Một số góp ý hoàn thiện dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo

Tóm tắt: Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ban hành năm 2004 sau

hơn 10 năm có hiệu lực đã xuất hiện những bất cập và khoảng

trống pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lĩnh vực

tín ngưỡng, tôn giáo, do đó cần thiết phải xây dựng Luật Tín

ngưỡng, Tôn giáo. Qua nghiên cứu Dự thảo Luật (Dự thảo lần 5),

bài viết phân tích những hạn chế và đề xuất chỉnh sửa, bổ sung cho

phù hợp với tinh thần xây dựng Dự thảo Luật, cụ thể là các nội

dung như giải thích từ ngữ, bố cục Dự thảo Luật, quyền bày tỏ

niềm tin tôn giáo của những người bị hạn chế quyền công dân và

đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn (các biện pháp ngăn

chặn hành chính và các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình

sự), các hành vi bị nghiêm cấm, về quản lý nhà nước, đăng ký sinh

hoạt tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo, tổ chức cuộc lễ ngoài

cơ sở tôn giáo và kỹ thuật lập pháp.

pdf 11 trang yennguyen 5180
Bạn đang xem tài liệu "Một số góp ý hoàn thiện dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số góp ý hoàn thiện dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo

Một số góp ý hoàn thiện dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 117 
TRẦN QUỐC HUY 
MỘT SỐ GÓP Ý HOÀN THIỆN DỰ THẢO LUẬT 
TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO 
Tóm tắt: Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo ban hành năm 2004 sau 
hơn 10 năm có hiệu lực đã xuất hiện những bất cập và khoảng 
trống pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lĩnh vực 
tín ngưỡng, tôn giáo, do đó cần thiết phải xây dựng Luật Tín 
ngưỡng, Tôn giáo. Qua nghiên cứu Dự thảo Luật (Dự thảo lần 5), 
bài viết phân tích những hạn chế và đề xuất chỉnh sửa, bổ sung cho 
phù hợp với tinh thần xây dựng Dự thảo Luật, cụ thể là các nội 
dung như giải thích từ ngữ, bố cục Dự thảo Luật, quyền bày tỏ 
niềm tin tôn giáo của những người bị hạn chế quyền công dân và 
đang bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn (các biện pháp ngăn 
chặn hành chính và các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình 
sự), các hành vi bị nghiêm cấm, về quản lý nhà nước, đăng ký sinh 
hoạt tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo, tổ chức cuộc lễ ngoài 
cơ sở tôn giáo và kỹ thuật lập pháp. 
Từ khóa: Luật, tôn giáo, tín ngưỡng, khái niệm, thuật ngữ. 
1. Dẫn nhập 
Năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín 
ngưỡng, Tôn giáo nhằm thể chế hóa quy định của Hiến pháp 1992 về 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và các quan điểm, chủ trương của Đảng 
tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khóa IX về công tác tôn 
giáo1. Pháp lệnh đã tạo hành lang pháp lý để ghi nhận, bảo đảm thực hiện 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng như chính sách của 
Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo; điều chỉnh các quan hệ xã hội phát 
sinh trên lĩnh vực tôn giáo vì lợi ích chính đáng của người có niềm tin, tín 
đồ và tổ chức tôn giáo, vì lợi ích chung của toàn xã hội trong bối cảnh Việt 
Nam đang đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế. Tuy nhiên, qua 10 năm 
thực hiện, Pháp lệnh đã bộc lộ nhiều bất cập, có những điểm không còn 
phù hợp với thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, do đó làm hạn chế 
 Giảng viên, Bộ môn Pháp luật, Trường Đại học An ninh nhân dân. 
118 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người, đồng thời, 
một số quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tiễn chưa được điều chỉnh 
bởi Pháp lệnh như: việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy 
cử cho người nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; việc 
người nước ngoài vào tu tập tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam Điều đó gây 
ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá 
nhân, tổ chức và công tác quản lý nhà nước. Những bất cập và khoảng 
trống đặt ra yêu cầu cơ sở thực tiễn đòi hỏi phải thay đổi Pháp lệnh Tín 
ngưỡng, Tôn giáo cho phù hợp với tình hình thực tế. 
Cùng với đó, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi, bổ sung rất 
quan trọng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thay thế cách diễn đạt 
“quyền của công dân” bằng “quyền của mọi người”. Đặc biệt, Hiến 
pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc về việc hạn chế quyền con người 
trong các trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, 
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng theo quy 
định của luật2 Do vậy, yêu cầu phải xây dựng Luật thay thế Pháp lệnh 
ngày càng cấp thiết để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn về tôn giáo cũng 
như nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, thực hiện tốt chủ trương của 
Đảng đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là: “tiếp tục hoàn 
thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan 
điểm của Đảng”3. 
So với Pháp lệnh thì Dự thảo Luật đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy 
phạm trực tiếp điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trên lĩnh vực này, thể 
hiện chính sách nhất quán tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, 
tôn giáo của Nhà nước. Các quy định của Dự thảo Luật đã tạo lập cơ chế 
để ghi nhận và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, 
bao gồm cả người nước ngoài, người đang sinh sống và làm việc ở Việt 
Nam, góp phần bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định 
của Hiến pháp 2013. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật cũng đã cụ thể hóa 
nguyên tắc hạn chế quyền con người trên lĩnh vực này trong quy định về 
các hành vi bị ngăn cấm trong hoạt động tôn giáo dành cho tổ chức tôn 
giáo, cá nhân, cơ quan nhà nước, Dự thảo Luật đã quy định tương đối rõ 
về các điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục thành lập tổ chức tôn giáo, 
đăng ký sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn 
giáo, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm minh bạch cho hoạt động của 
các tổ chức tôn giáo cũng như quản lý nhà nước, hạn chế sự can thiệp vào 
công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo. 
Trần Quốc Huy. Một số góp ý hoàn thiện... 119 
119 
2. Những vấn đề hạn chế của Dự thảo Luật và phương hướng sửa đổi 
Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo là sự phát triển của hệ thống pháp 
luật Việt Nam, có nhiều nội dung mới, phù hợp với việc điều chỉnh các 
quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tiễn, tuy nhiên Dự thảo Luật cũng 
còn nhiều hạn chế, cần điều chỉnh để đảm bảo tính khoa học, phù hợp với 
thực tiễn và đảm bảo ý nghĩa pháp lý, ý nghĩa xã hội cao của Dự thảo Luật. 
Theo tác giả, những hạn chế cần điều chỉnh của Dự thảo Luật là: 
Một là, về giải thích từ ngữ. Giải thích từ ngữ được quy định tại Điều 2 
Dự thảo Luật là chưa thỏa đáng, nhiều thuật ngữ chưa được giải thích đầy 
đủ, hợp lý, thậm chí nhiều thuật ngữ, khái niệm rất quan trọng, mang tính 
công cụ, là cơ sở để xác định phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật nhưng 
không được giải thích. Cụ thể, trong Dự thảo Luật, hai thuật ngữ “tín 
ngưỡng”, “tôn giáo” được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng trong 
phần giải thích từ ngữ hai thuật ngữ này không có, mặc dù đây là hai khái 
niệm công cụ giúp xác định phạm vi điều chỉnh, là khái niệm giúp làm rõ 
nội hàm các khái niệm khác, đặc biệt là xác định đối tượng quản lý nhà 
nước. Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, Đại biểu Quốc hội Lương 
Công Quyết (Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh) đã góp ý với Dự 
thảo như sau: “khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo được sử dụng rất nhiều lần, 
xuyên suốt trong Dự thảo Luật. Nhưng chưa có cách giải thích tín ngưỡng 
là gì? Tôn giáo là gì? Như vậy, sẽ không xác định được hoạt động tín 
ngưỡng là gì? Hoạt động tôn giáo là gì? Tổ chức tôn giáo là gì? Cơ sở tôn 
giáo là gì Do đó, không thể làm rõ Luật này đưa ra để quản lý cái gì? Sẽ 
không đủ cơ sở để quy định các điều khoản trong Luật”4. 
Khái niệm “nhà tu hành” trong Dự thảo Luật cũng chưa phù hợp với 
thực tiễn. Theo quy định tại Điều 2, “nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực 
hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo”. 
Trong thực tiễn, không phải tín đồ tôn giáo nào cũng là nhà tu hành, có rất 
nhiều tín đồ tôn giáo đã theo đạo, tự nguyện và thường xuyên thực hiện 
đầy đủ các Hiến chương, Điều lệ của một tôn giáo nhưng họ không phải là 
nhà tu hành, mà chỉ là một tín đồ có niềm tin và thể hiện niềm tin tôn giáo 
của mình theo giáo lý, giáo luật cho nên nếu khái niệm nhà tu hành như 
trong Dự thảo Luật thì phần lớn tín đồ tôn giáo hiện nay là nhà tu hành. 
Ngoài những khái niệm được đề cập ở trên thì quy định giải thích từ ngữ 
trong Dự thảo Luật còn nhiều khái niệm chưa được giải thích chính xác, do 
vậy, để hoàn thiện Dự thảo Luật, nội dung đầu tiên và quan trọng nhất là 
120 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
phải bổ sung khái niệm “tín ngưỡng” và “tôn giáo”, biên tập chính xác các 
khái niệm đã xây dựng trong phần giải thích từ ngữ, vì đây là những quy 
định tiền đề giúp làm rõ nội hàm các khái niệm khác trong Luật. 
Hai là, về bố cục của Dự thảo Luật. Dự thảo Luật có tên gọi là Luật 
Tín ngưỡng, Tôn giáo và phạm vi điều chỉnh là “quyền tự do tín ngưỡng, 
tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo, tổ 
chức tôn giáo, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có hoạt động tín 
ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của cơ quan nhà nước 
trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”5, nhưng 
Dự thảo Luật có bố cục chưa thật sự cân đối, phần nội dung tín ngưỡng 
còn mờ nhạt, đơn giản, chưa bao quát đầy đủ, chưa làm rõ các hình thức 
hoạt động tín ngưỡng đang diễn ra một cách đa dạng và phong phú như 
hiện nay mà chủ yếu là các quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát 
sinh trên lĩnh vực tôn giáo. Do đó, theo tác giả, Dự thảo Luật cần bổ sung 
những quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lĩnh vực tín 
ngưỡng một cách đầy đủ, không cơ học về số lượng nhưng phải đảm bảo 
điều chỉnh cơ bản các quan hệ xã hội phát sinh trên lĩnh vực này. 
Ba là, về quyền được bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người 
bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành 
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai 
nghiện. Đây là điểm mới của Dự thảo Luật, quy định này đã đưa ra các 
đảm bảo về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, không phân 
biệt địa vị pháp lý, phù hợp với quy định về quyền con người quy định tại 
Hiến pháp 2013, cũng như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và 
chính trị. Tuy nhiên, quy định tại Khoản 2, Điều 4 của Dự thảo Luật còn 
chung chung, thiếu khả thi. 
Tại Khoản 2, Điều 4 quy định người bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp 
hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo 
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện được quyền sử dụng 
kinh sách và bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo. Về kinh sách của các 
tôn giáo rất phong phú, đa dạng, mỗi tôn giáo có nhiều loại kinh sách 
khác nhau, do đó, để xác định kinh sách cần thiết nhằm thỏa mãn niềm 
tin tôn giáo là rất khó, không có cơ sở để xây dựng “tiêu chí” kinh sách 
của tôn giáo; còn hình thức, phương pháp bày tỏ niềm tin tôn giáo của tín 
đồ các tôn giáo cũng rất khác nhau, nếu quy định những người bị tạm 
Trần Quốc Huy. Một số góp ý hoàn thiện... 121 
121 
giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện 
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai 
nghiện có quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo thì ai có nghĩa vụ đáp ứng 
điều kiện để họ được quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo? Vì xét trong quan 
hệ pháp luật, một chủ thể có quyền thì sẽ phát sinh nghĩa vụ của chủ thể 
khác, cho nên khi quy định chung chung như vậy có thể dễ bị lạm dụng, 
đòi hỏi cơ quan nhà nước đáp ứng những điều kiện để bày tỏ niềm tin 
tôn giáo, như: địa điểm, kinh sách, chức sắc hướng dẫn sinh hoạt Mặt 
khác, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, do vậy 
những người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành biện pháp 
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện 
cũng đương nhiên được hưởng nên luật không cần phải ghi nhận được 
hay không được bày tỏ niềm tin tôn giáo vì họ đương nhiên được thụ 
hưởng những quyền này. Theo tác giả, Dự thảo Luật không cần quy 
định quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo của người bị tạm giữ, tạm giam, 
người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo 
dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện mà tập trung quy định về trách nhiệm 
của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm điều kiện để những người này 
được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và bày tỏ 
niềm tin tôn giáo nói riêng. 
Bốn là, về các hành vi bị nghiêm cấm. Đây là điểm mới của Dự thảo 
Luật, là căn cứ pháp lý quan trọng để quản lý nhà nước trên lĩnh vực này 
và chứa đựng những quy tắc xử sự cần thiết để cá nhân, tổ chức có liên 
quan biết mình được làm gì, không được làm gì. Tuy nhiên, quy định về 
các hành vi bị nghiêm cấm trong Dự thảo Luật chưa cụ thể, chi tiết, cách 
mô tả về hành vi và chủ thể chưa rõ ràng. Chẳng hạn, tại Khoản 2, Điều 6 
quy định: “ép buộc người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn 
giáo”, theo quy định này có thể hiểu rằng bất kỳ cá nhân, tổ chức nào thực 
hiện hành vi ép buộc người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn 
giáo là thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và cần phải xử lý để đảm bảo 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người. Nhưng so sánh với Điều 
164 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về “tội xâm phạm quyền tự do tín 
ngưỡng, tôn giáo của người khác” thì chủ thể tội phạm chỉ là cá nhân (mọi 
người) mà không đề cập đến tổ chức, cho nên quy định tại Khoản 2, Điều 6 
và quy định tại Điều 164 Bộ luật Hình sự về chủ thể vi phạm là không 
thống nhất, gây khó khăn khi áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính và 
các cơ quan tiến hành tố tụng. 
122 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
Đồng thời, các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 6 Dự thảo Luật là căn 
cứ để dẫn chiếu làm điều kiện của một số quy định tại các điều khác 
trong Dự thảo Luật, nhưng việc dẫn chiếu vẫn chưa có sự thống nhất và 
thiếu tính hợp lý. Cụ thể: tại Điểm a, Khoản 2, Điều 13 quy định điều 
kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo là “nội dung sinh hoạt không vi phạm các 
quy định tại Khoản 2, Khoản 4, Khoản 5, Khoản 7 Điều 6”, theo đó đã 
loại trừ hành vi “phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo: (khoản 
1), “xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người theo tín ngưỡng, 
tôn giáo” (khoản 3). Như vậy, có thể hiểu rằng, một cá nhân có hành vi 
thuộc Khoản 1 hoặc Khoản 3, Điều 6 thì vẫn đủ điều kiện đăng ký sinh 
hoạt tôn giáo, mặc dù cá nhân đó có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi 
ích hợp pháp của người khác. 
Những hành vi bị nghiêm cấm là căn cứ pháp lý quan trọng để quản lý 
nhà nước, khi giả định và quy định trong những quy phạm này càng rõ 
ràng, dễ hiểu thì cơ quan quản lý áp dụng pháp luật đảm bảo chính xác, 
về phía người dân thì càng dễ thực hiện. Do đó, quy định về các hành vi 
bị nghiêm cấm cần phải rõ ràng, chi tiết và dễ hiểu để người dân có thể 
hiểu, thực hiện và cơ quan quản lý áp dụng pháp luật chính xác, tránh 
tình trạng mơ hồ, đa nghĩa dẫn đến lúng túng trong thực hiện pháp luật 
nói chung và quản lý nhà nước nói riêng. 
Năm là, về vấn đề quản lý nhà nước. Thông qua các văn kiện đại hội, 
nghị quyết và quy định pháp luật thì Đảng và Nhà nước đã khẳng định 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người và Nhà nước phải có 
nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm, thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 
Do đó, quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn 
giáo là thật sự cần thiết bởi vì quản lý nhà nước không phải nhằm hạn chế 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người mà nhằm tôn trọng và bảo 
hộ, chống lại các hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, phát 
huy những giá trị tích cực của việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn 
giáo. Nhưng các quy định trong Dự thảo Luật về cách thức thực hiện 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các cá nhân, tổ chức tôn giáo và cộng 
đồng, cũng như quy định về cho phép, chấp thuận, công nhận, đăng ký đối 
với các hoạt động tín ngưỡng, sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo, cách 
thức tổ chức và hoạt động của các tôn giáo, các hoạt động cụ thể của các 
chức sắc, tín đồ nước ngoài ở Việt Nam còn nặng nề, cách thể hiện trong 
các điều luật còn mang tính hành chính, “xin - cho”, chưa thể hiện rõ quan 
điểm: “tôn trọng, bảo hộ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của 
Trần Quốc Huy. Một số góp ý hoàn thiện... 123 
123 
mọi người; hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào các công việc nội bộ 
của tổ chức tôn giáo”. Do đó, Dự thảo Luật cần phải quy định nội dung và 
hình thức quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo dưới góc độ các biện 
pháp của Nhà nước để bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 
Cần chuyển đổi phương thức quản lý nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn 
giáo từ kiểm soát sang giám sát và hướng dẫn; từ cơ chế xin phép hoạt 
động - cấp phép hoặc đăng ký - chấp thuận sang cơ chế đăng ký - thẩm 
định theo các điều kiện được quy định cụ thể, chi tiết, rõ ràng để phù hợp 
với những quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 
Sáu là, về đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo. 
Quy định công nhận tổ chức tôn giáo trong Dự thảo Luật là bước phát 
triển về mặt lập pháp so với Pháp lệnh. Tuy nhiên, về điều kiện đăng ký 
hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo trong Dự thảo còn thiếu 
chi tiết, cụ thể, nhiều quy định thiếu tính định lượng, gây khó khăn đối 
với các tổ chức có nhu cầu đăng ký hoạt động và công nhận tổ chức tôn 
giáo, đồng thời cũng gây khó khăn cho việc thẩm định, giám sát, kiểm tra 
của cơ quan nhà nước. So sánh điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo và 
điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo tại Điều 14 và Điều 18 Dự thảo 
Luật chỉ khác nhau về mặt câu chữ, điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo 
chỉ bổ sung thêm thời gian hoạt động tôn giáo ổn định của tổ chức mà 
không có sự khác biệt nào lớn, cho nên tách làm 2 Điều ở 2 mục khác 
nhau trong Dự thảo Luật là không logic. Về điều kiện thời gian để công 
nhận tổ chức tôn giáo là 10 năm hoạt động ổn định liên tục, đây là một 
quy định chưa có cơ sở khoa học. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Kha 
(Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Cần Thơ) đã góp ý Dự thảo Luật 
như sau: “về công nhận tổ chức tôn giáo, tôi không nhất trí với dự luật 
quy định tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo khi đã hoạt động ổn 
định sau 10 năm. Dự luật chưa xem xét tổ chức tôn giáo bình đẳng với 
các tổ chức, điều này tôi cho rằng không thỏa đáng. Việc công nhận tổ 
chức tôn giáo, cần đánh giá tổ chức tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu của tín 
đồ không? Tổ chức tôn giáo đó có tuân thủ pháp luật hay không? Theo 
tôi, nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo và việc chấp hành pháp luật 
tôn giáo mới là điều kiện cần và đủ để cơ quan quản lý xem xét công 
nhận hay không công nhận”6. 
Vì vậy, điều kiện để đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn 
giáo cần phải rõ ràng, không định tính mà phải định lượng, tiêu chí phải cụ 
thể, chi tiết. Về điều kiện thời gian là điều kiện cần để có thể kết luận được 
124 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
tổ chức tôn giáo thiết yếu tồn tại hay không, phù hợp với nguyện vọng của 
người dân hay không? Nhưng thời gian bao lâu là đủ để đánh giá, nhận xét 
đối với tổ chức tôn giáo cần phải tính toán khoa học, hợp lý. 
Bảy là, về cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo. Đây là một hoạt động thỏa 
mãn niềm tin tôn giáo của tín đồ do tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo 
trực thuộc tiến hành. Quyền tham gia các cuộc lễ tôn giáo là quyền con 
người được Công ước quốc tế và Hiến pháp Việt Nam ghi nhận. Về 
trình tự, thủ tục để tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo phải được sự 
đồng ý bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước, có nghĩa rằng cơ 
quan quản lý nhà nước phải trả lời đồng ý hoặc không đồng ý với đề 
nghị tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo của tổ chức tôn giáo bằng văn 
bản. Từ góc độ quản lý nhà nước, cơ quan quản lý phải trả lời đề nghị 
của công dân theo quy định của pháp luật, cho nên để có thể trả lời 
đồng ý hoặc không đồng ý phải có cơ sở pháp lý như điều kiện về tên 
cuộc lễ, người chủ trì, nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm, quy 
mô, thành phần Nhưng Dự thảo Luật không đề cập đến những điều 
kiện này mà chỉ yêu cầu phải ghi rõ những nội dung đó trong văn bản 
đề nghị, nhưng điều kiện cụ thể như thế nào để được tiến hành cuộc lễ 
ngoài cơ sở tôn giáo thì không quy định. Đặc biệt, những trường hợp cơ 
quan quản lý nhà nước không đồng ý tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo 
trực thuộc tiến hành cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo, trong trường hợp này 
cơ quan quản lý nhà nước đã tiến hành các biện pháp nhằm hạn chế 
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người và theo quy định của 
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 về quyền con người chỉ có thể bị hạn chế 
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, 
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của 
cộng đồng. Nhưng Điều 40 Dự thảo Luật quy định về cuộc lễ ngoài cơ 
sở tôn giáo không đề cập đến các trường hợp không đồng ý tổ chức 
cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo, như vậy sẽ không có cơ sở pháp lý để cơ 
quan quản lý nhà nước không đồng ý tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn 
giáo, khó đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ tôn giáo 
và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. 
Theo tác giả, Dự thảo Luật cần phải quy định rõ ràng, chi tiết về điều 
kiện để tổ chức cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo, thông qua đó cá nhân, tổ 
chức có nhu cầu tiến hành cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo chuẩn bị đầy đủ 
điều kiện cần thiết để đăng ký tổ chức đúng theo quy định pháp luật, điều 
kiện càng rõ ràng thì tính minh bạch trong bảo đảm quyền tự do tín 
Trần Quốc Huy. Một số góp ý hoàn thiện... 125 
125 
ngưỡng, tôn giáo của con người càng cao. Cơ quan quản lý nhà nước 
cũng sẽ có cơ sở pháp lý để trả lời đề nghị của người dân và đảm bảo tính 
thống nhất trong áp dụng pháp luật, đảm bảo hiệu lực quản lý nhà nước. 
Tám là, về kỹ thuật lập pháp. Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo là 
sự phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật Việt Nam, nhưng về kỹ 
thuật lập pháp còn nhiều hạn chế, bất cập làm giảm giá trị pháp lý, ý 
nghĩa xã hội và tính khả thi không cao, cụ thể: 
Sự thống nhất giữa nội dung quy định của Dự thảo Luật với các văn bản 
quy phạm pháp luật do Quốc hội đã ban hành. Điển hình như quy định về 
cơ quan nhà nước, Dự thảo Luật quy định Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm 
có: Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Nhưng theo 
Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định: “Các đơn vị hành chính 
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: 1. Tỉnh, thành phố 
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); 2. Huyện, quận, thị 
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương 
(sau đây gọi chung là cấp huyện); 3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi 
chung là cấp xã); 4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”7, cho nên để 
thống nhất về đơn vị hành chính cấp huyện được quy định trong Dự thảo 
Luật với đơn vị hành chính cấp huyện quy định tại Luật Tổ chức chính 
quyền địa phương thì cần phải bổ sung thành phố thuộc thành phố trực 
thuộc trung ương vào đơn vị hành chính cấp huyện được quy định tại 
Điểm b, Khoản 3, Điều 11; Điểm a, Khoản 2, Điều 20; Điểm a, Khoản 2, 
Điều 40; Điểm b, Khoản 3, Điều 42; Điểm c, Khoản 3, Điều 51. 
Hay quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo về tín ngưỡng, tôn giáo 
trong Dự thảo Luật chưa thống nhất về chủ thể tố cáo với Luật Tố cáo 
năm 2011. Theo quy định tại Điều 64 Dự thảo Luật: “1. Mọi tổ chức, cá 
nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; 
2. Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo thực 
hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo”8. Như vậy, theo quy định của 
Dự thảo Luật thì chủ thể tiến hành hoạt động tố cáo về tín ngưỡng, tôn 
giáo là tổ chức, cá nhân. Nhưng theo quy định trong Luật Tố cáo năm 
2011 thì chủ thể tố cáo chỉ có cá nhân, được ghi nhận tại Điều 2: “Tố cáo 
là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ 
chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất 
cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại 
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ 
126 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 1 - 2016 
chức”9. Do vậy, để đảm bảo tính thống nhất quy định về tố cáo và giải 
quyết tố cáo của công dân được quy định trong Dự thảo Luật và Luật Tố 
cáo thì cần phải quy định chủ thể tố cáo chỉ có cá nhân. 
Về ủy quyền lập pháp, Dự thảo Luật gồm 68 điều, nhưng có đến 7 
Điều ủy quyền lập pháp cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành về quy 
trình, thủ tục, bao gồm các Điều 12, (Tạm đình chỉ hoạt động tín 
ngưỡng); Điều 17 (Thu hồi đăng ký hoạt động tôn giáo); Điều 21 (Chấp 
thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực 
thuộc); Điều 28 (Tạm đình chỉ hoạt động tôn giáo, giải thể tổ chức tôn 
giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc); Điều 29 (Tạm đình chỉ hoạt động đào 
tạo, giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo); Điều 39 (Tạm đình chỉ, đình chỉ 
hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu hành); Điều 46 (Gia 
nhập tổ chức tôn giáo quốc tế). Việc ủy quyền lập pháp cho Chính phủ 
về trình tự, thủ tục sẽ dẫn đến tình trạng Luật chờ Nghị định, có nghĩa 
rằng Luật đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa có Nghị định hướng dẫn 
thi hành của Chính phủ thì những quy định trong Luật cũng không thể 
thực hiện vì thiếu quy trình, thủ tục. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị 
Kim Thúy (Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội) góp ý với Dự 
thảo Luật như sau: “nếu cho bạn viết luật về nội dung và cho tôi viết 
luật về thủ tục thì tôi có thể đánh bại bất cứ lúc nào. Ai cũng hiểu thủ 
tục là một trong những phương thức để hạn chế quyền, và nắm trong tay 
thủ tục, một người có thể vô hiệu hóa mọi cố gắng của người khác một 
cách dễ dàng, vì chính sách dù có thông thoáng, có cởi mở, có tiến bộ 
nhưng quá nhiều điều kiện thủ tục và quy định theo hướng chặt chẽ can 
thiệp sâu vào hoạt động nội bộ của các tổ chức tôn giáo thì sẽ làm cản 
trở hoặc đi ngược lại chính sách tốt”10. Do vậy, để các quy định của 
Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có thể đi vào cuộc sống, thì những quy định 
về nội dung, trình tự, thủ tục đều phải hoàn thiện, cho nên Dự thảo Luật 
cần phải quy định chi tiết về điều kiện, trình tự, thủ tục để cơ quan có 
thẩm quyền chấp thuận hoặc từ chối khi người dân đăng ký hoặc đề 
nghị cấp phép đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nhất định, chỉ 
ủy quyền lập pháp cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành các vấn đề 
phù hợp với thẩm quyền Chính phủ trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo 
và thật sự cần thiết, hạn chế đến mức tối đa việc ủy quyền lập pháp cho 
Chính phủ, đảm bảo phù hợp với nguyên tắc quyền con người chỉ bị hạn 
chế bởi luật do Quốc hội ban hành./. 
Trần Quốc Huy. Một số góp ý hoàn thiện... 127 
127 
CHÚ THÍCH: 
1 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 
12/3/2003 về công tác tôn giáo. 
2 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 2013, 
Điều 14. 
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, năm 2011. 
4 Văn phòng Quốc hội, Bản tổng hợp thảo luận tại hội trường chiều ngày 
20/11/2015 (Ghi lại theo băng ghi âm), Thảo luận ở hội trường về Dự thảo Luật 
Tín ngưỡng, Tôn giáo. 
5 Ban Tôn giáo Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Dự thảo 
Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (Dự thảo lần 5), Điều 1. 
6 Văn phòng Quốc hội, Bản tổng hợp thảo luận tại hội trường chiều ngày 
20/11/2015 (Ghi theo băng ghi âm), Thảo luận ở hội trường về Dự thảo Luật Tín 
ngưỡng, Tôn giáo. 
7 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tổ chức chính 
quyền địa phương năm 2015, Điều 2. 
8 Ban Tôn giáo Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Dự thảo 
Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (Dự thảo lần 5), Điều 64. 
9 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tố cáo năm 2011, 
Điều 2. 
10 Văn phòng Quốc hội, Bản tổng hợp thảo luận tại hội trường chiều ngày 
20/11/2015 (Ghi lại theo băng ghi âm), Thảo luận ở hội trường về Dự thảo Luật 
Tín ngưỡng, Tôn giáo. 
Abstract 
MAKING SUGGESTIONS FOR COMPLETING THE DRAFT 
LAW ON BELIEF AND RELIGION 
The Ordinance on Belief and Religion, No.21/2004/PL-UBTVQH11, 
18/6/2004, the inadequacy and legal gap that regulated the social relations in 
the domain of belief and religion has appeared for over 10 years of 
promulgation. Therefore, it needs to establish the Law on Belief and 
Religion. Through the research on the Draft Law (the 5th Draft), this article 
analyzes the limitations, then, proposes suggestions and supplement to suit 
the spirit of building the draft law such as explanation words 
(terminology), framework, the right of expressing the religious belief of 
people who are limited the civil rights and are subjected to the preventive 
measures (administrative measures and measures in the criminal 
proceedings), prohibitive acts, state management, religious activities 
registration and recognition of religious organizations, organization the 
rituals outside the places of worship and legislative technique. 
Keywords: Law, religion, belief, concept, terminology. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_gop_y_hoan_thien_du_thao_luat_tin_nguong_ton_giao.pdf