Một số đề xuất thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học

Tóm tắt

Đảm bảo chất lượng là sựchú ý liên tục, có hệ thống, có cấu trúc đến chất lượng trong việc duy trì

và nâng cao chất lượng.Hệ thống đảm bảo chất lượng bao gồm 02 yếu tố: Đảm bảo chất lượng bên

trong và đảm bảo chất lượng bên ngoài.Đảm bảo chất lượng bên ngoài đề cập đến hệ thống đảm bảo

chất lượng được vận hành bởi các tổ chức ở bên ngoài các cơ sở giáo dục (ví dụ như các tổ chức chính

phủ hoặc các cơ quan kiểm định).Đảm bảo chất lượng bên trong đề cập đến hệ thống đảm bảo chất

lượng được thiết lập và vận hành bởi chính các cơ sở giáo dục đại học.Nói cách khác, cơ sở giáo dục

đại học đóng vai trò chính trong hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong. Để xây dựng hệ thống đảm

bảo chất lượng bên trong, mỗi cơ sở giáo dục đại học cầntuyên bố mục tiêu chất lượng, lựa chọn các

chỉ số thực hiện/hoạt động; bổ sung mục tiêu chất lượng và chỉ số hoạt động bên ngoài; lựa chọn các

công cụ mà cơ sở giáo dục đại học sử dụng để thu thập thông tin và xác định các đơn vị đo lường; xây

dựng các kết quả mục tiêu; lập kế hoạch thực hiện cho hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong;mô tả

mỗi hành động sẽ được thực hiện, ai chịu trách nhiệm, đo lường cái gì; đo lường, phân tích kết quả

và đề xuất điều chỉnh nếu cần thiết; thường xuyên xem xét lại hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong.

pdf 8 trang yennguyen 4160
Bạn đang xem tài liệu "Một số đề xuất thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đề xuất thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học

Một số đề xuất thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
98 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
 Đặt vấn đề
Chất lượng là yếu tố cốt lõi tạo ra sự phát 
triển bền vững cho tất cả các tổ chức giáo 
dục đại học. Tất cả các hoạt động của tổ chức 
giáo dục đại học cuối cùng cũng là nhằm để 
đào tạo sinh viên có kiến thức và kỹ năng 
Tóm tắt 
Đảm bảo chất lượng là sựchú ý liên tục, có hệ thống, có cấu trúc đến chất lượng trong việc duy trì 
và nâng cao chất lượng.Hệ thống đảm bảo chất lượng bao gồm 02 yếu tố: Đảm bảo chất lượng bên 
trong và đảm bảo chất lượng bên ngoài.Đảm bảo chất lượng bên ngoài đề cập đến hệ thống đảm bảo 
chất lượng được vận hành bởi các tổ chức ở bên ngoài các cơ sở giáo dục (ví dụ như các tổ chức chính 
phủ hoặc các cơ quan kiểm định).Đảm bảo chất lượng bên trong đề cập đến hệ thống đảm bảo chất 
lượng được thiết lập và vận hành bởi chính các cơ sở giáo dục đại học.Nói cách khác, cơ sở giáo dục 
đại học đóng vai trò chính trong hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong. Để xây dựng hệ thống đảm 
bảo chất lượng bên trong, mỗi cơ sở giáo dục đại học cầntuyên bố mục tiêu chất lượng, lựa chọn các 
chỉ số thực hiện/hoạt động; bổ sung mục tiêu chất lượng và chỉ số hoạt động bên ngoài; lựa chọn các 
công cụ mà cơ sở giáo dục đại học sử dụng để thu thập thông tin và xác định các đơn vị đo lường; xây 
dựng các kết quả mục tiêu; lập kế hoạch thực hiện cho hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong;mô tả 
mỗi hành động sẽ được thực hiện, ai chịu trách nhiệm, đo lường cái gì; đo lường, phân tích kết quả 
và đề xuất điều chỉnh nếu cần thiết; thường xuyên xem xét lại hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong.
Từ khóa: dđảm bảo chất lượng bên trong, IQA.
Mã số: 170.210815. Ngày nhận bài: 21/08/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 23/10/2015. Ngày duyệt đăng: 23/10/2015.
Summary 
 Quality assurance improves quality in training and educating continuously, systematically. 
Quality assurance system includes 2 sub-systems: (1) internal quality assurance, and (2) external 
quality assurance. While external quality assurance refers to quality assurance which is operated 
by external quality agencies such as ministry of education, accreditation agencies, internal 
quality assurance (IQA) implement quality assurance mechanisms in higher education institutions 
(HEIs); on the other word, HEIs play the most important role in IQA. To establish IQA, each HEIs 
should signify quality objectives; select operational index; choose tools for collecting feedback from 
stakeholders such as students, alumni, employers; create objectives; plan; allocate resource; 
measure, analyze information and recommend to improve quality continuously in HEIs.
Key words: Quality assurance, Internal Quality Assurance. 
Paper No.170.210815. Date of receipt: 21/08/2015. Date of revision: 23/10/2015. Date of approval: 23/10/2015.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THIẾT LẬP HỆ THỐNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG 
BÊN TRONG CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC1
Võ Sỹ Mạnh* 
Nguyễn Thế Anh**
1 Bài viết trong khuôn khổ đề tài NCKH cấp trường năm 2014 “Xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong 
tại trường Đại học Ngoại thương”
* ThS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: manhvs@ftu.edu.vn
** ThS. Trường Đại học Ngoại thương
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
99Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực 
sẵn có.
Đảm bảo chất lượng là một hoạt động 
thường xuyên, liên tục của các tổ chức giáo 
dục đại học. Vì vậy, hoạt động này phải được 
thực hiện bởi các đơn vị chuyên môn để không 
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, nghiên 
cứu khoa học, hợp tác quốc tế ... của các tổ 
chức giáo dục đại học. Trong những năm gần 
đây, để đảm bảo chất lượng của các cơ sở giáo 
dục đại học, theo hướng dẫn của Cục Khảo 
thí và Chất lượng giáo dục, Bộ GD & ĐT, các 
đơn vị chuyên môn đã tích cực triển khai một 
số hoạt động lớn như hướng dẫn sinh viên 
đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên, 
tự đánh giá chất lượng giáo dục của cơ sở giáo 
dục đại học trong việc đánh giá các tiêu chuẩn 
chất lượng giáo dục đại học kèm theo Quyết 
định số 65/2007/QĐ-BGDĐT .
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, các 
hoạt động đảm bảo chất lượng trong các cơ sở 
giáo dục đại học còn khá khiêm tốn, chủ yếu 
theo hướng “đánh giá bên ngoài” chứ không 
tập trung vào việc hình thành hệ thống đảm 
bảo chất lượng bên trong. Vậy, đảm bảo chất 
lượng bên trong là gì? Các cấp độ của hệ thống 
đảm bảo chất lượng bên trong là gì? Làm thế 
nào để thiết lập một hệ thống đảm bảo chất 
lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học? Bài 
viết này sẽ góp phần trả lời các câu hỏi đó.
Đảm bảo chất lượng bên trong (IQA) là gì?
Đảm bảo chất lượng hiện nay là một thuật 
ngữ thông dụng đối với các nhà hoạch định 
chính sách giáo dục đại học. Ngay từ đầu, nó 
đã là một chủ đề trong tiến trình Bologna – 
một tiến trình với mục đích tạo ra khu vực giáo 
dục đại hoc châu Âu vào năm 2010, nơi sinh 
viên tha hồ lựa chọn từ những môn học đầy 
đủ thông tin và chất lượng cao và được hưởng 
những thủ tục công nhận dễ dàng; và đã trở 
nên quan trọng trong những năm qua, được đề 
cập rất cụ thể trong Thông cáo Bergen (2005)2 
và tiếp tục phát triển trong các tài liệu “Các 
tiêu chuẩn và hướng dẫn đảm bảo chất lượng 
trong giáo dục đại học khu vực châu Âu”3 của 
Hiệp hội về đảm bảo chất lượng trong giáo 
dục đại học khu vực châu Âu (ENQA), cũng 
được thông qua tại Bergen. Có rất nhiều tổ 
chức bằng cách này hay cách khác nghiên cứu 
và tìm hiểu về đảm bảo chất lượng và đã có 
các chuyên gia nghiên cứu riêng và thuật ngữ 
chuyên môn riêng biệt về đảm bảo chất lượng.
Đảm bảo chất lượng là sự cải tiến liên tục, 
có hệ thống, có cấu trúc đến chất lượng trong 
việc duy trì và nâng cao chất lượng. Hệ thống 
đảm bảo chất lượng bao gồm 02 yếu tố: Đảm 
bảo chất lượng bên trong và đảm bảo chất 
lượng bên ngoài.
Nếu đảm bảo chất lượng bên ngoài đề cập 
đến hệ thống đảm bảo chất lượng được vận 
hành bởi các tổ chức ở bên ngoài các cơ sở giáo 
dục (ví dụ như các tổ chức chính phủ hoặc các 
cơ quan kiểm định), thì đảm bảo chất lượng 
bên trong đề cập đến hệ thống đảm bảo chất 
lượng được thiết lập và vận hành bởi chính 
các cơ sở giáo dục đại học. Nói cách khác, cơ 
sở giáo dục đại học đóng vai trò chính trong 
hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong. Đảm 
bảo chất lượng bên trong và bên ngoài có thể 
được ví như hai mặt của một đồng xu bởi vì 
các hoạt động không thể tách rời nhau: bạn 
không thể có mặt này mà không có mặt kia.
2 Xem chi tiết tại www.bologna-bergen2005.no/Docs/00-Main_doc/050520_Bergen_Communique.pdf 
3 Xem chi tiết tại www.enqa.eu/files/BergenReport210205.pdf
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
100 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
Các cấp độ của hệ thống đảm bảo chất 
lượng bên trong
Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong có 
thể được xây dựng theo bốn cấp độ khác nhau: 
chất lượng của sản phẩm, quá trình, tổ chức 
hay chính chất lượng của hệ thống đảm bảo 
chất lượng (xem Hình 1).
Sản phẩm
Quá trình (dạy 
và học)
Tổ chức
Hệ thống 
ĐBCL
Nguồn: Boele, E.B (2007). 
Hình 1: Các cấp độ của hệ thống đảm bảo 
chất lượng bên trong
Bốn cấp độ có thể được thể hiện trong một 
mô hình vòng tròn đồng tâm. Trung tâm của 
vòng tròn này chính là sản phẩm. Chất lượng 
cuối cùng của một cơ sở giáo dục đại học nằm 
trong sản phẩm của mình ví dụ như các nhà 
kinh tế, doanh nhân, các quan chức chính 
phủ, giảng viên ... Để đảm bảo có sản phẩm 
cuối cùng đó, quá trình dạy và học được thực 
hiện. Đây là cấp độ thứ hai của mô hình. Các 
quá trình học tập và giảng dạy được thực hiện 
trong một tổ chức, chính là cấp độ thứ ba của 
mô hình. Ở cấp độ thứ tư là các hệ thống được 
đặt ra để đảm bảo chất lượng của sản phẩm, 
các quá trình và tổ chức. Như vậy, mô hình 
bao gồm hai cách tiếp cận chính nhìn vào chất 
lượng: một cách tiếp cận tập trung vào chất 
lượng đầu ra và một cách tiếp cận tập trung 
vào chất lượng của các quá trình - đầu ra của 
sản phẩm nằm ở ngay trung tâm, và tầm quan 
trọng đi từ đầu ra đến quá trình và đến các cấp 
độ khác xa trung tâm hơn.
Trong hệ thống đảm bảo chất lượng bên 
trong, sản phẩm là trung tâm bởi vì sản phẩm 
vẫn chính là mục tiêu cuối cùng của mỗi cơ sở 
giáo dục đại học. Quá trình dạy và học có thể 
là một vấn đề quan trọng nhưng mục đích cuối 
cùng vẫn là sản phẩm mà cơ sở giáo dục đại 
học tạo ra. Như trong bất kỳ tổ chức nào, sản 
phẩm cuối cùng là kết quả của một quá trình. 
Sinh viên học theo nhiều cách khác nhau, được 
kích thích bởi việc giảng dạy của các giảng 
viên, bằng cách hợp tác và cạnh tranh với các 
sinh viên khác, bằng kinh nghiệm bên ngoài 
môi trường học tập, vv. Ngày nay, không phải 
là hiếm khi người ta không chỉ tập trung vào 
chất lượng của sản phẩm cuối cùng, mà còn 
tập trung vào chất lượng của quá trình dạy và 
học để tạo ra sản phẩm này. Nếu một cơ sở 
giáo dục đại học muốn hệ thống đảm bảo chất 
lượng bên trong của mình không chỉ để giám 
sát chất lượng của sản phẩm mà còn giám sát 
chất lượng của quá trình dạy và học, điều quan 
trọng là cơ sở đó phải chọn ra được yếu tố nào 
cần được giám sát. 
Ngoài ra, tổ chức không bao giờ là mục 
tiêu của chính nó nhưng có ý nghĩa là để thúc 
đẩy việc thực hiện đúng đắn các quy trình dạy 
và học để đem lại chất lượng cao nhất cho 
sản phẩm cuối cùng. Trong nhiều hệ thống 
đảm bảo chất lượng bên trong, không chỉ chất 
lượng của sản phẩm mà các quá trình tạo ra 
sản phẩm đều được giám sát. 
Khi xem xét một cơ sở giáo dục đại học, 
có thể thấy:
- Trung tâm của tổ chức là các quá trình căn 
bản. Về cơ bản trong một vài trường hợp, các 
quá trình căn bản là quá trình “dạy và học» – 
quá trình tạo ra sản phẩm.
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
101Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
- Các yếu tố hỗ trợ cho quá trình căn bản 
là chính sách/chiến lược, cán bộ/nhân viên, và 
các nguồn lực;
- Toàn bộ được điều hành bởi lãnh đạo.
Con người 
 (Cán bộ/ 
nhân viên)
Lãnh 
đạo
Các 
quá 
trình 
(tạo 
ra sản 
phẩm)
Hợp tác và các 
nguồn lực
Chính sách 
chiến lược
Hình 2: Cấu trúc của một cơ sở giáo dục đại 
học
Cuối cùng, “cấp độ trên” của hệ thống đảm 
bảo chất lượng bên trong chính là hệ thống 
đảm bảo chất lượng trong đó không phải là 
chất lượng của sản phẩm, quá trình hay tổ 
chức được giám sát, mà chỉ có chất lượng của 
hệ thống tự đảm bảo chất lượng. 
Làm thế nào để thiết lập một hệ thống 
đảm bảo chất lượng nội bộ trong các tổ 
chức giáo dục đại học?
Theo quy định của Luật giáo dục đại học 
năm 2012, các tổ chức giáo dục đại học có 
trách nhiệm duy trì và phát triển các điều kiện 
đảm bảo chất lượng đào tạo, bao gồm:
- Giảng viên, nhân viên hành chính;
- Chương trình đào tạo, giáo trình, tài liệu 
giảng dạy và học tập;
- Phòng học, văn phòng, thư viện, hệ thống 
công nghệ thông tin, phòng thí nghiệm, cơ sở 
thực hành, ký túc xá và các cơ sở khác ;
- Các nguồn lực tài chính.
Bên cạnh đó, các tổ chức giáo dục đại học 
phải tiến hành công tác tự đánh giá 5 năm 
một lần theo quy định của Thông tư 62/2012/
TT-BGDĐT ngày 28/12/2012 và theo các 
tiêu chuẩn đánh giá quy định tại Quyết định 
65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 1/11/2007 của 
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban hành tiêu 
chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học. Vì 
vậy, hơn bao giờ hết, các cơ sở giáo dục đại 
học cần thiết lập, xây dựng hệ thống đảm bảo 
chất lượng bên trong đáp ứng yêu cầu nâng 
cao và đảm bảo chất lượng đào tạo.
Theo Vroeijenstijin (1995), để đảm bảo 
chất lượng, các trường đại học cần phải thiết 
lập hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong đáp 
ứng các yêu cầu cơ bản về giám sát, đánh giá 
và cải tiến chất lượng. Ít nhất, trong hệ thống 
đảm bảo chất lượng bên trong phải có các 
thành tố của vòng trong Deming, đó là: Vạch 
kế hoạch; Thực hiện; Kiểm tra và Hành động 
(P-D-C-A). Trên cơ sở vòng trong P-D-C-A, 
Vroeijenstijin (1995) cho rằng hệ thống đảm 
bảo chất lượng bên trong cần có các thành tố 
sau: Mục tiêu của tổ chức; các công cụ giám 
sát; các công cụ đánh giá; cải tiến chất lượng. 
Trong phạm vi bài viết này, từ thực tiễn 
triển khai công tác đảm bảo chất lượng, người 
viết cho rằng việc thiết lập một hệ thống đảm 
bảo chất lượng nội bộ dựa trên mô hình PDCA 
cần đảm bảo các nội dung sau:
Thứ nhất, tuyên bố mục tiêu chất lượng: 
lựa chọn các yếu tố mà cơ sở giáo dục đại 
học cần có thông tin để xem xét chất lượng
Bước đầu tiên là phải cẩn thận chọn ra 
những yếu tố mà cơ sở giáo dục muốn có 
thông tin để xem xét chất lượng.
Như đề cập đến ở trên, cơ sở giáo dục có 
thể bắt đầu xem xét liệu có muốn giám sát 
chất lượng ở cấp độ sản phẩm, quá trình hay 
tổ chức. Các lựa chọn ở đây không ngoại lệ và 
sẽ rất tốt nếu kết hợp các yếu tố này với nhau. 
Chẳng hạn, có thể chọn ra các yếu tố sau:
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
102 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
Về sản phẩm:
- Chất lượng của thi kết thúc học phần;
- Sự tiến bộ của sinh viên;
- Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp;
- Số các công trình nghiên cứu khoa học.
Về quá trình:
- Chất lượng của việc đánh giá/thẩm định, 
đặc biệt trong các lĩnh vực cốt lõi (đào tạo, 
nghiên cứu khoa học);
- Chất lượng giảng dạy và học tập;
- Chất lượng môi trường học tập, đặc biệt là 
phòng học, thiết bị giảng dạy và học tập v.v..;
- Chất lượng nghiên cứu khoa học.
Tổ chức:
- Chất lượng của lãnh đạo;
- Chất lượng của đội ngũ giảng viên, nhân 
viên hành chính.
Thứ hai, lựa chọn các chỉ số thực hiện/
hoạt động: “các số liệu thực tế” và “tuyên bố 
sự hài lòng” cần thiết để có được thông tin về 
chất lượng
Số liệu thực tế có thể là về tài chính hoặc 
về các hoạt động cốt lõi của cơ sở giáo dục dại 
học. Ví dụ, các kết quả tài chính có thể là khả 
năng thanh khoản, tổng ngân sách hàng năm, 
chi phí cho mỗi sinh viên, chi phí cho mỗi 
giảng viên toàn thời gian, tổng chi phí cho mỗi 
tín chỉ thực hiện v.v. Các kết quả hoạt động 
cốt lõi, ví dụ có thể là số lượng sinh viên đăng 
ký, số lượng sinh viên mới nhập học, tỷ lệ phần 
trăm sinh viên thi trượt trong suốt khóa học, tỷ 
lệ phần trăm sinh viên thi trượt trong năm đầu 
tiên, thời gian học tập trung bình v.v.
Tuyên bố sự hài lòng, mặt khác, có liên 
quan đến (nhóm) các cá nhân thể hiện mức 
độ hài lòng với chất lượng được cung cấp bởi 
cơ sở giáo dục đại học. Ví dụ điển hình là: 
Người sử dụng lao động chỉ ra sự hài lòng 
với chất lượng của sinh viên tốt nghiệp (sản 
phẩm); sinh viên chỉ ra sự hài lòng với hoạt 
động kiểm tra thông qua các chương trình đào 
tạo (quá trình); giảng viên chỉ ra sự không hài 
lòng với lớp học và các trang thiết bị phục vụ 
sẵn có (tổ chức), hoặc các nhà sử dụng lao 
động từ các ngành nghề chuyên môn chỉ ra 
rằng chương trình đào tạo không trang bị đủ 
trình độ chuyên môn, nghề nghiệp tương lai 
cho sinh viên (sản phẩm).
Nói một cách khác, số liệu thực tế và tuyên 
bố sự hài lòng có thể có ảnh hưởng trong mối 
quan hệ với mục tiêu chất lượng của cơ sở 
giáo dục đại học như «các chỉ số thực hiện» 
chỉ ra cơ sở đang hoạt động như thế nào. Cơ 
sở giáo dục đại học có thể chọn một hoặc một 
số chỉ số thực hiện cho tất cả các mục tiêu 
chất lượng mà họ đã xây dựng. Đối với tất cả 
các chỉ số thực hiện, cơ sở giáo dục cần tiến 
hành xác định công cụ đo lường mà cơ sở sẽ 
sử dụng để đo lường và đơn vị đo lường. Sau 
đó, cơ sở giáo dục đại học cần chỉ ra kết quả 
mục tiêu, đo lường kết quả thực tế và sau khi 
so sánh hai kết quả này chính bản thân cơ sở 
sẽ rút ra kết luận và thực hiện. Trong vòng 
tròn PDCA, triển khai các chỉ số thực hiện, 
kết quả mục tiêu và kết quả thực tế đặc biệt 
phù hợp trong giai đoạn kiểm tra và chắc chắn 
rằng một yếu tố có thể phù hợp dựa trên cơ sở 
thực tế đáng tin cậy.
Thứ ba, bổ sung mục tiêu chất lượng và 
chỉ số hoạt động bên ngoài: cái gì cần thực 
hiện vì có thể có các nhu cầu từ bên ngoài cơ 
sở giáo dục đại học quan tâm đến hệ thống 
đảm bảo chất lượng bên trong của cơ sở
Đến giai đoạn này, cơ sở giáo dục đại học 
đã quan tâm đến mục tiêu chất lượng quan 
trọng của cơ sở và các chỉ số hoạt động để 
giám sát. Tất nhiên, đảm bảo chất lượng bên 
trong ở hầu hết các cơ sở giáo dục đại học 
không phải là hoàn toàn tự định hướng. Các 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
103Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
“tổ chức bên ngoài» thường xuyên yêu cầu 
giám sát chất lượng. Tổ chức bên ngoài như 
vậy có thể là chính phủ, khi kiểm định trường, 
sẽ xem xét hệ thống đảm bảo chất lượng bên 
trong và có thể yêu cầu cụ thể một số yếu tố 
nhất định. Chẳng hạn, các tiêu chuẩn tự đánh 
giá về chất lượng giáo dục đại học trong các 
trường đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban 
hành năm 2007 (Quyết định số 65/2007/QĐ-
BGDĐT) chính là những “yêu cầu tối thiểu” 
mà cơ sở giáo dục đại học cần đảm bảo để 
được công nhận là có chất lượng.
Một ví dụ khác là các tiêu chuẩn và hướng 
dẫn đảm bảo chất lượng trong khu vực giáo 
dục đại học châu Âu, được thông qua bởi các 
Bộ trưởng giáo dục châu Âu năm 2005. Mặc 
dù tài liệu này mang tính khu vực châu Âu, 
nhưng nó không phải là sự bắt buộc như luật 
pháp mà chỉ là sự đề xuất vì họ hy vọng rằng 
ở một số quốc gia nhất định, các trường đại 
học sẽ có nhu cầu thực hiện theo bộ tiêu chuẩn 
này. Nếu vậy, cơ sở giáo dục đại học sẽ phải 
thực hiện xem xét các yếu tố sau:
- Sự tiến bộ của sinh viên và tỷ lệ thành công;
- Việc làm của sinh viên tốt nghiệp;
- Sự hài lòng của sinh viên với các chương 
trình đào tạo;
- Hiệu quả của giảng viên;
- Hồ sơ sinh viên;
- Các nguồn lực sẵn có và chi phí.
Việc đưa những yếu tố này vào trong hệ 
thống đảm bảo chất lượng bên trong sẽ rất tốt. 
Nếu không thực hiện điều này, vào mỗi chu 
kỳ kiểm định các cơ sở giáo dục đại học sẽ lại 
phải bỏ ra rất nhiều nỗ lực để có thể “tạo ra” 
cùng một loại thông tin.
Thứ tư, chọn các công cụ mà cơ sở giáo 
dục đại học sử dụng để thu thập thông tin và 
xác định các đơn vị đo lường
Khi cơ sở giáo dục đã biết được đâu là số 
liệu thực tế và tuyên bố sự hài lòng, cơ sở giáo 
dục phải xác định làm thế nào để thu thập 
được những thông tin này và đơn vị đo lường 
sẽ là gì. Ví dụ: (Bảng 1)
Bảng 1: Các công cụ và đơn vị đo lường chất lượng các mục tiêu
Chất lượng các mục tiêu Công cụ Đơn vị đo lường
Quá trình
- Chất lượng của việc thẩm 
định/đánh giá
- Chất lượng của việc dạy 
và học
- Chất lượng của môi 
trường học tập
- Các câu hỏi về lĩnh vực 
chuyên môn
- Các câu hỏi về sinh viên
- Các câu hỏi về sinh viên
- Tỷ lệ % sự hài lòng về lĩnh vực 
chuyên môn
- Tỷ lệ % sự hài lòng của sinh viên
- Tỷ lệ % sự hài lòng của sinh viên
Tổ chức
- Chất lượng của lãnh đạo
- Chất lượng của đội ngũ 
giảng viên
- Tính theo đơn vị quảng 
cáo, tiếp thị
- Tính theo đội ngũ giảng 
viên
- Tổng số các mục trong bài báo 
khu vực/quốc gia.
- Tỷ lệ % giảng viên với chuyên 
môn của họ
Nguồn: tác giả tự tổng hợp
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
104 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
Thứ năm, xây dựng các kết quả mục tiêu
Cuối cùng cơ sở giáo dục đại học phải xây 
dựng kết quả mục tiêu cho các chỉ số hoạt 
động của cơ sở. Đây có thể là một điều khó. 
Đôi khi cơ sở giáo dục sẽ phải đảm bảo tính 
chính xác về mức độ trung bình những loại kết 
quả nào mà cơ sở muốn có được. Đôi khi nó là 
một cảm giác trực quan, có thể bởi kết quả so 
sánh các cơ sở giáo dục đại học bạn biết hoặc 
so sánh với cơ sở giáo dục nào đó được đánh 
giá cao. Chẳng hạn, cơ sở giáo dục đại học có 
thể đưa ra những kết quả mục tiêu bảng 2 sau:
Thứ sáu , lập kế hoạch thực hiện cho hệ 
thống đảm bảo chất lượng bên trong.
Một khi cơ sở giáo dục đại học đã chắc 
chắn những gì cơ sở muốn trong hệ thống 
đảm bảo chất lượng bên trong của mình và 
những gì các đối tượng liên quan muốn, hãy 
lập một kế hoạch thực hiện. Đừng cố gắng để 
thực hiện một hệ thống hoàn chỉnh ngay từ 
đầu trong vòng một năm. Nếu có nhiều thứ 
để làm ngay từ đầu, hãy lập kế hoạch cho vài 
năm nếu có thể. 
Thứ bảy, mô tả mỗi hành động sẽ được 
thực hiện, ai chịu trách nhiệm, đo lường như 
thế nào.
Một khi đã đạt đến bước này, cơ sở giáo 
dục có thể sẽ quên đi một bước mà có thể vô 
cùng có giá trị trong quá trình. Đối với các 
yếu tố trong hệ thống đảm bảo chất lượng bên 
trong của cơ sở giáo dục đại học, hãy mô tả có 
hệ thống: mục tiêu của cơ sở là gì, các chỉ số 
hoạt động của cơ sở, công cụ sử dụng để đo 
lường, kết quả mục tiêu là gì, mức độ thường 
xuyên sẽ đo lường, ai chịu trách nhiệm cho 
việc đo lường, các thủ tục bạn thực hiện theo 
để tạo cho PDCA một vòng tròn đầy đủ.
Thứ tám, đo lường, phân tích kết quả và 
đề xuất điều chỉnh nếu cần thiết, thực hiện 
điều chỉnh, đo lường lại vv. (thực hiện vòng 
tròn PDCA một cách đầy đủ).
Hệ thống của cơ sở giáo dục bây giờ đã 
hoàn thành và có minh chứng. Thực hiện 
những gì đã lên kế hoạch. Thu thập kết quả 
thực tế bằng cách đo lường, so sánh với kết 
quả mục tiêu của cơ sở, phân tích sự khác biệt 
và tìm kiếm các lý do có thể, tạo sự thích nghi, 
phù hợp trong chương trình đào tạo, nghiên 
Bảng 2: Ví dụ việc sử dụng các đơn vị đo lường và kết quả mục tiêu chất lượng các mục tiêu
Chất lượng các mục tiêu Các đơn vị đo lường Kết quả mục tiêu
Quá trình
- Chất lượng của việc thẩm định/
đánh giá
- Chất lượng của việc dạy và đào tạo
- Chất lượng của môi trường học tập
- Tỷ lệ % sự hài lòng về 
lĩnh vực chuyên môn
- Tỷ lệ % sự hài lòng của 
sinh viên
- Tỷ lệ % sự hài lòng của 
sinh viên
70%
80%
80%
Tổ chức
- Chất lượng của lãnh đạo
- Chất lượng của đội ngũ giảng viên
- Tổng số các mục trong bài 
báo khu vực/quốc gia.
- Tỷ lệ % giảng viên với 
chuyên môn của họ
- Khu vực: 2; quốc gia: 10
90%
Nguồn: tác giả tổng hợp
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
105Taïp chí KIN H TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
cứu khoa học hoặc tổ chức. Sau đó tập hợp 
kết quả mới, phân tích chúng để tìm ra liệu cơ 
sở đã đạt được tiến bộ khả quan. Nếu không, 
phân tích lại một cách cẩn thận, nếu cơ sở đã 
có sự tiến bộ, giám sát xem liệu cơ sở đã duy 
trì các tiêu chuẩn của mình hay chưa.
Cuối cùng, thường xuyên xem xét lại hệ 
thống đảm bảo chất lượng bên trong
Một hệ thống không có nghĩa là mãi mãi. 
Những gì thường sẽ tìm thấy, đó là một hệ 
thống bắt đầu rất cơ bản, nhưng sẽ phát triển 
rất nhanh vì thường xuyên việc phân tích các 
kết quả làm cho chính cơ sở giáo dục đại học 
cảm thấy cần các loại kết quả khác cũng để 
đưa ra các quyết định đúng đắn. Cơ sở có thể 
kết thúc với một hệ thống thu thập dữ liệu 
khổng lồ mà cuối cùng có thể làm cho khó 
khăn, hoặc thậm chí hầu như không thể, để 
giữ cho việc phân tích có chất lượng tốt nhằm 
thực hiện bất kỳ quyết định nào. Cơ sở có thể 
quyết định phân chia hệ thống đảm bảo chất 
lượng bên trong thành 02 phần: phần cơ bản 
là một tập hợp các phép đo cơ sở thực hiện, 
nhưng các phân tích thực tế sẽ tập trung nhấn 
mạnh vào những yếu tố mà cơ sở xem xét 
về tầm quan trọng chiến lược. Phần khác là 
ngừng việc đo lường ở tất cả những yếu tố mà 
cơ sở không xem là quan trọng nữa.
Kết luận
Điều quan trọng nhất cho mỗi cơ sở giáo 
dục đại học là luôn luôn duy trì chất lượng bên 
trong. Để làm được điều này, việc thiết lập, duy 
trì và củng cố hệ thống đảm bảo chất lượng bên 
trong là cần thiết. Quy trình đề xuất ở trên cho 
phép cơ sở giáo dục đại học xây dựng mục tiêu 
chất lượng và các chỉ số thực hiện, lựa chọn 
phương pháp và các đơn vị đo lường và xây 
dựng các kết quả mục tiêu, lên kế hoạch thực 
hiện và mô tả hệ thống, thực hiện hệ thống và 
cuối cùng sửa đổi hệ thống nếu cần thiết.q
Tài liệu tham khảo
1. Luật Giáo dục Đại học Việt Nam 2012
2. Quyết định số 65/ 2007/ QĐ-BGDĐT ngày 1/11/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về 
ban hành các tiêu chuẩn đánh giá trường đại học.
3. European Network for Quality Assurance in Higher Education (EQNA, 2008). Standard 
and guidelines for Quality Assurance in the European Higher Education Area.
4. Higher education Quality Assurance Principles for the Asia Pacific Region
5. International Network for Quality assurance agencies in higher education (INQAAHE, 
2007). Guidelines of good practice in quality assurance.
6. Nguyen Thi Thu Huong, 2013,Quality culture and internal quality assurance system in 
higher education - identifications and challenges in higher education renovation,2013 
AQANseminar and roundtable meeting, Ho chi minh City, Vietnam
7. ADDA, T. I.-U. C. f. E. A., 2010,Implementation of a Quality Assurance System, Vol. 4.
8. Boele, E.B, 2007,Handbook internal quality assurance in higher education, pp.52.
pdf
9. Martin, M. S., A., 2007,External quality assurance in higher education: making choices, 
Paris: United Nations.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_de_xuat_thiet_lap_he_thong_dam_bao_chat_luong_ben_tro.pdf