Cuộc cách mạng tư tưởng của người Nhật và tư duy phương Đông Đỗ Đức Minh1,*, Võ Thị Hoa2 1Ban Thanh tra và Pháp chế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 36 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 12 tháng 04 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 25 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 05 tháng 6 năm 2019 Tóm tắt: Là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách tân dẫn đến những thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị Nhật Bản; cuộc Cải cách “Minh Trị Duy Tân” đã mang đến những thay đổi mạnh mẽ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội trong lòng nước Nhật. Bắt đầu từ sự thay đổi trong nhận thức và tư duy: người Nhật đã dũng cảm đoạn tuyệt với những quan điểm, tư tưởng truyền thống lạc hậu và đón nhận những tư tưởng, tri thức tiến bộ của nhân loại, đưa đất nước Nhật Bản bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và giành được những kỳ tích trên con đường phát triển, xây dựng đất nước. Những thành tựu của công cuộc cải cách Minh Trị đã tạo lập khung khổ và nền móng vững chắc cho sự phát triển của đất nước Nhật Bản hiện đại. Từ khóa: Cải cách Minh Trị, truyền thống, hiện đại, phát triển. I. Tư duy phương Đông và Nhật Bản * 1. Một số vấn đề về tư duy phương Đông Tư duy phương Đông được nảy sinh trên nền tảng xã hội phương Đông với kết cấu kinh tế là những công xã nông thôn bảo thủ và hệ tư tưởng Nho giáo đề cao lễ nghĩa, coi nhẹ luật pháp, trọng tình hơn lí... chiếm địa vị thống trị _______ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: minhdd@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4219 tư tưởng trong suốt thời kỳ phong kiến và tạo ra truyền thống cai trị bằng đức 徳 với chủ nghĩa duy tình 唯 情 (còn phương Tây là pháp trị (Rule of law) và duy lí 唯 理). Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lí, phân tích mổ xẻ còn phương Đông thì ngả về dùng trực giác. Tư duy phương Tây thiên về chủ biệt, tư duy phương Đông nghiêng về chủ toàn (GS. Trần Đình Hượu). Ý thức phương Đông thấm nhuần chất thơ hơn ý thức phương Tây, trừ trường hợp Hy Lạp. Văn minh phương Đông cổ xưa là văn minh làng xã, họ không đặt mục đích chinh phục thiên nhiên mà dựa vào thiên nhiên, gửi gắm tình cảm vào thiên nhiên để tồn tại và lập ra những hương ước nặng về tình để đối nhân D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 74 xử thế. Trong khi đó, nền văn minh phương Tây với đặc trưng đô thị phát triển sớm, người phương Tây đã có ý thức cạnh tranh với thiên nhiên và siêu nhiên, chinh phục thiên nhiên và chinh phục thế giới để khẳng định sức mạnh của con người lí tính. Trong khi phương Tây với truyền thống văn hóa nổi bật luôn coi trọng chủ nghĩa cá nhân và quan niệm quyền lợi cá nhân thai nghén cùng với khái niệm công dân; văn hóa phương Đông nói chung luôn xem xét con người trong tổng thể các mối quan hệ xã hội, coi trọng những vai trò gia đình và dòng họ. Tư tưởng tôn trọng gốc gác nơi đất mẹ thiên nhiên (Ấn Độ) và cội nguồn huyết thống (Trung Quốc) của người phương Đông đã dẫn đến một ý thức thuần phục gần như tuyệt đối đối với tôn ti trật tự đã được thiết lập trong chính trị và tôn giáo. Trong thần thoại phương Đông, thế lực thần thánh được phát huy tuyệt đối quyền hành, tôn ti trật tự được tuân thủ nghiêm ngặt. Đạo Phật 佛 教 của phương Đông về cơ bản là nhất quán, thông suốt, hầu như không có những “kẻ phản nghịch”; nhưng ở phương Tây, đạo Cơ đốc luôn được sửa đổi, cải cách, thậm chí ly giáo. Người phương Tây mà từ tôn giáo tới các chế độ chính trị, kinh tế đều thấm nhuần chủ nghĩa cá nhân, dĩ nhiên không thích những học thuyết luân lí đã làm thỏa mãn tinh thần triết lí phương Đông trong suốt chiều dài lịch sử. Đề cao sức mạnh của thiên nhiên và siêu nhiên, người phương Đông quan niệm con người phụ thuộc vào thiên nhiên và thế giới siêu nhiên. Phải chăng mối quan hệ tình cảm có phần huyền bí giữa con người với thiên nhiên và với thế giới siêu nhiên là lí do chính tạo ra kiểu tư duy này? Nghiên cứu lịch sử tư tưởng (tư duy) phương Đông, chúng ta thấy phần nổi trội nhất mang tính chi phối là tư tưởng Trung Quốc1; vì vậy, nghiên cứu lịch sử tư tưởng của quốc gia này cho thấy những yếu tố tiêu biểu và qua đó _______ 1 Cùng với Ấn Độ và Hy Lạp, Trung Hoa là một trong ba cái nôi của nền văn minh lớn nhất nhân loại còn tồn tại tới ngày nay. Trong các nôi ấy, văn minh Ấn Độ và Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch sử. có thể sáng tỏ đặc trưng chung của các tư tưởng chính trị phương Đông. Đối với vùng Viễn Đông, Trung Quốc có vai trò truyền thống giống như vai trò của đế chế La Mã ở châu Âu - nghĩa là nguồn cảm hứng thường trực đối với các vấn đề về chính trị, văn hóa, tôn giáo, triết học và khoa học. Đây cũng là một nền văn hóa trong một thời kỳ nhất định đã có tác dụng trong nhiều mặt đối với phương Đông và lịch sử loài người, như: kỹ thuật sản xuất, ảnh hưởng của tổ chức xã hội, tư tưởng đạo đức... Đời sống chính trị Trung Quốc và một số nước Đông Á chịu ảnh hưởng lớn bởi các dòng tư tưởng chính trị: Nho gia 儒 家 (hay Khổng giáo 孔 教), Pháp gia 法 家 và Đạo gia 道 家. Đặc biệt, “phương Đông nặng về tư tưởng Nho giáo còn phương Tây thiên về chủ nghĩa văn minh” [3, tr.344]. Đường lối Đức trị 德 治 của Khổng Tử đã thống trị trong xã hội phong kiến Á Đông hàng nghìn năm lịch sử đã ảnh hưởng sâu sắc đến kết cấu văn hóa, đặc tính tâm lí và luân lí của nhân dân Trung Quốc, đồng thời tạo nên một truyền thống lớn của văn hóa khu vực. Là một học thuyết coi trọng huyết thống, chuộng gốc, nhớ nguồn, đề cao trung-hiếu, tôn ti trật tự; Nho giáo giúp các xã hội này có tính tổ chức cao, duy trì trật tự xã hội, gìn giữ các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội ở một mức khá cao, xã hội văn minh và ổn định lâu dài. Nho giáo tiến hành tất cả những điều đó không phải bằng vũ lực mà bằng chủ trương giáo dục toàn diện từ vua quan đến nhân dân để mỗi người đều tự giác thực hiện tùy theo vai trò của mình ( 自 天 子 以 至 於 庶 人,壹 是 皆 以 修 身 為 本; 君 君, 臣 臣, 父 父, 子 子 - Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản [1, tr.1042]; “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” - Vua ra vua, bề tôi ra bề tôi, cha ra cha, con ra con [1, tr.290] và đó cũng là lí do tại sao những nước sùng đạo Nho đều rất coi trọng giáo dục. Là tư tưởng chính thống và chiếm địa vị chủ yếu trong lịch sử Trung Quốc, Nho giáo đã góp phần xây dựng một dạng thức đặc trưng của cấu hình tư tưởng và cấu hình tư duy phương Đông. Từ đời Hán, chủ trương độc tôn D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 75 Nho đã bóp méo Nho giáo nguyên thủy đến cực đoan để phục vụ cho yêu cầu chính trị độc tài chuyên chế: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu 君 處 臣 死 臣 不 死 不 忠 , 父 處 子忘 子 不 忘 不 孝. Tính chất chính trị độc tài, thống soái, đứng trên và chi phối mọi hình thái ý thức xã hội khác (kể cả pháp luật) là một điển hình của phương Đông. Ánh hào quang thần bí của vương quyền, tư tưởng trung quân tuyệt đối của đạo Nho và sự trừng phạt tàn bạo của pháp luật là đảm bảo vững chắc cho vương vị và vương quyền, mang bản sắc văn hóa - pháp lí phương Đông. Sự khắt khe của pháp luật phong kiến cũng như lệ tục của làng xã cổ truyền (do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo - nhất là Tống Nho 宋 儒) nên vị trí và vai trò của người phụ nữ trong xã hội rất mờ nhạt, bị đối xử bất bình đẳng so với nam giới. Các quan niệm trọng nam khinh nữ 重 男 輕 女, đạo tam tòng 三 從, thất xuất 七 出, nga tử sự tiểu, thất tiết sự đại 饿 死 事 小 失 节 事 大2 (Trình thị di thư) đầy bất công đã buộc chặt người phụ nữ vào những khuôn phép khắc nghiệt vô hình và chịu nhiều bất hạnh. Đặc biệt, từ khi chế độ phong kiến tập quyền thành lập thì Khổng học trở nên độc tôn thì ngày càng quay về xu hướng bảo thủ, lạc hậu, xa rời thực tế. Dưới chế độ quân chủ chuyên chế phương Đông, yếu tố dân _______ 2 Trọng nam khinh nữ là tư tưởng đề cao vai trò, vị trí của người nam giới, xem thường, hạ thấp vai trò của phụ nữ, tiêu biểu là quan niệm thập nữ viết vô, nhất nam viết hữu 十女曰无, 一男曰有 (Sinh được một con trai mới được gọi là có con, sinh được mười con gái cũng coi như không có con). Tam tòng là 3 nguyên tắc của giáo lí phong kiến: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử 在 家 從 父, 出 嫁 從 夫, 夫 死 從 子 bắt người đàn bà phải tuân thủ là khi ở nhà phải theo cha, khi lấy chồng phải theo chồng, khi chồng chết phải theo con trai. Thất xuất (7 lí do được bỏ vợ): Luật pháp phong kiến cho phép người chồng được bỏ vợ khi họ phạm vào một trong những 7 điều sau đây: Không có con, Ghen tuông, Ác tật (bị bệnh nan y), Dâm ô (không đoan chính), Không kính trọng bố mẹ chồng, Đa hôn (lắm điều), Trộm cắp. Nga tử sự tiểu, thất tiết sự đại - Nghĩa là: “Đói chết là việc nhỏ, thất tiết mới là việc cực lớn” (Trình thị di thư). chủ, tư tưởng tự do hầu như không được biểu hiện. 2. Nhật Bản: Vài nét về tư tưởng truyền thống Là một quần đảo cô lập nằm nhỏ nhoi như một dấu ngoặc lửng ở rìa phía đông của khu vực giao lưu giữa Á - Âu rộng lớn, tương đối biệt lập với các quốc gia khác tại châu Á trong nhiều thế kỉ cho tới thời kỳ mở cửa (năm 1868), nên Nhật Bản3 có các nét riêng về phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế và văn hóa. Việc chuyển từ chế độ nô lệ sang chế độ phong kiến cùng với sự thay đổi của các quan hệ mang tính giai cấp cũng trải qua một thời kỳ lâu dài và phụ thuộc vào những bước tiến từ từ. Pháp luật cổ đại của Nhật chính là sự kết hợp của đạo Saman - một tôn giáo mang tính sơ khai. Từ thế kỉ VI-VIII, trên quê hương Núi Phú Sĩ, Hoa Anh đào, Thần đạo (神 道/Shintō) và Sumo, một nhà nước tập quyền được thành lập và đóng đô ở Asuka (gần thành phố Nara ngày nay), tên nước từ Đại Hòa (大 和/Yamato) đổi thành Nhật Bản. “Năm 646, cuộc cách tân Đại Hóa (大 化 改 新/Taika), thời kỳ này, Nhật Bản còn tàn dư xã hội thị tộc, lạc hậu hơn Trung Quốc và người Nhật Bản đã học Trung Quốc. Cũng chính thời kỳ này, Nhật Bản khẳng định thời kỳ phong kiến, xây dựng nhà nước trung ương tập quyền” [2, tr.92]; Hoàng đế được gọi là Thiên Hoàng (天 皇/Tenno), có uy quyền lớn4. Trong quá trình xác lập nhà nước phong _______ 3 Nhật Bản日本, Nihon), theo chữ Hán có nghĩa là "Gốc của Mặt Trời" hay “Đất nước Mặt Trời mọc”. Năm 670, đời vua Đường Cao Tông 唐 高 宗, Nhật Bản gửi một sứ bộ đến chúc mừng triều đình nhà Đường nhân dịp vừa bình định Triều Tiên và từ đó được đổi tên là Nhật Bản. Theo sử sách, các học giả Triều Tiên đã giới thiệu kiến thức và kỹ thuật của Trung Quốc, chữ Hán và những tác phẩm kinh điển (như Luận ngữ 论 语) vào Nhật Bản. Năm 554, một vương quốc Triều Tiên tên là Bách Tế đã gửi bác sĩ, chuyên gia dược thảo, làm lịch và thầy tu đến Nhật Bản. 4 Hiếu Đức Thiên hoàng 孝徳天皇/Karu (Ame Yorozu Toyohi no Sumera Mikoto; 645- 654) tiến hành cải cách để xác lập quyền thống trị của phương thức sản xuất phong kiến Nhật Bản. Nội dung chính của cải cách là thực hành chế độ ban điền 頒田制, kê nhân khẩu mà ban ruộng và đổi mới quan chế. Với chế độ này, giai cấp thống trị D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 76 kiến, các nhân tố ngoại lai đóng một vai trò khá quan trọng và ảnh hưởng của nền pháp luật, các học thuyết chính trị Trung Quốc đối với Nhật Bản rất sâu sắc. Đồng thời, từ quê hương Ấn Độ, Đạo Phật được truyền sang Nhật (qua Trung Quốc) với tổ chức tôn ti và có tính chất tập trung, là một thứ khuôn mẫu cho nhà nước phong kiến Nhật Bản mô phỏng. Đó là "một con chim lớn kỳ diệu, bay qua đại dương trên đôi cánh mạnh mẽ, mang tới cho Nhật Bản tất cả những nhân tố của một đời sống mới - một nền đạo đức mới, kiến thức về tất cả các lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, nghề nghiệp, và các tư tưởng siêu hình tinh tế vốn chưa từng xuất hiện trong truyền thống bản địa" [4, tr.75]. Dưới tác động của mô hình cai trị nhà Đường, Nhật Bản cố gắng xây dựng một chính quyền Trung ương tập quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên Hoàng. Đến thời kỳ Nara (710 - 794), nền văn hóa đạt tới mức cao nhờ kết hợp các yếu tố Trung Hoa và Nhật Bản. Để xác lập quyền lực mang tính chuyên chế của Thiên Hoàng thì một hình thức pháp luật đã được xây dựng theo kiểu luật nhà Tấn (晉 朝, 266-420) và nhà Đường (唐 朝, 618-907) ở Trung Quốc. Các Bộ luật hình sự phong kiến Luật lệnh (律 令/Ritsuryo) được ban hành vào đầu TK VIII “là bản sao hoàn toàn của Bộ luật hình sự nhà Đường”. Bộ luật hình sự năm 1870 cũng lấy mẫu các bản hình pháp của nhà Minh và nhà Thanh, đồng thời thể chế hóa luật Yedo của Mạc phủ. Nhìn chung, Nhật Bản chưa xuất hiện một nền pháp luật độc lập mà còn chịu ảnh hưởng khá lớn của pháp luật phong kiến Trung Hoa (chủ yếu là hệ tư tưởng Nho gia và pháp giatừ thời cổ đại kéo dài suốt thời kỳ trung đại và cận đại. “Ở Nhật Bản, rõ ràng chịu ảnh hưởng rất nhiều của các Bộ luật vay mượn của Trung Quốc, những Bộ luật này đã mục nát và biến đổi qua năm thế kỉ sử duy trì các lãnh địa có tính chất chức vụ hay đẳng cấp, nông dân được những khoảnh đất phân theo đầu người và phải nộp tô thóc, sản phẩm thủ công nghiệp gia đình và làm nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước. Như vậy, “chế độ ban điền” nhằm cải biến chế độ thuế 稅 cũ theo chế độ tô 租, dung 庸, điệu 調 của nhà Đường. dụng ở Nhật Bản, vẫn để lại một di sản được các tài liệu viết kính trọng và các chuyên gia dựa vào” [4, tr.23]. Cũng như luật pháp phong kiến Trung Hoa và các nước trong khu vực, luật phá ... các nước châu Á (điển hình là Trung Quốc) để học theo nền văn minh phương Tây và hội nhập với thế giới bên ngoài. Theo đó, nước Nhật từ bỏ những cản trở có nguồn gốc từ truyền thống Á châu trên con đường tương lai của mình. Theo Fukuzawa, không thể để Nhật Bản bị nền phong kiến Trung Hoa và Hàn Quốc làm cho trì trệ, và nên "thoát khỏi vòng tư tưởng của các quốc gia châu Á mà gia nhập với các quốc gia văn minh phương Tây (thoát Á nhập Âu). Bài luận nổi tiếng này đã khơi nguồn cho dòng tư tưởng Khai sáng27 của Nhật Bản và trở thành nền tảng tinh thần của cuộc Cải cách Minh Trị. Nhờ chủ trương này, cùng với sự triển khai thành công của phong trào Duy Tân, Nhật Bản đã hình thành được một hệ thống các thang giá trị mới và hội nhập được với bên ngoài, giúp cho nước Nhật không chỉ giữ được độc lập mà còn trở thành một cường quốc về kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật sau này. Được tiếp xúc với văn minh phương Tây qua sách vở và những chuyến viếng thăm Mỹ _______ 27 Immanuel Kant (1724 - 1804), triết gia lớn nhất của nước Ðức và của thời cận đại (Neuzeit) cho rằng: “Khai sáng là sự thoát ly của con người ra khỏi tình trạng vị thành niên do chính con người gây ra. Vị thành niên là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là do tự mình gây ra, một khi nguyên nhân của nó không phải do sự thiếu sót trí tuệ, mà do sự thiếu sót tính cương quyết và lòng can đảm, dám tự mình dùng trí tuệ phục vụ cho mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác. Sapere aude! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình!” là phương châm của Khai Sáng. và châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, Fukuzawa nhận thức được tiến bộ của văn minh phương Tây (những nước phát triển hơn châu Á về nhiều mặt) và các nước châu Á khó có thể duy trì được nền độc lập nếu vẫn đóng cửa trước văn minh phương Tây. Theo ông, giành được quyền tự trị chưa phải đã là độc lập, mà nền độc lập thật sự chỉ có thể thành hiện thực khi trở thành một quốc gia tiên tiến và văn minh. Và nếu không có sự khai sáng và văn minh thì nền độc lập giành được cũng mau chóng mất đi và lại lệ thuộc vào các quốc gia tiên tiến khác. Nhận thức được tình trạng các nước trong khu vực châu Á mới chỉ ở mức "bán văn minh", không thể là tấm gương cho Nhật Bản học hỏi, vì vậy Fukuzawa kêu gọi nước Nhật hãy "tách ra khỏi hàng ngũ các nước châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây" [13]. Ông chủ trương mở cửa giao thương với phương Tây, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm quản lí xã hội của phương Tây để phát triển Nhật Bản28. Fukuzawa tin rằng giáo dục là cách duy nhất để đạt tới văn minh, bởi bản chất của văn minh là sự phát triển kiến thức và đạo đức nội tại của dân tộc: "phải có đầy đủ cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần thì mới có thể gọi là văn minh. Tuy nhiên, sự tiện nghi về mặt vật chất cũng như sự cao thượng của tinh thần con người thì không hề có giới hạn. Vì vậy gọi là “tiện nghi” hay “cao thượng” thì phải nghĩ đó là nói đến trạng thái tiến bộ để hướng tới một trình độ cao hơn. Và bởi vì tri thức và đạo đức là động lực của sự tiến bộ này, nên kết cục có thể nói văn minh chính là sự tiến bộ của tri thức và đạo đức của con người” [14, tr.95- 96]29. _______ 28 Quan điểm này của Fukuzawa đã được chứng minh bằng thực tế: Ở châu Á, chỉ có Nhật Bản và Thái Lan - hai nước chủ trương mở cửa tránh được sự xâm lược và thôn tính của các nước phương Tây. 29 Nguyên văn “In its broad sense, civilization of virtue so as to elevate human life to a higher plane. [...] [Thus] it refers to the attainment of both materia well-being and the elevation of the human spirit, [but] since what produces man’s well-being and refinement is knowledge and virtue, civilization ultimately means the progress of man’s knowledge and virtue” - Fukuzawa Yukichi - written by D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 87 Theo Fukuzawa, nền giáo dục Nho học (Kangaku) truyền thống ở Nhật Bản là sự cản trở lớn nhất của nền văn minh: nó vừa cổ hủ vừa chậm phát triển, hàng nghìn năm vẫn không thay đổi, chỉ coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lí và nguyên tắc. Số lượng người đi học đã ít ỏi, lại chỉ được dạy đọc/viết mà không được khuyến khích phát triển tư duy sáng tạo và độc lập (phê phán kịch liệt lối học từ chương, trích cú trước đây). Fukuzawa cho rằng, giáo dục là chìa khóa của văn minh, cốt lõi của giáo dục là thực học và tính hiệu quả của nền giáo dục cần đáp ứng yêu cầu của mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội. Mục tiêu quan trọng của giáo dục là hình thành nhân cách độc lập, bởi vì “Nền văn minh của quốc gia không thể trông cậy vào quyền lực của chính phủ mà phải quan tâm đến từng người dân. Mỗi người dân phải có trách nhiệm với việc bảo vệ, gìn giữ nền độc lập của đất nước” [15, tr.13]. Ông cũng đưa ra nguyên tắc nổi tiếng "Độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân" (National independence through personal independence), tức là một xã hội muốn phát triển phải dựa trên những cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo (individual strength - tự tin vào sức mạnh cá nhân), chứ không phải dựa vào chính phủ30. Nguyên tắc cơ bản của giáo dục là phải kết hợp khoa học phương Tây với đạo đức phương Đông. Ông kêu gọi các sĩ phu Nhật Bản làm việc theo phương châm “Coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ” [13], tự tin vào sức mạnh cá nhân mà không phụ thuộc Nishikawa Shunsaku, Fukuzawe.pdf-Foxit Reader [Fukuzawe.pdf]. 30 Nguyên văn: “Quốc dân Nhật Bản chúng ta phải xắn tay ngay vào học tập, hun đúc chí khí. Trước hết mỗi cá nhân, từng con người hãy kiên quyết tự chủ, độc lập. Có như vậy, đất nước mới giàu mạnh. Có như vậy chúng ta mới hết mặc cảm, hết sợ hãi trước các thế lực phương Tây... Mỗi người độc lập thì đất nước sẽ tự chủ, độc lập, nghĩa là vậy” (Fukuzawa Yukichi, Khuyến học hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Nxb Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, Nxb Trẻ (Phạm Hữu Lợi dịch). https://sachvui.com/sachvui- 686868666888/ebooks/2018/pdf/Sachvui.Com-khuyen- hoc-fukuzawa-yukichi.pdf. vào sức mạnh của người khác. Mỗi người trong xã hội, từ các học giả uyên bác, những viên chức nhà nước địa vị cao đến những nông dân nghèo và những người buôn bán nhỏ đều có thể đi học để thực hiện tốt hơn chức năng riêng của mình, từ đó đóng góp sức mình vào phát triển xã hội, chứ không nhất thiết phải học để ra làm quan theo lối suy nghĩ truyền thống của Nho học hủ lậu (tư tưởng Khai sáng của Immanuel Kant). Người dân hãy theo đuổi nền giáo dục thực học của phương Tây, dựa trên nền tảng khoa học và kỹ thuật. Phê phán nền giáo dục Nho học chú trọng cổ văn nhưng coi thường kiến thức thực tế của Trung Hoa và Triều Tiên, Fukuzawa Yukichi cho rằng 2 nước này “suốt hàng nghìn năm không hề thay đổi và vẫn quyến luyến với những phong tục tập quán cũ kĩ, khi bàn luận về giáo dục thì lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học, chỉ biết trích dẫn những lời giáo huấn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”, chỉ coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo mà coi thường chân lí và nguyên tắc, mê tín hủ lậu không biết khoa học là gì lại còn kiêu căng tự phụ"[13]31. Với con mắt đại bàng, Fukuzawa Yukichi nhận thấy: "Đường giao thông trên thế giới là phương tiện để làn gió của văn minh phương Tây thổi vào phương Đông. Khắp mọi nơi, không có cỏ cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này"[13]. Ông đã nhìn ra cái không gian bí bách, “cổ lai hi” và đáng “xấu hổ” của Á châu mà cổ vũ người Nhật thực thi tư tưởng thoát Á. Sớm thức tỉnh trước nguy cơ mang tính thời đại để nhanh chóng tiếp nhận nền văn hóa phương Tây với tính ưu việt của nó trên các _______ 31 Tuy nhiên, việc đả kích Nho học ở Nhật Bản thời kỳ này cũng có hạn chế: do bắt đầu từ cái nhìn "sùng bái một chiều về nền văn minh vật chất phương Tây cũng như phủ nhận một chiều những giá trị thực sự của dân tộc mình", đi tới nguy cơ đánh mất chính mình trong công cuộc “văn minh Âu hóa” đầy rẫy bi kịch. Ánh hào quang của các tiêu chí phương Tây tuy có nhiều giá trị gợi mở nhưng cũng không ít hiểm họa mà đáng sợ nhất là tinh thần sùng bái vật chất, lối sống nhân danh “đấu tranh sinh tồn”, “chủ nghĩa tinh hoa”, “chủ nghĩa dân tộc cực đoan”,..vốn có quan hệ khá nhiều với các chính sách xâm lược thực dân, chế độ phát xít. D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 88 lĩnh vực công nghiệp, khoa học kỹ thuật, sự hùng cường về cả kinh tế và quân sự; cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân mặc dù cách đây 150 năm nhưng vẫn được các học giả trong và ngoài Nhật Bản nhắc đến như một mốc son đưa quốc gia này trở thành cường quốc ngang hàng với các nước tư bản Âu - Mỹ cuối thế kỉ XIX. Cuộc cải cách toàn diện này đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho sự giải phóng những tiềm năng khổng lồ của đất nước “Mặt trời mọc”. Bản chất của 30 năm Duy tân Minh Trị là quá trình dân tộc Nhật Bản nhìn văn minh châu Âu để tự khai sáng tinh thần cho chính mình. Từ bài học thức tỉnh về “Thoát Á luận”, Nhật Bản đã "thoát Á" thành công khi biết phát huy tinh thần quả cảm, dám xả thân của các võ sĩ đạo, biết giữ lấy những giá trị đạo đức thuần túy "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín" của Khổng giáo trong khi loại bỏ phần chính trị và các thiết chế bắt nguồn từ đó, nhất là hệ thống thi cử từ chương đã đè nặng trong lịch sử. Cuộc cải cách đã thu được thành công và tiếng vang lớn, tạo cơ sở vững chắc giúp Nhật Bản phát triển xứng tầm một nước văn minh, hiện đại, có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Cuộc cách mạng trong tư tưởng luôn là màn dạo đầu của cuộc cách mạng trong thực tiễn. Đối với Nhật Bản, cách ly/cắt đứt mối liên hệ về mặt tư duy với Trung Quốc và chuyên tâm vào nỗ lực hiện đại hóa đất nước, hội nhập với phương Tây là một quyết định dũng cảm và đầy lí trí. Người Nhật đã ý thức được rằng: Điều quan trọng nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa của Trung Quốc tức là văn hóa Khổng giáo. Cái văn hóa đó nó tha hóa người trí thức, nó không nhìn nhận sự suy nghĩ và hành động độc lập của cá nhân như là một giá trị. Trái lại nó coi cái chữ “trung” (trung thành) với nhà cầm quyền như một giá trị cơ bản”. Trên nền của tư duy lí, người Nhật Bản đã sớm nhận thức được rằng: suy cho cùng, phát triển chỉ đạt được từ đổi mới và sáng tạo. Và những cản trở đáng kể nhất cho sự đổi mới và sáng tạo là những cản trở nội tại, nằm ngay trong chính bản thân mình để giải phóng năng lực mọi mặt của đất nước cho phát triển, đương đầu và thích nghi được với một thế giới đầy biến động và thay đổi không ngừng. Và quan trọng hơn: không sa vào những bẫy vô hình, do sự vô tình hay cố ý của con người hoặc ngẫu nhiên của lịch sử tạo ra. Với tư duy đi trước thời đại, người Nhật cũng tỉnh táo nhận ra rằng: “Thoát Á” hay “thoát Trung” nghĩa là thoát cái quê mùa lạc hậu, hạn chế của các nước châu Á nhưng vẫn giữ lại cái gốc tinh hoa của mình trong văn hóa Khổng giáo; du nhập khoa học kỹ thuật của Tây phương nhưng vẫn giữ bản sắc của Nhật Bản. Triều đình và những trí thức Nhật Bản, một mặt đã nhận thức được những hạn chế của nền giáo dục Nho giáo trong thời kỳ mới, mặt khác họ vẫn thấy được giá trị của Nho giáo trong việc giáo dục đạo đức, nhất là giáo dục lòng trung thành, xây dựng đất nước Nhật Bản theo chủ trương “nước giàu binh mạnh”. Trong bối cảnh của nước Nhật thế kỉ XIX, những tư tưởng cải cách của Fukuzawa Yukichi hết sức sâu sắc, thiết thực, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn lịch sử Nhật Bản lúc đương thời và đóng vai trò quan trọng, tạo tiền đề tư tưởng cho công cuộc Duy Tân Minh Trị. Thoát Á luận của Yukichi trở thành tác phẩm làm thay đổi lịch sử nước Nhật, thay đổi tư duy của cả một dân tộc để xây dựng nước Nhật hiện đại và cho thấy sự mạnh mẽ, vĩ đại của một dân tộc đã dũng cảm không chịu đầu hàng số phận và dám đối mặt với những thách thức của lịch sử để vươn lên hàng đầu thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy: trước mỗi giai đoạn có tính bước ngoặt, lịch sử luôn đặt ra cho mỗi quốc gia-dân tộc những nhiệm vụ chiến lược và thách thức to lớn; đòi hỏi sự quyết tâm, ý chí, sự chung sức đồng lòng (thậm chí là sự hy sinh) của cả một dân tộc để vượt qua và tiếp tục đi lên. Để đưa công cuộc Cải cách Minh Trị thành công, người Nhật đã sớm thức tỉnh yêu cầu phải vượt qua những tư tưởng nhận thức lạc hậu để đón nhận những tư tưởng mới, tiến bộ, hiện đại và tư duy phát triển để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, tụt hậu và thông qua những chính sách cải cách tiến bộ để giải phóng năng lực mọi mặt của đất nước. Vấn đề đổi mới tư duy D.D. Minh, V.T. Hoa / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 (2019) 72-89 89 nhận thức về hội nhập và phát triển được người Nhật xác định là khâu đột phá, có ý nghĩa mở đường cho những biến đổi xã hội mạnh mẽ thời kỳ Minh Trị. Đồng thời, tư tưởng cải cách, tiếp thu văn minh nhân loại đi đôi với giữ gìn, phát huy giá trị tinh hoa của dân tộc; kết hợp tinh hoa nội ngoại để xây dựng, phát triển đất nước của Nhật Bản vẫn là bài học cho các quốc gia trên con đường hiện đại hóa, xây dựng phát triển đất nước hôm nay. Tài liệu tham khảo [1] Lý Minh Tuấn, Tứ thư bình giải, NXB Tôn giáo, 2011. [2] Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Kim, “Một số chuyên đề lịch sử thế giới”, tập 2, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2008. [3] Fukuzawa Yukichi, Phúc Ông tự truyện (Phạm Thu Giang dịch), NXB.Thế giới, 2017. [4] George.B.Sansom, Lược sử văn hóa Nhật Bản, tập 2, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989. [5] Trung Quốc cận đại giản sử, NXB. Nhân dân Thượng Hải, 1975. [6] Phan Đại Liên, Lịch sử Nhật Bản, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995. [7] Fukuzawa Yukichi, (Phạm Hữu Lợi dịch), “Khuyến học” hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, Nxb Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, NXB Trẻ, 2017. [8] Vũ Khiêu, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. [9] Francois Jullien, (Nguyên Ngọc dịch), Minh triết phương Đông và Triết học phương Tây hay thể tạng khác của Triết học, editions du Seuil, Février, 1998. [10] Nguyễn Thị Hồng Vân, Cơ cấu xã hội Nhật Bản thời Cận thế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4/2009. [11] Đào Trinh Nhất, Nhật Bản Duy Tân 30 năm, Đông Phương xuất bản, Sài Gòn, 1936. [12] Liên hiệp Các Hội KH&KT Việt Nam, Tạp chí Nhà quản lí, 27(9)/2005. [13] Fukuzawa Yukichi, (Hải Âu, Kuriki Seiichi dịch) “Thoát Á luận”, 1885. cuu/thoat_a_luan.html [14] Fukuzawa Yukichi, Lê Huy Vũ Nam, Nguyễn Anh Phong dịch), Bàn về văn minh (First published in 1875; NXB. Thế giới, 2018. [15] Fukuzawa Yukichi, (Phạm Hữu Lợi dịch), Khuyến học hay những bài học về tinh thần độc lập tự cường của người Nhật Bản, NXB. Iwanami Bunko Tri thức và phát triển, NXB. Trẻ, 2017.
File đính kèm:
- meiji_restoration_the_japanese_thought_revolution_and_asian.pdf