Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII

TÓM TẮT

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế kỷ XVIII là thời kỳ của chiến tranh nông

dân với đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây

Sơn, từ một phong trào ở ấp Tây Sơn đã phát triển thành phong trào quật khởi của

cả dân tộc, là kết tinh của phong trào nông dân đấu tranh trong thế kỷ XVIII. Bài

viết hướng đến tìm hiểu một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn, qua đó thấy được

những nét đặc sắc của phong trào, đồng thời khẳng định những đóng góp của phong

trào đối với sự nghiệp thống nhất và bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước.

pdf 11 trang yennguyen 2580
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII

Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
93 
MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN THẾ KỶ XVIII 
Trần Thị Thùy Dung1 
TÓM TẮT 
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế kỷ XVIII là thời kỳ của chiến tranh nông 
dân với đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây 
Sơn, từ một phong trào ở ấp Tây Sơn đã phát triển thành phong trào quật khởi của 
cả dân tộc, là kết tinh của phong trào nông dân đấu tranh trong thế kỷ XVIII. Bài 
viết hướng đến tìm hiểu một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn, qua đó thấy được 
những nét đặc sắc của phong trào, đồng thời khẳng định những đóng góp của phong 
trào đối với sự nghiệp thống nhất và bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước. 
Từ khóa: Phong trào Tây Sơn, đặc trưng 
1. Mở đầu 
Thế kỷ XVI – XVIII, đất nước bị 
chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, 
thống nhất đất nước trở thành nhu cầu 
cấp thiết của toàn dân, là nguyện vọng 
tha thiết của nhân dân, yêu cầu khách 
quan của xã hội. Phong trào Tây Sơn 
xuất hiện năm 1771 đã từng bước giành 
được thắng lợi, lật đổ các chính quyền 
phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, non 
sông nước Việt sau thời gian dài bị chia 
cắt đã được thu về một mối. Sau khi 
đánh đổ chính quyền phong kiến phản 
động trong nước, phong trào Tây Sơn 
đã vươn lên làm nghĩa vụ dân tộc, 
chống thù trong giặc ngoài, cứu dân cứu 
nước – một thắng lợi vĩ đại của phong 
trào Tây Sơn 
2. Nội dung 
2.1. Bối cảnh lịch sử Đại Việt thế 
kỷ XVIII 
Thế kỷ XV chế độ phong kiến nhà 
Lê phát triển đến giai đoạn cực thịnh. 
Nhưng đến đầu thế kỷ XVI, triều đình 
phong kiến nhà Lê bắt đầu suy yếu, tranh 
chấp giữa các phe phái diễn ra quyết liệt, 
gây ra các cuộc nội chiến kéo dài, đời 
sống nhân dân ngày càng cực khổ. 
Các vua Lê Uy Mục, Lê Tương 
Dực chỉ lo ăn chơi, không lo triều 
chính. Nội bộ triều Lê “chia bè kéo 
cánh”, tranh giành quyền lực. Dưới 
triều Lê Uy Mục, quý tộc ngoại thích 
nắm hết quyền lực, giết hại công thần. 
Dưới triều Lê Tương Dực, tướng Trịnh 
Duy Sản gây bè phái, đánh giết nhau 
liên miên suốt hơn mười năm. Chế độ 
phong kiến nhà Lê dần rơi vào cảnh 
khủng hoảng do các vua trị vì ăn chơi sa 
đọa, tha hóa làm cho triều đình rối loạn. 
Nhân khi triều đình rối loạn, quan lại ở 
địa phương cậy quyền, ức hiếp dân, đời 
sống của các tầng lớp nhân dân lâm vào 
cảnh khốn cùng. 
Từ giữa thế kỷ XVIII, tình hình 
chính trị ở Đàng Ngoài ngày càng mất 
ổn định, vua Lê không còn thực quyền, 
mọi quyền bính đều rơi vào tay chúa 
Trịnh, phủ chúa quanh năm hội hè, yến 
tiệc, phung phí tiền của. Nhà nước trung 
ương không ngừng tăng cường bóc lột 
nhân dân, nhà nước tận thu tô thuế, họ 
Trịnh đánh thuế vào cả những diện tích 
đất “đồng chua nước mặn”, “bãi cát 
trắng”, đất không sản xuất được; chính 
sách thuế thổ sản đánh vào tất cả các 
nghề thủ công của nhân dân làm cho 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: ttthuydung87@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
94 
nhiều nghề thủ công bị phá sản, hoạt 
động công thương nghiệp bị kìm hãm. 
Tình trạng thiếu thuế năm này dồn sang 
năm khác trở thành gánh nặng khủng 
khiếp đối với người dân, nhiều người 
phải bỏ nghề, phá bỏ công cụ sản xuất 
để tránh nộp thuế, cuộc sống của nhân 
dân ngày càng khổ cực, vào những năm 
40 của thế kỷ XVIII, hàng chục vạn 
nông dân chết đói, người sống sót phải 
bỏ làng quê, phiêu tán khắp nơi. Không 
những thế, việc mua quan bán tước 
ngày càng trở nên phổ biến, năm 1736 – 
1740, chúa Trịnh Giang bốn lần quy 
định thể lệ mua quan bán tước, cho 
phép quan lại nộp tiền để thăng chức và 
nhà giàu nộp tiền để được làm quan; 
năm 1750, họ Trịnh đặt “tiền thông 
kinh”, nộp ba quan tiền thì được miễn 
khảo hạch và coi như trúng sinh đồ. 
Trong khi triều đình trung ương chỉ 
lo ăn chơi, không chăm lo đến đời sống 
sống nhân dân, quan lại địa phương 
càng ra sức đục khoét, ức hiếp, nhũng 
nhiễu nhân dân, cuộc sống của người 
dân thường xuyên bị đe dọa. Đồng thời, 
nạn chiếm đoạt ruộng đất trở thành hiện 
tượng phổ biến và ngày càng nghiêm 
trọng. Bằng nhiều hình thức và thủ 
đoạn, tầng lớp địa chủ đã chiếm đoạt 
rụông tư của nông dân, mặt khác xâm 
lấn vào ruộng đất công của làng xã. 
Phần lớn ruộng công làng xã – niềm tin 
của nông dân công xã đã bị nhà nước 
cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân 
lính. Kết quả là phần ruộng cho nông 
dân ngày càng ít, hàng loạt nông dân bị 
gạt ra khỏi ruộng đất hoặc cố bám lấy 
mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng 
một cuộc sống cơ cực. 
Bên cạnh đó, thiên tai, vỡ đê, hạn 
hán xảy ra liên miên; các năm 1678, 
1681, 1684, 1687 là những năm hạn 
hán, mất mùa lớn. Đặc biệt, nạn đói 
khủng khiếp năm 1740 – 1741 ở Đàng 
Ngoài “dân phiêu tán dắt díu nhau đi 
kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 
một trăm đồng tiền không được một 
bữa no, nhân dân phần nhiều phải ăn 
rau, ăn củ, đến nổi ăn cả thịt rắn, thịt 
chuột, chết đói chồng chất lên nhau; số 
dân còn lại mười phần không được một. 
Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ 
còn lại độ năm ba hộ mà thôi” [1, tr. 
852], cuộc sống của người dân rơi vào 
cảnh cùng khốn. 
Nếu như chính sách của chế độ 
quân chủ tập quyền Đàng Ngoài thời kỳ 
này đã đẩy mâu thuẫn giữa nông dân 
với địa chủ, giữa nhân dân với nhà nước 
phong kiến trở nên gay gắt, làm bùng 
nổ các cuộc khởi nghĩa, thì đến nửa 
cuối thế kỷ XVIII, ở Đàng Trong, 
những mâu thuẫn cố hữu của chế độ 
phong kiến cũng đã đẩy xã hội Đàng 
Trong lâm vào cuộc khủng hoảng. 
Chúa Nguyễn Phúc Khoát sau khi 
xưng vương, tạo lập triều đình riêng, 
cho xây dựng cung điện theo quy mô 
của một đế đô. Không chỉ riêng các 
chúa Nguyễn mà tất cả quan lại, quý tộc 
Đàng Trong đều đua nhau ăn chơi, 
hưởng lạc đến cực độ, trong đó nổi bật 
là Trương Phúc Loan, ông nắm hết 
quyền hành, khét tiếng tham nhũng, 
vàng, bạc, châu, ngọc, lụa chất “thành 
núi”, ruộng vườn, nhà cửa, trâu ngựa 
không đếm xuể. Chính sách thuế khóa 
của chính quyền họ Nguyễn cũng hết 
sức nặng nề, phức tạp “hàng trăm thứ 
thuế, mà trưng thu thì phiền phức, gian 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
95 
lận, nhân dân khốn khổ về nỗi một cổ 
hai tròng” [2, tr. 413], thuế thổ sản có 
hàng trăm ngàn thứ, nhà nước cần gì thì 
đặt ra thứ thuế ấy để thu. Hệ thống quan 
thu thuế “bản đường quan” đông đảo, 
luôn tìm cách hạch sách, nhũng nhiễu 
nhân dân. Quan trường trở thành nơi 
làm giàu của bọn quan lại, do vậy nạn 
mua bán quan tước diễn ra rất phổ biến. 
Về kinh tế, trong thời Trịnh – 
Nguyễn phân tranh và sau đó là giai 
đoạn đất nước bị chia cắt, kinh tế Đàng 
Trong có sự phát triển hơn Đàng Ngoài. 
Thế nhưng, bước sang thế kỷ XVIII, 
kinh tế Đàng Trong bắt đầu có những 
dấu hiệu suy thoái trên các lĩnh vực: 
ngoại thương sa sút, các đô thị như 
Thanh Hà, Hội An dần dần lụi tàn; khi 
ngoại thương suy giảm, “nạn tiền 
hoang” gây ra tình tạng rối loạn nội tệ, 
dẫn đến tình trạng đầu cơ tích trữ, làm 
ngưng trệ mọi hoạt động lưu thông; 
phần lớn ruộng đất đều tập trung trong 
tay giai cấp địa chủ giàu có, giai cấp 
nông dân cực khổ, mâu thuẫn giai cấp 
ngày càng trở nên sâu sắc. Hơn nữa, đói 
kém xảy ra, đặc biệt năm 1774, Thuận 
Hóa bị đói lớn, dân bị chết đói rất 
nhiều, xác chết chồng chất lên nhau. 
Trước tình hình đó, người nông dân đã 
nổi dậy đấu tranh, mở đầu là cuộc khởi 
nghĩa của chàng Lía ở Quy Nhơn, sau 
đó là phong trào Tây Sơn – phong trào 
làm rung chuyển cả đất nước. 
Như vậy, thế kỷ XVIII chế độ 
phong kiến Đàng Ngoài và Đàng Trong 
bước vào cuộc khủng hoảng nghiêm 
trọng, giai cấp địa chủ chiếm đoạt ruộng 
đất của nông dân, chính sách thuế khóa 
nặng nề và những thủ đoạn bóc lột tàn 
bạo của nhà nước phong kiến đã đẩy 
người nông dân vào cuộc sống bần cùng 
nghèo khổ, nhiều người phải phiêu bạt, 
lưu tán. Bên cạnh đó, hạn hán, đói kém 
xảy ra, đời sống nhân dân ngày càng cơ 
cực, tất cả những điều đó đã đẩy mâu 
thuẫn kinh tế xã hội ở nước ta lên đỉnh 
điểm và là nguyên nhân dẫn tới sự bùng 
nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa. 
2.2. Sơ lược về phong trào Tây Sơn 
Phong trào Tây Sơn nổ ra ở Đàng 
Trong vào nửa cuối thế kỷ XVIII, do ba 
anh em nhà họ Nguyễn: Nguyễn Nhạc, 
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. 
Năm 1771 cuộc khởi nghĩa Tây Sơn 
bùng nổ với khẩu hiệu: “đánh đổ quyền 
thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng 
tôn Nguyễn Phúc Dương”. Mục đích 
của khởi nghĩa Tây Sơn là chống lại áp 
bức của bọn cường hào, địa chủ, tiêu 
diệt Trương Phúc Loan, “thực hiện 
công lý trong xã hội”. Phong trào Tây 
Sơn không ngừng phát triển và liên tiếp 
giành được những thắng lợi to lớn: năm 
1773, chiếm phủ Quy Nhơn; từ năm 
1776 đến năm 1783, nghĩa quân Tây 
Sơn đã bốn lần đánh vào Gia Định. 
Trong lần tiến quân thứ hai (năm 1777) 
Tây Sơn bắt giết được chúa Nguyễn, chỉ 
còn Nguyễn Ánh chạy thoát, chính 
quyền họ Nguyễn Đàng Trong bị lật đổ. 
Sau nhiều lần thất bại, Nguyễn Ánh 
sang Xiêm cầu cứu. Chớp cơ hội, tháng 
7 năm 1784 vua Xiêm sai tướng đem 5 
vạn quân thủy bộ theo Nguyễn Ánh 
sang xâm lược nước ta. Cuối năm 1784, 
quân Xiêm đã chiếm miền Tây Gia 
Định, chúng ra sức cướp phá, giết 
người. Nguyễn Nhạc đã cử Nguyễn Hụê 
vào Nam đánh giặc. Tháng 1 năm 1785 
Nguyễn Huệ lãnh đạo quân Tây Sơn 
đánh thắng trận Rạch Gầm - Xoài Mút. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
96 
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút là 
một trong những trận thủy chiến lớn 
nhất, đập tan âm mưu xâm lược của vua 
Xiêm do Nguyễn Ánh dẫn đường và 
khẳng định sức mạnh to lớn của nghĩa 
quân Tây Sơn cũng như thiên tài quân 
sự Nguyễn Huệ. 
Năm 1786, với danh nghĩa “phù Lê 
diệt Trịnh” phong trào Tây Sơn chuyển 
mục tiêu đấu tranh ra phía Bắc, quân 
Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo đã 
đánh đổ hoàn toàn nền thống trị của họ 
Trịnh. Sau đó, bằng những cuộc tiến 
công ra Bắc năm 1787 – 1788, quân 
Tây Sơn lật đổ sự thống trị của vua Lê, 
chế độ vua Lê chúa Trịnh thống trị ở 
Bắc hà bị sụp đổ. 
Sau khi đánh đổ các chính quyền 
phong kiến phản động trong nước, 
phong trào Tây Sơn đã vươn lên làm 
nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ đất 
nước. Với chiến thắng Ngọc Hồi – 
Đống Đa, Quang Trung đã đánh tan đội 
quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ 
huy, bảo vệ độc lập dân tộc. 
Phong trào Tây Sơn là một trong 
những phong trào nông dân tiêu biểu 
trong thời phong kiến Việt Nam. Phong 
trào đã lần lượt đánh đổ ba chính quyền 
phong kiến, phá tan hai cuộc xâm lược 
và can thiệp của ngoại bang, xóa bỏ tình 
trạng chia cắt Đàng Trong – Đàng 
Ngoài, thực hiện công cuộc thống nhất 
đất nước, để lại dấu ấn đậm nét trong 
lịch sử nước nhà. 
2.3. Một số đặc trưng của phong 
trào Tây Sơn thế kỷ XVIII 
2.3.1. Sự phát triển về quy mô và 
kết hợp vấn đề giai cấp – dân tộc 
Tây Sơn là vùng đất thuộc phủ Quy 
Nhơn, dinh Quảng Nam – là khu vực 
trù phú nhưng cũng là vùng chịu tô thuế 
hà khắc thời bởi các chính sách áp bức 
của các chúa Nguyễn. Năm 1771, ba 
anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, 
Nguyễn Lữ lên vùng Tây Sơn thượng 
đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai) lập 
căn cứ, dựng cờ khởi nghĩa chống chính 
quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. 
Trong giai đoạn đầu của phong trào, 
nghĩa quân Tây Sơn tranh thủ được sự 
ủng hộ của các cá nhân thuộc giai cấp 
thống trị bằng khẩu hiệu “đánh đổ quyền 
thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng 
tôn Nguyễn Phúc Dương”. Nguyễn Nhạc 
đã lợi dụng mâu thuẫn này để phân hóa 
kẻ thù, kết quả là phong trào không 
những thu hút được các tầng lớp nhân 
dân mà còn lôi kéo được một bộ phận 
trong tầng lớp thống trị vốn bất bình với 
phe cánh của Trương Phúc Loan “hào 
mục bản thổ đua nhau nổi dậy hưởng 
ứng với Nhạc, thế giặc càng ngày càng 
bùng lên” [3, tr. 17]. 
“ Giận Quốc phó ra lòng bội bạc 
nên Tây Sơn xướng nghĩa Cần Vương; 
Trước là ngăn cột đá giữa dòng kẻo 
đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé, 
Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kéo 
cùng dân ra chốn lầm than” 
Ngoài ra, Tây Sơn còn tập hợp 
được đông đảo nông dân trong vai trò 
chủ lực của nghĩa quân qua khẩu hiệu 
“lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” – 
quyền lợi kinh tế gắn liền với nông 
dân. Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban 
Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi 
lại, sách Les Espagnols dans l’Empire 
d’Annam trích dẫn như sau: “Ban ngày 
họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người 
mang cung tên, có người mang súng. 
Họ không hề làm thiệt hại đến người 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
97 
và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình 
đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ 
vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều 
thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu 
chống cự lại thì họ cướp lấy những của 
quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ 
giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... 
Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức 
và nhân từ đối với quần chúng nghèo 
khổ..” [4, tr. 33]. 
Tây Sơn không những tranh thủ 
được sự ủng hộ của nông dân mà 
phong trào còn tranh thủ được các tầng 
lớp khác như hào trưởng có thế lực ở 
vùng Thuận Nghĩa, ông bầu gánh hát 
tuồng Nhung Quy, kép hát Tư Linh. 
Đặc biệt, có cả thương nhân Trung 
Quốc như Tập Đình, Lý Tài – một 
trong những lực lượng đóng góp về tài 
chính nhiều nhất cho nghĩa quân. Đồng 
thời, Nguyễn Nhạc với chính sách 
“thượng vận” đã thu hút một phần lớn 
cư dân miền núi, người Thượng, những 
người rất thông thạo về đường sá, giỏi 
bắn cung, đặc biệt là rất trung thành, đã 
tin ai là tin đến cùng. Từ căn cứ Tây 
Sơn, nghĩa quân tỏa về giải phóng các 
làng xã, trừng trị bọn xã trưởng, quan 
thu thuế, đốt hết các giấy tờ sổ sách, 
tuyên bố bãi bỏ mọi thứ thuế, nghĩa 
quân đi đến đâu đều được nông dân 
hưởng ứng tham gia. 
Từ căn cứ Tây Sơn thượng đạo, 
với các khẩu hiệu “đánh đổ quyền thần 
Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn 
Nguyễn Phúc Dương”, “lấy của nhà 
giàu chia cho người nghèo”, nghĩa 
quân nhanh chóng được sự ủng hộ của 
các tầng lớp nhân dân. Nghĩa quân dần 
mở rộng căn cứ xuống vùng đồng 
bằng, thanh thế nghĩa quân lan rộng 
nhanh chóng. Năm 1773, quân đội Tây 
sơn kiểm soát phần lớn phủ Quy Nhơn. 
Lần đầu tiên nghĩa quân hạ được một 
thành lũy, dinh thự của quan lại phong 
kiến, uy thế của nghĩa quân lên cao. 
Chiếm được thành Quy Nhơn, nghĩa 
quân mở rộng đánh và chiếm Quảng 
Ngãi. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa 
chiến lược quan trọng, đánh dấu bước 
trưởng thành vượt bậc của cuộc khởi 
nghĩa. Đến cuối năm 1773, vùng kiểm 
soát của Tây Sơn kéo dài từ phía nam 
Quảng Ngãi đến Khánh Hòa. Tuy 
nhiên, đến giữa năm 1774, quân của 
chúa Nguyễn phản công và đánh chiếm 
lại Bình Thuận, Diên Khánh, Bình 
Khang, quân Tây Sơn chỉ kiểm soát 
căn cứ Quy Nhơn và Quảng Ngãi. 
Năm 1776, Nguyễn Lữ đem quân 
đánh vào Gia Định, quân chúa Nguyễn 
phải bỏ thành Gia Định, chạy lên Trấn 
Biên. Năm 1777, Nguyễn Lữ và 
Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định lần 
thứ hai, quân Tây Sơn đánh bại và bắt 
giết chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc 
Thuần và Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn 
Phúc Ánh chạy thoát, chấm dứt sự 
thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng 
Trong. Năm 1786, Nguyễn Huệ tiến 
quân ra Bắc, lật đổ tập đoàn chúa Trịnh, 
trao trả quyền lực cho vua Lê Hiển 
Tông. Vua Lê phong Nguyễn H ... n Nam và Quý 
Châu với danh nghĩa phù Lê, vào chiếm 
đóng Thăng Long. Nhận tin cấp báo, 
tháng 12 năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi 
Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung để 
quy tụ lòng dân, lập tức tiến quân ra Bắc. 
Đến Nghệ An, Quang Trung tuyển thêm 
quân, củng cố lực lượng, mở cuộc duyệt 
binh lớn ở Vĩnh Doanh. Ngày 20 tháng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
99 
12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 
1789), đại quân của Quang Trung đã ra 
đến Tam Điệp, Biện Sơn. Kế hoạch tác 
chiến được đề ra, toàn quân chia thành 
năm đạo với các nhiệm vụ khác nhau. 
Quang Trung quyết định mở tiệc khao 
quân ăn tết trước, hẹn đến ngày mùng 7 
vào Thăng Long mừng chiến thắng. 
Đêm giao thừa, Quang Trung đọc vang 
lời hịch: 
Đánh cho để dài tóc, 
Đánh cho để đen răng, 
Đánh cho chúng chích luân bất phản, 
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn, 
Đánh cho sử tri Nam quốc anh 
hùng chi hữu chủ 
Chỉ với 5 dòng thơ, 35 chữ, lời hịch 
thể hiện rõ mục đích của cuộc tiến quân 
là để bảo vệ các truyền thống văn hóa 
dân tộc như các tục để tóc dài, nhuộm 
răng đen; quyết tâm đánh giặc đến cùng 
(đánh cho kẻ xâm lược không kịp trở 
tay, không còn mảnh giáp) và khẳng 
định chủ quyền quốc gia của người Việt 
Nam “đánh cho sử tri Nam quốc anh 
hùng chi hữu chủ”. Bài Hịch xuất quân 
không những biểu hiện ý chí quyết tâm 
đánh giặc của quân và dân ta mà còn 
đánh để bảo vệ phong tục, tập quán 
riêng của dân tộc đánh cho để dài tóc, 
đánh cho để đen răng, đánh để khẳng 
định ta không bị đồng hóa sau hơn 1000 
bị phương Bắc đô hộ. 
Sau khi đánh bại 29 vạn quân 
Thanh xâm lược (1789), vương triều 
Quang Trung ra sức xây dựng một 
chính quyền phong kiến mới, tiến bộ 
với ý thức quản lý đất nước trên một 
phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền 
trung ương tập trung mạnh. Trong đó, 
Quang Trung rất chú trọng đến phát 
triển giáo dục và trọng dụng chữ Nôm. 
Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả 
quan lại trong chính quyền cũ nhưng có 
tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng 
đất nước, Quang Trung với tư tưởng 
“cầu hiền tài”, cố gắng thuyết phục và 
sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, 
đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng 
với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, 
Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp là 
những học giả tiêu biểu trong số các 
nho sĩ này. 
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính 
quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên 
cạnh phương thức “tiến cử”, “cầu hiền 
tài” Quang Trung đã ban hành chính 
sách “khuyến học”, mở rộng chế độ học 
tập, thi cử. Trường học được mở rộng 
đến các làng xã, cho phép các địa 
phương sử dụng một số đền chùa không 
cần thiết làm trường học. Về nội dung, 
bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến 
dần theo hướng thiết thực, bắt các nho 
sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải 
thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới 
được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải 
về học lại, còn những người bỏ tiền ra 
mua tước quan (thời Lê - Trịnh) đều bị 
đuổi về chịu lao dịch như dân chúng. 
Bên cạnh đó, dưới vương triều Tây 
Sơn, Quang Trung rất trọng dụng chữ 
Nôm. Ông lập Sùng Chính Viện chuyên 
dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài 
liệu học tập và giúp vua về mặt văn hóa. 
Mục đích của Quang Trung là nhằm 
đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính 
thức thay cho chữ Hán. Chữ Nôm được 
đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan 
trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, 
người thi đến kỳ tam trường phải làm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
100 
thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở 
thành văn tự chính thức của quốc gia 
dưới triều Quang Trung, một thành quả 
quan trọng trong lịch sử đấu tranh và 
bảo tồn nền văn hóa dân tộc, chống 
chính sách đồng hóa của các triều đại 
phương Bắc. 
Có thể nói việc trọng dụng chữ 
Nôm và mở rộng hệ thống trường học 
có ý nghĩa quan trọng trong sự phát 
triển nền văn hóa dân tộc, biểu lộ tinh 
thần quốc gia, bảo tồn nền văn hóa dân 
tộc. Việc sử dụng chữ Nôm làm văn tự 
chính thức của quốc gia dưới triều Tây 
Sơn là một thành quả quan trọng trong 
lịch sử đấu tranh, gìn giữ và phát huy 
truyền thống văn hóa dân tộc. Không 
những thế, chữ Nôm còn phát triển 
thành một trào lưu văn hóa rộng lớn, 
xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ Nôm 
xuất sắc như: Ngọc Hân công chúa với 
“Ai tư vãn”; Phan Huy Ích với “Văn tế 
Quang Trung” và không thể không kể 
tới Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. 
Những chính sách về văn hóa của 
Quang Trung thể hiện tư tưởng tiến bộ 
nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt 
qua cuộc khủng hoảng sau thời gian 
chiến tranh kéo dài, đất nước bị chia 
cắt, vươn lên sánh vai cùng các quốc 
gia phát triển đương thời. Đồng thời, 
những chính sách đó chứng tỏ ông có 
hoài bão xây dựng một nền học thuật, 
giáo dục đậm đà bản sắc dân tộc, nâng 
cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân 
dân. Đây là một nét nổi bật thể hiện 
tầm nhìn chiến lược của Quang Trung 
nói riêng và của vương triều Tây Sơn 
nói chung. 
2.3.3. Đoàn kết và chia rẽ trong nội 
bộ của phong trào 
Ngay từ buổi đầu, khi địa bàn hoạt 
động mới chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp 
của miền núi rừng Quy Nhơn, anh em 
Tây Sơn đã khôn khéo đề ra được sách 
lược thích hợp để tập hợp lực lượng, thu 
hút quần chúng nhân dân tham gia. 
Nguyễn Nhạc nhiều lần đến các vùng 
đất Tây Nguyên, danh nghĩa là buôn 
trầu, mua gỗ, mua ngựa nhưng thực 
chất là tìm cách liên kết với cộng đồng 
dân tộc ở đây, trong đó có người Ba-na, 
vận động họ tham gia ủng hộ mình. Với 
sự khôn khéo và thân thiện, Nguyễn 
Nhạc và những người em của mình đã 
chiếm được tình cảm quý mến của 
người dân Tây Nguyên, họ gọi ông là 
Tơ Mo Bok (vua Trời, người Trời), 
tham gia tích cực vào lực lượng của Tây 
Sơn chống chính quyền họ Nguyễn “lực 
lượng ở giai đoạn đầu của cuộc khởi 
nghĩa có đông đảo người miền núi [] 
trong các lực lượng của các dân tộc anh 
em, trước hết phải kể đến người Ba-na, 
người Hơ-rê, người Chăm” [5, tr. 143]. 
Đồng thời, phong trào còn có sự tham 
gia của những thổ hào như Nguyễn 
Thung, lôi cuốn cả người Hoa như Tập 
Đình, Lý Tài tích cực hưởng ứng. Năm 
1786, khi tiến quân ra Đàng Ngoài, Tây 
Sơn luôn nhận được sự ủng hộ đồng 
tình của quần chúng nhân dân, phát huy 
tinh thần đoàn kết của cả một dân tộc, 
phát huy sức mạnh của phong trào Tây 
Sơn và quân đội Tây Sơn. 
Sự đoàn kết của ba anh em nhà Tây 
Sơn và đông đảo quần chúng nhân dân 
tạo nên sức mạnh, giúp phong trào vượt 
qua những khó khăn buổi đầu, ngày 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
101 
càng phát triển về lực lượng và mở rộng 
phạm vi hoạt động. 
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo 
phong trào, tình hình nội bộ Tây Sơn 
cũng có nhiều bất ổn. Nội bộ lục đục, 
mâu thuẫn nảy sinh từ sau khi Nguyễn 
Huệ từ Bắc hà trở về, gây ra những 
tổn thất to lớn đối với sự thống nhất 
lực lượng của phong trào Tây Sơn và 
sự phát triển của vương triều Tây Sơn 
sau này. 
Sử sách không ghi chép thật rõ ràng 
về nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh em 
Tây Sơn. Nhưng xích mích, mâu thuẫn 
giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ là 
có thật, thậm chí 2 người đã sử dụng 
đến quân sự “dùng binh lực đánh lẫn 
nhau” [1, tr. 979], “Trước kia, Văn Huệ 
và Văn Nhạc dấy quân đánh nhau” [1, 
tr. 979]. Nguyên nhân của sự bất hòa 
này có lẽ bắt đầu từ lúc Nguyễn Huệ 
đem quân ra Bắc hà, bởi vì chủ trương 
của Nguyễn Nhạc là tập trung tiêu 
diệt chúa Nguyễn, giữ hòa bình với Bắc 
Hà, nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem 
quân Bắc tiến là đi ngược lại ý của 
Nguyễn Nhạc. Mặt khác, Nguyễn Nhạc 
không yên tâm với sự phát triển thế lực 
riêng của Nguyễn Huệ, sợ rằng Nguyễn 
Huệ sẽ vượt quyền mình, sợ rằng không 
kiềm chế được Nguyễn Huệ “quyền làm 
vua đối với bề tôi đã bị xem khinh” [6], 
“sau khi Văn Huệ đã lấy được Thuận 
Hóa, đưa thư về nói tiến thẳng quân ra 
để lấy Thăng Long. Văn Nhạc được 
nhận thư, không bằng lòng, sai người 
ngăn lại, nhưng không kịp. Đến lúc Văn 
Huệ đã lấy được Thăng Long. Văn 
Nhạc biết tin sợ lắm. Nhạc cho là vội 
vàng đem quân vào sâu như thế tất 
nhiên khó giữ được lâu. Hơn nữa Văn 
Nhạc nhận thấy Văn Huệ vốn là người 
giảo hoạt, hung tợn, nếu đắc chí, tất 
nhiên sẽ giữ lấy một nước để tự lo toan, 
rồi dần dà khó mà kiềm chế được” [1, 
tr. 969 - 970]. Mâu thuẫn giữa hai anh 
em Tây Sơn lớn tới mức hai bên đánh 
nhau kịch liệt: “Ông Huệ truy kích. Ông 
Nhạc rút quân vào thành Quy Nhơn, cố 
thủ. Ông Huệ công vi cả tháng mà 
không hạ nổi thành, bèn đánh chiếm núi 
Long Cốt, rồi kê súng đại bác trên núi 
bắn vào thành. Những nơi hiểm yếu 
trong thành bị phá” [6]. 
Mâu thuẫn và bất hòa của hai anh 
em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ làm 
cho hòa khí trong nội bộ Tây Sơn bị 
ảnh hưởng, tình cảm anh em rạn nứt, 
lực lượng Tây Sơn bị phân hóa: 
Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương 
Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn, 
Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Lữ làm 
Đông Định Vương, cai quản vùng đất 
Gia Định, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn 
Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản 
vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc. 
Một trong những đóng góp của phong 
trào Tây Sơn là xóa bỏ tình trạng chia 
cắt, thống nhất đất nước. Nhưng nay, 
khi phong trào giành được thắng lợi, 
đất nước lại bị chia làm ba chính quyền 
khác nhau, tiếp tục đi vào con đường 
phong kiến hóa. 
Hậu quả tai hại nhất của việc bất 
hòa giữa anh em Tây Sơn là bị kẻ địch 
từ hai phía tận dụng. Sau ba năm lưu 
vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra cơ 
hội trở về nước vào tháng 8 năm 1787 
và đã tập hợp lực lượng. Nguyễn Lữ 
nghe tin Nguyễn Ánh trở về, vội vã 
tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm 
Văn Tham giữ. Nhận thấy quân Nguyễn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
102 
Ánh ngày càng mạnh, Nguyễn Lữ sợ 
hãi mang quân rút chạy về Quy Nhơn, 
quân Tây Sơn đã mỏng lại càng mỏng. 
Phạm Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến 
đấu. Thế cùng sức kiệt, đầu năm 1789 
Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây 
chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn 
nên buộc phải đầu hàng. Nguyễn Ánh 
dẹp yên đất Gia Định. 
Ở Bắc Hà, tình hình rối loạn, từ 
Nguyễn Hữu Chỉnh đến Vũ Văn Nhậm 
đều chuyên quyền, có ý chống lại 
vương triều Tây Sơn. Quang Trung đem 
quân ra Bắc tiêu diệt Chỉnh, Nhậm, tổ 
chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa 
các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì 
Ngậm, Phan Huy Ích ra đảm đương 
công việc, Nguyễn Huệ rút quân về Phú 
Xuân. Sau khi ổn định tình hình Bắc hà, 
Quang Trung tích cực chuẩn bị lực 
lượng đem quân vào Nam đánh Gia 
Định, nhưng năm 1792 ông qua đời, 
con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ 
tuổi lên nối ngôi, nhà Tây Sơn nhanh 
chóng suy yếu. Sự ra đi của Quang 
Trung làm cho nội bộ hàng ngũ tướng 
lĩnh Tây Sơn ngày càng rạn nứt nghiêm 
trọng, Trần Quang Diệu bất hòa với Vũ 
Văn Dũng, Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc 
Tuyên và Ngô Văn Sở, các đại thần giết 
hại lẫn nhau. Quang Toản nghi ngờ giết 
hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến 
cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều 
người sang hàng Nguyễn Ánh. Nhân cơ 
hội nội bộ Tây Sơn suy yếu, Nguyễn 
Ánh tiến hành những cuộc phản công: 
năm 1801, Nguyễn Ánh đánh thẳng ra 
Phú Xuân, Quang Toản phải chạy ra 
Bắc hà; năm 1802, Nguyễn Ánh huy 
động nhiều cánh quân thủy – bộ tiến ra 
Bắc, lần lượt chiếm vùng đất từ Quảng 
Trị đến Nam Định rồi tiến thẳng về 
Thăng Long. Quang Toản không cự 
chống nổi, vượt sông Nhị chạy lên mạn 
Bắc Giang và bị bắt, chấm dứt vương 
triều Tây Sơn. 
Sự bất hòa trong nội bộ anh em 
Nguyễn Huệ và trong tướng lĩnh Tây 
Sơn cùng sự bất lực của Nguyễn Lữ 
đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở 
lại Gia Định. Mặt khác, cái chết đột 
ngột của Nguyễn Huệ là một tổn thất 
lớn đối với phong trào Tây Sơn, là cơ 
hội để Nguyễn Ánh khôi phục quyền 
lực nhà Nguyễn. 
Đoàn kết tạo nên sức mạnh, mất 
đoàn kết làm cho nội bộ chia rẽ. Buổi 
đầu, phong trào Tây Sơn có được sức 
mạnh của đoàn kết, sức mạnh giúp họ 
từ căn cứ Tây Sơn phát triển rộng ra 
quy mô cả nước, đưa cuộc phong trào 
nông dân Tây Sơn lên những tầm cao 
mới, giành những thắng lợi mới. Nhưng 
sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ 
Tây Sơn đã tạo điều kiện cho Nguyễn 
Ánh trở về, chiếm lại vùng đất Gia Định 
và lật đổ vương triều Tây Sơn, thành 
lập triều Nguyễn. 
3. Kết luận 
Phong trào Tây Sơn mang những 
nét đặc trưng riêng, được đánh giá là 
một trong những phong trào nông dân 
tiêu biểu và điển hình của phong trào 
nông dân trong lịch sử phong kiến Việt 
Nam. Nhờ tinh thần đoàn kết, phong 
trào liên tiếp giành được những thắng 
lợi lớn, không ngừng phát triển về quy 
mô, giải quyết tốt vấn đề giai cấp – dân 
tộc. Thành quả lớn nhất của phong trào 
Tây Sơn là không những tiêu diệt các 
chính quyền phong kiến phản động Lê – 
Trịnh – Nguyễn, xóa bỏ tình trạng chia 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 
103 
cắt đất nước mà đã vượt ra khỏi phạm 
trù đấu tranh giai cấp, vươn lên đảm 
nhiệm vai trò chống ngoại xâm, bảo vệ 
độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, việc giữ 
gìn và phát huy văn hóa truyền thống 
văn hóa của dân tộc luôn là mục tiêu 
của Tây Sơn dù là đang chiến đấu cho 
sự nghiệp thống nhất tổ quốc hay ở thời 
kỳ hòa bình xây dựng, củng cố độc lập 
nền dân tộc. Những chính sách tiến bộ 
và hợp thời của Quang Trung và vương 
triều Tây Sơn giúp Đại Việt có những 
bước chuyển mình sau hơn hai thập kỷ 
bị chia cắt và bước đầu đạt được một số 
thành tựu trên các lĩnh vực. Mặc dù 
không thể giành được thắng lợi cuối 
cùng, không giữ được thành quả đấu 
tranh do sự chia rẽ, mất đoàn kết giữa 
anh em Nguyễn Huệ và các quan lại, 
nhưng những đóng góp của phong trào 
nông dân Tây Sơn là không thể phủ 
nhận và Tây Sơn – Nguyễn Huệ mãi là 
niềm tự hào của mỗi người dân Việt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (bản điện tử) (2001), Khâm Định Việt Sử Thông 
Giám Cương Mục, Nxb Giáo dục, Hà Nội 
2. Trương Hữu Quýnh (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb Giáo 
dục, Hà Nội 
3. Nguyễn Phan Quang (2000), Phong trào Tây Sơn và cải cách Quang Trung, 
Giáo trình lưu hành nội bộ 
4. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự 
của Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 
5. Ty Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình (1978), Tây Sơn Nguyễn Huệ, Kỷ yếu hội 
nghị nghiên cứu phong trào nông dân Tây Sơn 
6. Quách Tấn – Quách Giao (2004), Nhà Tây Sơn, 
https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nmnmn4n31n343tq83a
3q3m3237nvn, (6/9/2018) 
SOME CHARACTERISTICS OF TAY SON MOVEMENT 
IN THE 18
th 
CENTURY 
ABSTRACT 
In Vietnamese feudal history, the 18
th
 century was a period of peasant war that 
culminated in Tay Son movement. Under the leadership of the three Tay Son 
brothers, the movement in Tay Son has evolved into a socialist movement of the 
whole nation, which is the struggle of farmers in the 18
th
 century. The article aims to 
understand some characteristics of Tay Son movement, thereby seeing the 
characteristics of the movement, at the same time seeing certain contributions of the 
movement to the unification and defense of the country‘s national independence. 
Keywords: Tay Son movement, characteristics 
(Received: 2/1/2019, Revised: 25/2/2019, Accepted for publication: 19/3/2019) 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_dac_trung_cua_phong_trao_tay_son_the_ky_xviii.pdf