Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam
Tóm tắt
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiếm toán là tính độc lập của kiểm toán viên
(KTV). Do đó, nhiều quốc gia đã ban hành các qui định về luân chuyển KTV. Tuy nhiên, qui định này
đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, quản lý cũng như các hội nghề nghiệp.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có
mối liên hệ giữa việc luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán tại các công ty niêm yết ở Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 20 Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam The relationship between auditor rotation and audit quality – A case study in listed companies in Vietnam TS. Nguyễn Anh Hiền, Trường Đại học Sài Gòn Nguyen Anh Hien, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiếm toán là tính độc lập của kiểm toán viên (KTV). Do đó, nhiều quốc gia đã ban hành các qui định về luân chuyển KTV. Tuy nhiên, qui định này đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, quản lý cũng như các hội nghề nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối liên hệ giữa việc luân chuyển KTV và chất lượng kiểm toán tại các công ty niêm yết ở Việt Nam. Từ khóa: luân chuyển kiểm toán viên, chất lượng kiểm toán, công ty niêm yết. Abstract One of the factors affecting the audit quality is the independence of the auditor. Therefore, many countries have issued regulations on auditor rotation. However, this regulation has led to many debates among researchers, managers and professional associations. This study uses quantitative research methods. The research results show that there is no relationship between the auditor rotation and the audit quality at listed companies in Vietnam. Keywords: auditor rotation, Audit quality, listed companies. 1. Giới thiệu Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia có nền tài chính còn khá non trẻ trong khu vực cũng như trên thế giới. Thị trường chứng khoán mặc dù đã đi vào hoạt động được trên 16 năm nhưng tính minh bạch của thị trường vẫn còn là vấn đề gây nhiều bức xúc cho nhà đầu tư cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước. Trên thực tế có rất nhiều báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có sự thay đổi số liệu giữa trước và sau kiểm toán trong các năm 2013, 2014 và 2015. Mặc dù đã có sự giải trình của các công ty nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Sự tách biệt giữa chủ sở hữu (nhà đầu tư) và nhà quản lý trong mô hình công ty cổ phần một mặt mang lại những NGUYỄN ANH HIỀN 21 lợi ích không thể tranh cãi như có thể chuyển nhượng quyền sở hữu một cách dễ dàng mà không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng thuê được những nhà quản lý chuyên nghiệp có thể thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Mặt khác, việc tách biệt này dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và nhà quản lý. Trong khi chủ sở hữu muốn biết nhiều thông tin liên quan đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại có xu hướng hạn chế cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. Từ những vấn đề trên, có thể thấy chất lượng BCTC của các công ty niêm yết công bố là vấn đề quan trọng trong việc minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay. Điều này cũng cho thấy vai trò quan trọng của kiểm toán độc lập trong việc nâng cao chất lượng BCTC của các công ty niêm yết. Nhà đầu tư trong khả năng giới hạn về khả năng tiếp cận thông tin thực tế của doanh nghiệp nên họ gần như đặt trọn niềm tin vào các công ty kiểm toán (KT) độc tập. Họ kỳ vọng vào CLKT BCTC của các công ty KT độc lập trước khi đưa ra các quyết định đầu tư. Chất lượng kiểm toán (CLKT) gắn liền với chất lượng BCTC. Tuy nhiên, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến CLKT. Một trong những nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến CLKT là tính độc lập của KTV. Do đó để nâng cao tính độc lập của KTV trong kiểm toán BCTC nhiều quốc gia đã đưa ra các qui định về luân chuyển KTV định kỳ nhằm tăng cường tính độc lập, khách quan trong hoạt động KT độc lập. Tuy nhiên, qui định này đã dẫn đến rất nhiều cuộc tranh luận diễn ra giữa các nhà quản lý, nghiên cứu, cũng như các Hội KTV hành nghề. Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa thời gian luân chuyển KTV và CLKT ở các công ty niêm yết tại Việt Nam nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về vấn đề này để giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có những chính sách phù hợp với thực tế tại Việt Nam. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Chất lượng kiểm toán Có nhiều quan điểm khác nhau về CLKT. Tuy nhiên, Beatty (1989) thì đứng dưới góc nhìn của nhà đầu tư cho rằng CLKT được thể hiện qua sự trung thực của thông tin tài chính được trình bày trên BCTC sau khi kiểm toán. Trách nhiệm của KTV là phải làm giảm thiểu các sai sót và nâng cao độ trung thực của dữ liệu kế toán. Quan điểm này quan tâm đến kết quả của dịch vụ kiểm toán hay nói cách khác đó là sự trung thực của BCTC. Tác giả cho rằng BCTC là kết quả tổng hợp của doanh nghiệp và KTV, công ty KT. Khi thông tin trên BCTC không trung thực hợp lý thì chất lượng KT đã không được đảm bảo cho dù KTV đã hoàn toàn tuân thủ các chuẩn mực có liên quan. Từ định nghĩa này nhiều công trình nghiên cứu định lượng về CLKT đã sử dụng độ tin cậy của các thông tin trên BCTC làm thước đo CLKT. Do đó, nghiên cứu này cũng dựa vào quan điểm trên để đo lường chất lượng KT. Vì vậy nhằm đảm bảo thông tin BCTC nói chung và thông tin lợi nhuận nói riêng đáng tin cậy thì vai trò của KTV là phải phát hiện và hạn chế tối đa các hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý trong quá trình KT của mình. Khi các KTV để cho các hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý trong BCTC thì thông tin lợi nhuận có độ tin cậy thấp nên CLKT bị ảnh hưởng. Như vậy, mức độ điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý thể hiện CLKT BCTC. 2.2. Mô hình đo lường CLKT Trong các mô hình nhận diện hành vi MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 22 điều chỉnh lợi nhuận đã công bố ở nước ngoài, các tác giả đã dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích của kế toán để chia lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp thành hai loại là lợi nhuận bằng tiền (cash earnings) và lợi nhuận dồn tích (accrual earnings). Trong đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành từ các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền mặt mà doanh nghiệp đã thu và chi trong kỳ. Riêng lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận được tính trong kỳ của doanh nghiệp nhưng chưa thu được bằng tiền như các khoản doanh thu bán chịu cho khách hàng sau khi đã trừ các khoản chi phí không phải chi trả bằng tiền; các khoản chi phí phải trả; chi phí trích trước; các khoản dự phòng giảm giá tài sản; các khoản khấu hao tài sản cố định trong kỳ... Các nhà quản lý thường không thể thực hiện hành vi điều chỉnh trên các khoản lợi nhuận bằng tiền. Tuy nhiên, đối với khoản lợi nhuận dồn tích thì các nhà quản lý có thể thay đổi khi vận dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán. Trên lý thuyết, nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm đảm bảo doanh nghiệp phản ánh đúng doanh thu, chi phí trong kỳ nhằm bảo đảm lợi nhuận được phản ánh một cách trung thực và hợp lý. Trong thực tế, nguyên tắc này có thể bị lợi dụng để thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận như ghi nhận doanh thu khi nghiệp vụ bán hàng chưa được thực hiện đầy đủ hay ghi nhận doanh thu khi chưa đủ điều kiện ghi nhận theo chuẩn mực kế toán hoặc sử dụng việc trích lập các khoản dự phòng, chi phí trả trước nhằm gia tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ. Do đó, các nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty xuất phát từ các khoản lợi nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản dồn tích trong lợi nhuận (total accrual earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi tắt là biến kế toán dồn tích. Khoản dồn tích trong lợi nhuận (TA) được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận kế toán sau thuế trừ lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh: TA = LN sau thuế – dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA làm thước đo điều chỉnh lợi nhuận một cách trực tiếp do trong đó có các khoản dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp như các khoản doanh thu bán chịu trong kỳ, các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản chi phí phải trả Do đó, ta cần phải có một mô hình để tách biến TA ra làm hai phần gồm: - Các khoản dồn tích không tự định (Non-discretionary accruals viết tắt là NDA): là các khoản dồn tích được thực hiện theo những qui định, nguyên tắc của chuẩn mực và chế độ kế toán. - Các khoản dồn tích tự định (Discretionary accruals viết tắt là DA) hay còn gọi là các khoản dồn tích bất thường (abnormal accruals): là các khoản dồn tích do nhà quản lý thực hiện nhằm mục đích điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Do đó, biến DA mới chính là thước đo phù hợp để đánh giá các nhà quản lý có thao túng thông tin lợi nhuận hay không và từ đó đánh giá CLKT. Theo lý thuyết thì khi DA mang giá trị dương thì nhiều khả năng nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận. Ngược lại, trường hợp DA mang giá trị âm thì có khả năng nhà quản trị che giấu lợi nhuận. Như vậy, biến DA cho thấy có sự điều chỉnh chủ quan từ nhà quản lý đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Để ước tính giá trị của DA trong TA, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã sử dụng mô hình của nguyên gốc của Jones NGUYỄN ANH HIỀN 23 (1991) và mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan and Sweeney (1995). Mô hình Jones (1991) Mô hình được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận tính hiệu quả trong việc nhận diện điều chỉnh lợi nhuận ở các nước phát triển. Theo đó, Jones đã đưa ra mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh thu nhập thông qua 2 bước: - Xác định biến kế dồn tích không tự định (NDA) theo phương trình sau: NDAt / At-1 = α /At-1 + β1 ΔREVt /At-1 + β2 PPEt / At-1 Trong đó: NDAt: Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh được năm t At-1: Tổng tài sản cuối năm t-1 ΔREVt: Biến động doanh thu thuần năm t PPEt: Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình năm t Trong công thức trên tất cả các biến của phương trình đều chia cho At-1 (tài sản cuối năm t-1) để giảm thiểu rủi ro do phương sai không thuần nhất. α, β1, β2 là những tham số được tính bằng ước lượng bằng phương pháp bình phương bá nhất (OLS) của các hệ số a1, a2, a3 trong mô hình sau: TAt / At-1 = a0 + a1 1 / At-1 + a2 ΔREVt / At-1 + a3 PPEt / At-1 + εt Phần dư ε trong mô hình trên đại diện cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm cả biến dồn tích tự định (DAt) Sau khi ước lượng biến dồn tích không tự định (NDA), từ phương trình: DAt = TAt – NDAt Ta có: DAt / At-1 = TAt / At-1 – NDAt / At-1 Từ đó xác định biến kế toán dồn tích tự định như sau: DAt / At-1 = TAt / At-1 - a1 1 / At-1 - a2 ΔREVt / At-1 - a3 PPEt / At-1 Mô hình Jones cải tiến của Dechow, Sloan and Sweeney (1995) Hạn chế của mô hình Jones (1991) là khi chọn REV làm biến nghiên cứu thì có thể doanh thu thuần cũng cũng bị tác động thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Do đó, các nhà nghiên cứu sau này đưa thêm biến tăng giảm khoản phải thu khách hàng (ΔREC) vào phương trình nhằm loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu khách hàng trong kỳ. Qua đó, giá trị doanh thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác hơn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó. Dechow, Sloan and Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của Jones (1991) bằng cách bổ sung thêm sự thay đổi của tài khoản nợ phải thu vào mô hình (ΔREC). Mô hình Jones được cải tiến như sau: NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt - ΔRECt) / At-1 + β2 PPEt / At-1 Trong đó: ΔRECt là sự thay đổi trong tài khoản phải thu khách hàng. Dechow, Sloan and Sweeney (1995) cho rằng mô hình Jones cải tiến đã phát hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận tốt hơn so với mô hình nguyên gốc của Jones. Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển đã kết luận rằng mô hình Jones và mô hình Jones cải tiến đã cho kết quả đáng tin cậy về biến dồn tích có thể điều chỉnh (Guay, Kothari and Watts, 1996). 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô hình nghiên cứu Xuất phát từ mô hình đo lường CLKT của Dechow, Sloan and Sweeney (1995): NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt - MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 24 ΔRECt ) / At-1 + β2 PPEt / At-1 Từ phương trình trên, ta tính được DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1 Khi tỉ số DAit/At-1 quá cao thể hiện các khoản DA trong lợi nhuận lớn và CLKT giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế giá trị của DA của từng công ty có thể mang giá trị âm hoặc dương tùy thuộc vào hành vi của nhà quản lý trong kỳ muốn thổi phồng lợi nhuận (DA>0) hay giảm bớt lợi nhuận (DA<0). Do đó, nghiên cứu này sử dụng giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 làm biến phụ thuộc trong phương trình hồi quy để đại diện cho CLKT BCTC. Ký hiệu giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 là |DA| Ngoài ra, kế thừa các nghiên cứu trước đây về CLKT, tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT (Chen và cộng sự; Myers và các cộng sự; Siregar và cộng sự), nghiên cứu này sử dụng mô nghiên cứu sau để xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa CLKT BCTC (được đo lường bằng giá trị |DA|) và các biến độc lập có liên hệ với mức độ điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể mô hình nghiên cứu như sau: |DA| = α + β1TENURE + β2BIG4 + β3LEV + β4GROW + β5CFO + β6SIZE + ε Trong đó: |DA|: Chất lượng KT (được đo lường bằng mức độ điều chỉnh lợi nhuận thông qua các khoản dồn tích) TENURE: Nhiệm kỳ KTV (được xác định bằng cách đếm số năm liên tiếp một KTV thực hiện công việc kiểm toán cho một công ty) BIG4: Biến giả (dummy variable) biến này sẽ mang giá trị bằng 1 nếu công ty kiểm toán là một trong các Big4, nếu không phải Big4 thì mang giá trị bằng 0. LEV: Tỷ lệ nợ của công ty (được xác định bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia cho tổng tài sản trong kỳ) GROW: Tốc độ tăng trưởng của công ty (được xác định bằng cách lấy tổng tài sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia lại cho tổng tài sản năm t-1) CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty trong năm SIZE: Quy mô công ty (được xác định bằng cách lấy logarit của tổng tài sản doanh nghiệp) 3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu Với mục tiêu tính toán và ước tính DA cho từng công ty, nghiên cứu đã thực hiện việc lấy số liệu kế toán từ BCTC năm và thu thập thông tin về KTV phụ trách KT trên BCKT kèm theo của các công ty hiện đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong nghiên cứu này, để xem xét mối quan hệ của việc luân chuyển KTV và CLKT thì cần phải có dữ liệu chuỗi thời gian tương đối dài. Do đó, mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam từ 10 năm trở lên. Theo đó, chỉ có một số công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoáng TP.HCM (HOSE) mới đáp ứng yêu cầu này. Ngoại trừ các công ty kinh doanh trong lãnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thống kê cho thấy trên sàn HOSE có 70 công ty niêm yết trên 10 năm. Trong đó, có 4 công ty dữ liệu không đầy đủ cho 10 năm nên nghiên cứu này sử dụng dữ liệu của 66 công ty niêm yết trong 10 năm từ 2006 đến 2015 làm mẫu nghiên cứu của đề tài. Như vậy, số lượng quan sát trong đề tài là 660 quan sát. Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập các dữ liệu trên BCTC bao gồm số dư các khoản mục các khoản phải thu khách hàng, tổng nợ phải trả, giá trị còn lại tài sản cố định, tổng tài sản trên bảng cân đối kế toán; khoản mục lợi nhuận trước thuế thu nhập, doanh thu thuần trong kỳ trên báo NGUYỄN ANH HIỀN 25 cáo kết quả kinh doanh; khoản mục lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trên báo cáo KT, tên KTV chính thực hiện KT BCTC năm đó và tên công ty KT sẽ được ghi nhận lại. Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán bằng phần mềm Excel để tính tổng lợi nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông qua mô hình nghiên cứu nói trên để tính toán các khoản dồn tích tự định (DA). Nhiệm kỳ kiểm toán (thời gian luân chuyển KTV) được hiểu là số năm một KTV độc lập thực hiện kiểm toán cho cùng một công ty. Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các giá trị cần thiết sẽ là một quan sát để chạy hồi qui trên phần mềm SPSS để tìm mối tương quan giữa nhiệm kỳ KT và CLKT. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Kết quả thống kê thời gian luân chuyển KTV và CLKT Để phân tích tương quan giữa biến TENURE và DA, nghiên cứu tính giá trị trung bình của DA tương ứng với từng năm luân chuyển KTV, kết quả được trình bày trong bảng 1. Bảng 1. Thống kê CLKT và thời gian luân chuyển KTV Nhiệm kỳ kiểm toán Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5 Năm 6 Năm 7 Giá trị trung bình DA 0,2241 0,2437 0,2108 0,1570 0,1514 0,1523 0,5014 Số lượng quan sát 352 167 92 24 13 9 3 Qua bảng 1, ta thấy giá trị trung bình của DA thấp nhất là ở năm thứ 5 (0,1514) và cao nhất là ở năm thứ 7 (0,5014). Kết quả DA trung bình trong từng năm cũng cho thấy DA ở các năm thứ nhất và năm thứ 2 cao cho thấy một thực tế là kiểm toán trong hai năm đầu tạo ra nhiều rủi ro cho KTV khiến CLKT không được đảm bảo. Tuy nhiên, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 giá trị DA giảm dần qua từng năm, đến năm thứ 6 thì DA tăng trở lại và đặc biệt tăng cao ở năm thứ 7. Do đó, CLKT có xu hướng tăng dần từ năm KT thứ 3 đến năm thứ 5. Bước sang năm thứ 6 thì CLKT bắt đầu có xu hướng giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7. Kết quả này cho thấy khi nhiệm kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm thì giá trị DA trung bình càng giảm xuống tức là CLKT tăng lên. 4.2. Kết quả phân tích hồi qui Để có thể khẳng định việc luân chuyển KTV có ảnh hưởng đến CLKT không, nghiên cứu tiếp tục thực hiện hồi qui đa biến với mô hình nghiên cứu được đề xuất ở trên. Kết quả hồi qui được trình bày ở bảng 2. MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 26 Bảng 2. Kết quả hồi qui Coefficientsa Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. 95,0% Confidence Interval for B Collinearity Statistics B Std. Error Beta Lower Bound Upper Bound Tolerance VIF 1 (Constant) 2,333 ,498 4,687 ,000 1,356 3,311 BIG4 ,047 ,050 ,043 ,950 ,342 -,050 ,145 ,706 1,416 TENURE ,007 ,016 ,016 ,407 ,684 -,025 ,038 ,956 1,046 CFO 4,544E-014 ,000 ,056 1,334 ,183 ,000 ,000 ,841 1,190 GROW ,161 ,041 ,152 3,911 ,000 ,080 ,241 ,964 1,037 LEV -,010 ,083 -,005 -,124 ,901 -,173 ,153 ,949 1,054 SIZE -,182 ,043 -,201 -4,224 ,000 -,267 -,098 ,643 1,555 a. Dependent Variable: DA (Y) Bảng 3. Kết quả tổng hợp mô hình Model Summary b Mode l R R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate Change Statistics Durbin- Watson R Square Change F Change df1 df2 Sig. F Change 1 ,219 a ,048 ,039 ,45699679 ,048 5,452 6 652 ,000 1,771 a. Predictors: (Constant), SIZE, TENURE, GROW, LEV, CFO, BIG4 b. Dependent Variable: DA (Y) Kết quả hồi qui đa biến thể hiện ở bảng 2 cho thấy biến TENURE không có ý nghĩa thống kê trong mô hình (giá trị sig đều lớn hơn 5%). Điều này có nghĩa là với bộ dữ liệu trong mẫu nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời hạn luân chuyển KTV và CLKT. Điều này là do từ năm 2004 Việt Nam đã có qui định thời gian luân chuyển KTV là 3 năm nên biến TENURE trong mô hình chủ yếu nhận giá trị 1, 2, 3. Các trường hợp biến TENURE có giá trị lớn hơn 3 phần lớn là do cách năm (không liên tục). Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới như Siregar và các cộng sự (2012), Geiger và Raghunandan (2002), Carcello và Nagy (2004), Johnson và cộng sự (2002), Knechel và Vanstraelen (2006) Về giá trị và dấu của các biến độ lập khác, ta thấy chỉ có biến GROW và SIZE là có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là tốc độ tăng trưởng và qui mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến CLKT. Giá trị R2 điều chỉnh trong mô hình hồi qui là 3,9% (bảng 3). Nguyên nhân mức độ giải thích của mô hình thấp là do biến DA NGUYỄN ANH HIỀN 27 đại diện cho chất lượng thông tin lợi nhuận được dùng để đo lường CLKT. Trong khi đó, CLKT bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố mà thời hạn luân chuyển KTV chỉ là một trong số các nhân tố đó. Do đó, mô hình khó có thể giải thích được toàn bộ sự thay đổi của DA. 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1. Kết luận Mặc dù còn nhiều tranh luận nhưng vấn đề luân chuyển KTV đã được áp dụng tại nhiều quốc gia với phạm vi áp dụng và thời gian luân chuyển khác nhau. Các nghiên cứu trên thế giới về quy định này cũng khá đa dạng về phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề cũng như kết quả nghiên cứu. Phần lớn trong số các nghiên cứu đó không ủng hộ quan điểm cho rằng: Thời gian luân chuyển KTV bắt buộc làm gia tăng CLKT. Trong nghiên cứu thực nghiệm này ở các công ty niêm yết tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu sử dụng thước đo các khoản dồn tích có thể điều chỉnh (DA) để đo lường CLKT. Với dữ liệu là 66 công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2015, kết quả nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng về mối quan hệ giữa thời gian luân chuyển KTV và CLKT. Tuy nhiên, kết quả thống kê mô tả cho thấy nếu cùng 1 KTV thì CLKT sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5. Từ năm thứ 6 CLKT bắt đầu giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7. 5.2. Một số khuyến nghị - Đối với Chính Phủ, Bộ Tài chính: Theo điều 16 Nghị định 17/2012/NĐ- CP của Chính phủ ngày 13/3/2012 qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật kiểm toán độc lập thì “Kiểm toán viên hành nghề không được ký báo cáo kiểm toán cho một đơn vị được kiểm toán quá ba (03) năm liên tục”. Quy định này của Chính phủ có thể xuất phát từ yêu cầu phải gia tăng tính độc lập của các KTV nhưng điều này lại khiến họ phải gặp rủi ro cao trong nghề nghiệp khi làm lãng phí những kinh nghiệm thực tế, những hiểu biết sâu sắc về tình hình và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp khách hàng hiện tại; đồng thời họ lại gặp khó khăn trong việc tìm hiểu một khách hàng mới để lập kế hoạch KT năm đầu tiên khiến số liệu trên BCTC sẽ có tính trung thực, hợp lý không cao. Do đó, trong chừng mực nào đó, quy định này đã làm giảm chứ không làm tăng CLKT, tăng thêm chi phí xã hội mà lợi ích mang lại không rõ ràng. Với các bằng chứng thực nghiệm từ nghiên cứu này, Chính phủ nên xem xét nâng thời hạn tối đa phải thay đổi KTV lên 5 năm thay vì 3 năm như hiện nay. Thống kê về qui định luân chuyển KTV ở các quốc gia Châu Á cũng cho thấy có rất nhiều các quốc gia Châu Á chọn mốc thời gian 5 năm làm qui định bắt buộc luân chuyển KTV như Trung Quốc, Malaysia, Pakistan, Thái Lan, Singapore - Đối với Hội KTV hành nghề, các công ty kiểm toán: Hội KTV hành nghề (VACPA) cần tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài, đặc biệt cần chú trọng đến những hợp đồng kiểm toán những năm đầu. Những trường hợp kiểm toán không liên tục nhưng từ năm thứ 6 trở đi cũng cần được chú trọng kiểm soát chất lượng. Đối với việc kiểm soát chất lượng từ bên trong, các công ty KT cần thận trọng hơn trong việc tiếp nhận khách hàng mới, tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện đội ngũ nhằm nâng cao trình độ KTV; đồng thời có những chính sách khuyến khích việc chia sẻ những kinh nghiệm, MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN 28 những hiểu biết từ những KTV tiền nhiệm cho nhóm KTV mới nhằm mục tiêu vừa có thể tăng cường sự độc lập cho KTV nhưng vẫn đảm bảo KTV có được những hiểu biết cần thiết về khách hàng để cuộc KT đạt được chất lượng mong muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chen, C-Y., Lin, C-J., & Lin, Y-C. (2008). Audit partner tenure, audit firm tenure and discretionary accruals: Does long auditor tenure impair earnings quality? Contemporary Accounting Research, 25, 415-445. 2. Chi, W., Huang, H., Liao, Y., & Xie, H. (2009). Mandatory audit-partner rotation, audit quality and market perception: Evidence from Taiwan. Contemporary Accounting Research, 26, 359-391. 3. Dechow, R., Sloan, G., and Sweeney, A., P. (1995), “Detecting earnings management”. The Accounting Review, Vol.70 (2), pp. 193-225. 4. Jones, J. (1991) “Earnings Management During Import Relief Investigations.” Journal of Accounting Research 29, 193-228. 5. Sylvia Veronica Siregar, Fitriany Amarullah, Arie Wibowo and Viska Anggraita, Audit Tenure, Auditor Rotation, and Audit Quality: The Case of Indonesia. Ngày nhận bài: 20/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_luan_chuyen_kiem_toan_vien_va_chat_luong_ki.pdf