Một số vấn đề về đào tạo theo hệ thống tín chỉ

TÓM TẮT

Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến trên thế giới. Ở Việt

Nam, phương thức đào tạo này đang được thử nghiệm ở nhiều trường đại học. Bài viết

nhằm đề cập đến một số vấn đề về đào tạo theo tín chỉ: đặc điểm của đào tạo theo tín chỉ,

những ưu điểm và hạn chế theo hệ thống tín chỉ, thực trạng và giải pháp để thực hiện

thành công phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học Việt Nam. Các

số liệu nghiên cứu được thu thập từ 500 sinh viên (SV). Ngoài ra, chúng tôi cũng tham

khảo ý kiến và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu và giảng dạy tại một số trường

đại học khác.

pdf 9 trang yennguyen 6800
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về đào tạo theo hệ thống tín chỉ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về đào tạo theo hệ thống tín chỉ

Một số vấn đề về đào tạo theo hệ thống tín chỉ
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 - Thaùng 2/2012 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
 ĐÀO NGỌC CẢNH (*) 
TRỊNH DUY OÁNH (**) 
TÓM TẮT 
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến trên thế giới. Ở Việt 
Nam, phương thức đào tạo này đang được thử nghiệm ở nhiều trường đại học. Bài viết 
nhằm đề cập đến một số vấn đề về đào tạo theo tín chỉ: đặc điểm của đào tạo theo tín chỉ, 
những ưu điểm và hạn chế theo hệ thống tín chỉ, thực trạng và giải pháp để thực hiện 
thành công phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường đại học Việt Nam. Các 
số liệu nghiên cứu được thu thập từ 500 sinh viên (SV). Ngoài ra, chúng tôi cũng tham 
khảo ý kiến và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu và giảng dạy tại một số trường 
đại học khác. 
ABSTRAST 
Training by credit-based system is a progressive mode of training in the world. In 
Vietnam, this training mode has been experimend at a lot of universities. The report aims 
to deal with some features of training by credit-based system: its characteristics, its 
advantages and disadvantages, and the situations and solutions to fulfill successfully this 
training mode at universities in Vietnam. The research data were collected from 500 
students. In addition, we also refer to the opinions and the research rerults of some 
specialists and lecturers who are working at some universities. 
1. MỞ ĐẦU (*) (**) 
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC), còn 
gọi là học chế TC, là một phương thức đào 
tạo tiên tiến trong hệ thống giáo dục đại 
học trên thế giới. Phương thức đào tạo này 
ra đời từ năm 1872 tại Đại học Harvard 
(Hoa Kì). Tiếp sau đó, hệ thống đào tạo 
này đã được áp dụng ngày càng rộng rãi tại 
nhiều nước trên thế giới như các nước Bắc 
Mĩ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, 
Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, 
Malaisia, Indonesia, Ấn Độ, Senegal, 
Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun, 
Trung Quốc, v.v. 
Ở Việt Nam, Nghị quyết của Chính 
phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về 
(*)
 TS, Trường Đại học Cần Thơ 
(**)
 TS, Trường Đại học Sài Gòn 
Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại 
học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã nêu 
rõ: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển 
sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, 
tạo điều kiện thuận lợi để người học tích 
luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên 
thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo 
ở trong nước và ở nước ngoài". 
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã 
ra Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ban 
hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao 
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ” 
(Gọi tắt là Quy chế 43). Theo chủ trương 
của Bộ, năm 2011 là hạn cuối cùng để các 
trường liên quan phải chuyển đổi sang hệ 
thống đào tạo mới này. Thế nhưng, qua 
thời gian thực hiện thí điểm ở một số 
trường đại học trên cả nước, có không ít 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
những vấn đề đặt ra. 
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
Đào tạo theo hệ thống TC có những 
khác biệt căn bản với đào tạo theo niên 
chế. Hệ thống TC cho phép SV đạt được 
văn bằng đại học qua việc tích luỹ các loại 
tri thức giáo dục khác nhau được đo lường 
bằng một đơn vị xác định, gọi là TC 
(credit). 
Theo Quy chế 43: “Một TC được quy 
định bằng 15 tiết học lí thuyết; 30-45 tiết 
thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-
90 giờ thực tập tại cở sở; 45-60 giờ làm 
tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá 
luận tốt nghiệp. 
Đối với những học phần lí thuyết hoặc 
thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được 
một TC, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn 
bị cá nhân”. 
Trong hệ thống TC, chương trình đào 
tạo mềm dẻo và có tính liên thông cao. 
Chương trình đào tạo bao gồm hai loại học 
phần: Học phần bắt buộc là học phần chứa 
đựng những nội dung kiến thức chính yếu 
của mỗi chương trình, bắt buộc SV phải 
tích luỹ. Học phần tự chọn là học phần 
chứa đựng những nội dung kiến thức cần 
thiết, nhưng SV được tự chọn theo hướng 
dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng 
chuyên môn. 
Trong hệ thống này, kiến thức được 
cấu trúc thành các mô - đun (học phần). 
Học phần là khối lượng kiến thức tương 
đối trọn vẹn, thuận tiện cho SV tích luỹ 
trong quá trình học tập. Thường thì một 
học phần có khối lượng từ 2 đến 4 TC. 
Khi tổ chức giảng dạy theo TC, đầu 
mỗi học kì, SV được lựa chọn và đăng kí 
các học phần thích hợp với năng lực và 
hoàn cảnh của họ nhằm đạt được kiến thức 
theo một chương trình đào tạo nào đó. Nhà 
trường căn cứ vào nhu cầu của SV để bố trí 
giảng viên và sắp xếp thời khoá biểu cho 
các lớp học phần. 
Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết 
quả học tập của SV được đánh giá theo quá 
trình, khác với đào tạo theo niên chế chỉ 
đánh giá qua kì thi hết môn. Thang điểm để 
đánh giá kết quả học tập của SV sử dụng 
thang điểm chữ A, B, C, D (hay thang 
điểm bốn). 
Bảng 1. Thang điểm bốn 
Điểm chữ A, B, C Điểm số Xếp loại Quy sang thang điểm 10 
A 4 Giỏi 8,5 - 10 
B 3 Khá 7,0 - 8,4 
C 2 Trung bình 5,5 - 6,9 
D 1 Trung bình yếu 4,0 - 5,4 
F 0 Kém Dưới 4,0 
Nguồn: Tổng hợp theo Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ 
thống TC 
Bản chất của phương thức đào tạo theo 
hệ thống TC là cá thể hoá việc học tập của 
người học. Điều này được các nhà nghiên 
cứu gọi là nguyên lí “tiệc buffet”, tức là SV 
được tự chọn các học phần để học trong 
mỗi học kì, mỗi năm học. Cách tổ chức 
hoạt động theo nguyên lí này đảm bảo cho 
quá trình đào tạo trong các trường đại học 
trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo 
khả năng cho việc thiết kế chương trình liên 
thông giữa các hệ thống đào tạo khác nhau. 
ĐÀO NGỌC CẢNH - TRỊNH DUY OÁNH 
3. NHỮNG ƯU THẾ CỦA ĐÀO TẠO 
THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết 
quả học tập của SV được tính theo quá 
trình tích luỹ từng học phần chứ không 
phải theo năm học, do đó việc hỏng một 
học phần nào đó không cản trở quá trình 
học tiếp tục, SV chỉ học lại các học phần 
không đạt yêu cầu mà không phải ở lại lớp 
như trong đào tạo theo niên chế. Vì vậy, 
đào tạo theo đào tạo theo hệ thống TC có 
chi phí thấp và hiệu quả cao hơn. 
Đào tạo theo hệ thống TC tạo điều kiện 
cho SV năng động hơn và có khả năng 
thích ứng tốt hơn những biến đổi nhanh 
chóng của cuộc sống xã hội hiện đại. Nếu 
như trong đào tạo theo niên chế, SV hoàn 
toàn thụ động tuân thủ kế hoạch học tập 
của nhà trường, thì trong đào tạo theo TC 
đòi hỏi SV phải chủ động xây dựng cho 
mình một kế hoạch học tập thích hợp, có 
hiệu quả cao nhất cho bản thân. 
Đào tạo theo hệ thống TC cung cấp cho 
các trường đại học một ngôn ngữ chung, 
tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường 
cả trong nước cũng như ngoài nước. Nếu 
triển khai đào tạo theo hệ thống TC các 
trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ 
chức những môn học chung cho SV nhiều 
trường, nhiều khoa, tránh các môn học 
trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra SV có thể 
học những môn học lựa chọn ở các khoa 
khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép 
sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất 
và phương tiện tốt nhất cho từng môn học. 
Đào tạo theo TC tạo ra một loại hình 
lớp học mới gọi là “lớp học phần”, tức là 
lớp học tập hợp các SV đăng kí học chung 
một học phần. Lớp học phần sẽ bao gồm 
SV nhiều khoá học và nhiều ngành học 
khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho SV giao 
lưu, học hỏi lẫn nhau và mở rộng các mối 
quan hệ xã hội. Qua khảo sát của chúng tôi 
về cơ hội giao lưu học hỏi giữa các khoá 
học, ngành học trong đào tạo theo TC thì 
có tới 33,8% đồng ý ở mức độ trung bình; 
36,2% đồng ý ở mức độ cao; 16,1% đồng ý 
ở mức độ rất cao. 
Với đào tạo theo hệ thống TC, các 
trường đại học có thể mở thêm ngành học 
mới một cách dễ dàng khi nhận được tín 
hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và 
tình hình lựa chọn ngành nghề của SV. 
Đào tạo theo hệ thống TC cho phép ghi 
nhận cả những kiến thức và khả năng tích 
luỹ được ngoài trường lớp để dẫn tới văn 
bằng, khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc 
khác nhau có thể tham gia học đại học một 
cách thuận lợi. Về phương diện này có thể 
nói đào tạo theo hệ thống TC là một trong 
những công cụ quan trọng để chuyển từ 
nền đại học mang tính tinh hoa thành nền 
đại học mang tính đại chúng. 
Kết hợp với đào tạo theo hệ thống TC, 
nếu trường đại học tổ chức thêm những kì 
thi đánh giá kiến thức và kĩ năng của người 
học tích luỹ được bên ngoài nhà trường 
hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ 
một TC tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ 
hội cho họ đạt văn bằng đại học. Ở Mĩ, trên 
một nghìn trường đại học chấp nhận cung 
cấp TC cho những kiến thức và kĩ năng mà 
người học đã tích luỹ được ngoài nhà 
trường (Lâm Quang Thiệp, 2006). 
4. NHỮNG KHÓ KHĂN KHI TRIỂN 
KHAI ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ 
Thực tế triển khai đào tạo đào tạo theo 
hệ thống TC ở các trường đại học cho thấy 
có không ít khó khăn, vướng mắc. Dưới 
đây là kết quả khảo sát mà chúng tôi thu 
được từ ý kiến của 500 SV về những khó 
khăn trong đào tạo theo hệ thống TC. 
Bảng 2. Ý kiến SV về những khó khăn trong đào tạo theo hệ thống TC 
Đơn vị tính: % 
Tiêu chí 
Mức độ 
Tổ chức 
điều hành 
rất phức 
tạp 
Nhiều tình 
huống bất 
thường 
Kiến 
thức bị 
chia 
cắt 
Khó tổ 
chức 
sinh 
hoạt 
Khó đổi 
lịch, bù 
giờ 
Mất nhiều 
thời gian cho 
các thủ tục 
Rất thấp 3.2 1.8 5.8 3.2 4.0 1.8 
Thấp 19.6 11.0 23.2 13.0 6.4 9.4 
Trung bình 36.8 31.0 33.0 18.6 27.1 28.5 
Cao 27.0 37.6 28.2 39.9 36.3 34.3 
Rất cao 13.4 18.6 9.8 25.3 26.1 26.1 
Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011 
Khó khăn thường được đề cập đến là 
công tác điều hành quản lí trong đào tạo 
theo TC rất phức tạp. Nếu như trong đào 
tạo theo niên chế, SV học theo một kế 
hoạch chung theo sự sắp xếp của nhà 
trường, thì trong đào tạo theo TC, mỗi SV 
có một kế hoạch học tập riêng nên việc tổ 
chức điều hành quản lí đào tạo rất phức tạp. 
SV phải mất nhiều thời gian để lập kế 
hoạch học tập, đăng kí học phần, điều chỉnh 
kế hoạch và đăng kí bổ sung. Do những hạn 
chế về nguồn lực: giáo viên, phòng học, 
quỹ thời gian, v.v mà nhìn chung, các 
trường đại học vẫn chưa thật sự đảm bảo 
đáp ứng nhu cầu của người học. Mặc dù 
hiện nay có sự hỗ trợ của hệ thống phần 
mềm trên mạng máy tính, nhưng trên thực 
tế SV vẫn phải chờ đợi, chen lấn nhau trong 
sử dụng máy tính để đăng kí học phần. 
Nhìn chung, nhận thức và kĩ năng của 
SV về đào tạo theo hệ thống TC còn nhiều 
hạn chế. TS Trần Văn Dũng, Trường Đại 
học Tây Nguyên, cho biết trường này áp 
dụng đào tạo TC từ năm 2009 nhưng gặp 
trở ngại là SV không quen làm việc độc 
lập, vẫn giữ tư duy dựa vào đội ngũ cố vấn 
học tập, đội ngũ cán bộ lớp để nắm bắt 
thông tin của nhà trường, vì vậy mà nhiều 
SV phàn nàn là không biết trường tổ chức 
những môn học nào, kế hoạch học tập ra 
sao (Trần Văn Dũng, 2010). 
Đào tạo theo hệ thống TC làm cho việc 
tổ chức sinh hoạt lớp, sinh hoạt chi đoàn 
gặp nhiều khó khăn do khó gắn kết SV, 
khó bố trí lịch sinh hoạt vì mỗi SV đều có 
một thời khoá biểu riêng. Mặt khác, việc tổ 
chức cho SV đi thực tập, thực tế cũng gặp 
nhiều trở ngại vì các học phần SV đăng kí 
học rất khác nhau nên nếu SV đi thực tập, 
thực tế thì phải nghỉ học các học phần 
khác. Ngoài ra, một khó khăn không nhỏ là 
trong đào tạo theo TC rất khó bù giờ, đổi 
lịch vì mỗi SV có một thời khoá biểu riêng 
nên đổi sang học buổi khác thì SV này 
chấp nhận SV khác lại không chấp nhận (vì 
bận học môn khác). 
Đào tạo theo hệ thống TC đòi hỏi giảm 
thời gian lên lớp, tăng thời gian tự học, tự 
nghiên cứu của SV. Với đặc trưng này, SV 
sẽ có thời gian tự chủ nhiều hơn. Đây là cơ 
hội cho SV có thể học hai ngành song 
song, học thêm ngoại ngữ, tin học hoặc đi 
làm thêm. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng 
có thể dẫn đến tình trạng SV không sử 
dụng tốt thời gian ngoài giờ lên lớp và chất 
lượng học tập kém. 
Qua khảo sát của chúng tôi về thời 
gian tự học tương ứng với 1 giờ học trên 
ĐÀO NGỌC CẢNH - TRỊNH DUY OÁNH 
lớp, số ý kiến SV cho rằng chỉ cần 1 giờ tự 
học là 8,8%; số ý kiến cho rằng cần 2 giờ 
tự học ở nhà là 45,9%; số ý kiến cho rằng 
cần dành 3 giờ tự học là 29,8%; số ý kiến 
cho rằng cần 4 giờ tự học là 11,5%, số ý 
kiến đề nghị từ 5 giờ tự học trở lên là 4%. 
Về thời gian SV dành cho tự học mỗi 
ngày thì tỉ lệ SV sử dụng trên 6 giờ là 
0,2%; từ 5-6 giờ tự học là 5,5%; từ 4-5 giờ 
tự học là 12,6%; từ 3-4 giờ tự học là 
48,0%; từ 1-2 giờ tự học là 30,0%; dưới 1 
giờ tự học là 3,8%. Như vậy, hầu hết SV 
vẫn sử dụng thời gian tự học, tự nghiên cứu 
dưới mức quy định. 
Về nơi tự học của SV, phần lớn các ý 
kiến cho rằng nơi tự học thích hợp là ở nhà 
của gia đình hoặc ở nhà trọ, ở kí túc xá 
(91,1%). Ngoài ra, một số nơi tự học được 
SV lựa chọn là ở giảng đường, phòng học 
của trường (80,5%); tại thư viện (84,0%); 
tại nhà sách, phòng máy tính hoặc nhà bạn 
bè (70,0%). Những nơi khác được lựa chọn 
ít hơn như: tại công viên (33,0%); tại quán 
cà phê - Internet (39,6%),. 
Một vấn đề đặt ra là phải tích cực đổi 
mới phương pháp dạy học trong đào tạo 
theo TC. Nếu không thì có thể xảy ra nguy 
cơ là đào tạo theo TC có chất lượng kém 
hơn đào tạo theo niên chế (bởi vì thời gian 
lên lớp trong đào tạo theo TC ít hơn đào 
tạo theo niên chế). Nguyên lí của đào tạo 
theo hệ thống TC cho thấy: Nhiệm vụ 
chính của nhà trường đại học không phải là 
cung cấp kiến thức, mà là trang bị cho SV 
phương pháp học tập, phương pháp tư duy, 
phương pháp nghiên cứu. Đây chính là sự 
thay đổi căn bản về cách dạy và cách học 
mà đào tạo theo TC cần hướng tới. 
Theo khảo sát của chúng tôi về nguyên 
nhân chưa áp dụng rộng rãi các phương 
pháp dạy học tích cực trong đào tạo theo 
TC, các ý kiến trả lời tính theo mức độ 
đồng ý từ trung bình đến cao và rất cao là: 
do lớp quá đông nên khó áp dụng các 
phương pháp này (93,5%); do SV thụ 
động, ít phát biểu ý kiến (91,2%); do GV 
chưa khuyến khích sự tích cực trong học 
tập (86,8%); do không đủ thời gian 
(90,5%); do SV ít tìm tòi thông tin 
(85,1%) Ngoài ra, các ý kiến còn cho 
rằng do bàn ghế chưa phù hợp để áp dụng 
phương pháp dạy học tích cực (59,7%). 
Bảng 3: Nguyên nhân chưa áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong đào tạo 
theo TC 
Đơn vị tính: % 
Tiêu chí 
Mức độ 
Lớp 
quá 
đông 
SV thụ 
động, ít 
phát biểu 
GV chưa 
khuyến 
khích SV 
Thời gian 
không đủ 
SV ít tìm 
tòi thông 
tin 
Bàn ghế 
không 
thích hợp 
Rất thấp 1.0 1.7 2.5 1.0 3.2 10.5 
Thấp 5.4 7.1 10.7 8.4 11.8 19.9 
Trung bình 16.9 22.6 32.9 30.5 31.4 29.5 
Cao 31.6 38.8 35.0 36.6 35.2 26.8 
Rất cao 45.0 29.8 18.9 23.4 18.5 13.4 
Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 
Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp năm 2011 
Như trên đã cho thấy, đào tạo theo hệ thống TC cho phép SV quyết định tiến độ 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
đào tạo tùy khả năng và điều kiện của bản 
thân SV. Theo đó có thể cho phép SV rút 
ngắn thời gian đào tạo. Nhờ vậy, không 
những SV và gia đình họ tiết kiệm được 
thời gian, chi phí cho bản thân, mà còn đem 
lại nhiều lợi ích đối với nhà trường và xã 
hội. Tuy nhiên, trên thực tế, do mỗi SV có 
một kế hoạch học tập khác nhau nên có thể 
xảy ra tình trạng bị trùng thời khoá biểu 
giữa một số học phần nên SV buộc phải 
giảm bớt số học phần hoặc phải điều chỉnh 
kế hoạch học tập để chuyển sang học học 
phần khác. Điều này cũng làm cho SV khó 
rút ngắn thời gian đào tạo. Mặt khác, việc 
tổ chức thực tập thực tế ngoài trường cũng 
dẫn đến tình trạng SV đã hoàn thành các 
học phần lí thuyết nhưng vẫn không đủ điều 
kiện tốt nghiệp vì phải chờ để đi thực tập. 
Tóm lại, việc triển khai đào tạo theo hệ 
thống TC ở các trường đại học hiện nay 
gặp không ít khó khăn và trở ngại. Nhìn 
chung, khó khăn chính là do nhà trường 
chưa có đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu 
đào tạo của SV. 
5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN 
THIỆN ĐÀO TẠO THEO HỆ 
THỐNG TÍN CHỈ 
Từ thực trạng triển khai đào tạo theo 
hệ thống TC nêu trên, chúng tôi xin đề xuất 
một số giải pháp để hoàn thiện hơn việc 
đào tạo theo TC như sau: 
5.1. Bổ sung, hoàn thiện các quy định 
về đào tạo theo hệ thống TC 
Mặc dù, hiện nay nhiều trường đang áp 
dụng hệ thống TC nhưng vẫn còn mang 
tính thử nghiệm. Bộ Giáo dục và Đào tạo 
đã ban hành Quy chế 43 về đào tạo theo hệ 
thống TC nhưng chưa có tổng kết, bổ sung, 
hoàn chỉnh. Vì vậy, các trường cần chủ 
động rà soát các văn bản liên quan và kiến 
nghị Bộ sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện cơ 
sở pháp lí cho hệ thống đào tạo này. 
5.2. Nâng cao nhận thức của SV về 
hệ thống TC 
Như trên đã nêu, đào tạo theo hệ thống 
TC dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực, 
chủ động của SV. Thực trạng chung là SV 
vẫn lúng túng và thụ động. Theo khảo sát 
của chúng tôi, tình trạng SV không nắm 
được quy trình, thủ tục trong đào tạo theo 
TC theo 5 mức độ như sau: mức độ rất thấp 
1,3%; mức độ thấp 4,6%; mức độ trung 
bình 27,3%; mức độ cao 47,0%; mức độ 
rất cao 19,8%. Tình trạng trên cho thấy cần 
nâng cao nhận thức và tăng cường tư vấn 
cho SV qua cố vấn học tập. 
5.3. Xây dựng các “kế hoạch khung” 
để SV tham khảo khi lập kế hoạch học tập 
Chúng tôi cho rằng mỗi ngành học nên 
thiết kế một số “kế hoạch khung” có tính 
chất gợi ý để SV tham khảo khi lập kế 
hoạch học tập của mình. Các kế hoạch 
khung này có thể bao gồm một số phương 
án: học đúng tiến độ, học vượt tiến độ, học 
trễ tiến độ để SV cân nhắc, lựa chọn. 
5.4. Tăng cường cung cấp thông tin 
để SV chủ động trong quá trình đào tạo 
Thực tế cho thấy, hiện nay SV thường 
nắm được rất ít thông tin, nhất là thông tin 
về kế hoạch học tập của những SV khác 
trong cùng ngành đào tạo. Vì vậy, có thể 
xảy ra tình trạng một vài SV chọn môn học 
A, một vài SV khác lại chọn môn học B. 
Kết quả là một sự “rối loạn” về kế hoạch 
học tập mà nhà trường không thể đáp ứng 
được. Nếu nhà trường cung cấp thông tin 
cho SV biết là học kì này có bao nhiêu SV 
lựa chọn môn học A, bao nhiêu SV lựa chọn 
môn học B, v.v Thông tin về kế hoạch 
học tập của SV theo ngành học như vậy sẽ 
giúp cho SV theo dõi để điều chỉnh kế 
hoạch học tập của mình hợp lí và khả thi 
hơn. Nhà trường sẽ bớt đi rất nhiều những 
trường hợp đặc biệt phải xem xét giải quyết. 
ĐÀO NGỌC CẢNH - TRỊNH DUY OÁNH 
5.5. Tăng cường sinh hoạt chuyên môn, 
học thuật về đào tạo theo hệ thống TC 
Việc thực hiện đào tạo theo TC chỉ có 
hiệu quả khi giảng viên thay đổi quan điểm 
và phương pháp dạy học. Hiện nay nhiều 
giảng viên đang bối rối với việc đổi mới 
phương pháp giảng dạy lấy người học là 
trung tâm - yêu cầu bắt buộc trong đào tạo 
TC. Giảng viên Vũ Đình Bảy, Trường Đại 
học Huế, nêu những khó khăn đến từ phía 
nhiều giảng viên như dạy theo quán tính cũ 
với các phương pháp dạy học truyền thống; 
chưa tiếp cận với phương pháp dạy học 
tích cực phù hợp với đặc trưng từng bộ 
môn; một số lạm dụng và lệ thuộc quá 
nhiều vào phương tiện dạy học hiện đại 
nhưng không mang lại hiệu quả thực chất 
trong giảng dạy (Vũ Đình Bảy, 2010). 
Như vậy, các trường, các khoa cần đẩy 
mạnh các hội thảo, trao đổi chuyên đề về 
đào tạo theo hệ thống TC. Thông qua các 
hoạt động này thì giảng viên sẽ hiểu rõ hơn 
về đào tạo theo TC và sẽ chủ động thay đổi 
phương pháp dạy học theo TC cho phù hợp 
và có hiệu quả. 
5.6. Thay đổi quan niệm và phương 
pháp học tập của SV 
Trong công trình nghiên cứu về thực 
trạng học tập theo TC tại Trường ĐH Sư 
phạm Hà Nội của PGS.TS Nguyễn Công 
Khanh, có tới hơn 54% SV được hỏi cho rằng 
không có hứng thú học tập, 64% cho rằng 
chưa tìm được phương pháp học phù hợp 
(Dẫn theo Vũ Đình Bảy, 2010). Khảo sát của 
chúng tôi ở trên cũng cho thấy hiện nay SV 
sử dụng thời gian cho tự học rất ít, SV vẫn 
còn thói quen thầy dạy gì thì học nấy. 
Vì vậy, cần tạo cho SV phong cách học 
tập mới: thầy giới thiệu sách và ra yêu cầu 
còn SV phải tự tìm sách, tự nghiên cứu để 
nắm kiến thức. Có như vậy, kiến thức mà 
SV tiếp thu được sẽ không mang tính giáo 
điều, không bị lạc hậu trước sự bùng nổ 
thông tin và sự phát triển nhanh chóng của 
thời đại. 
5.7. Đổi mới hệ thống điều hành, 
quản lí đào tạo 
Đào tạo theo hệ thống TC đòi hỏi hệ 
thống điều hành quản lí đào tạo phải thay 
đổi căn bản. Nếu như trong đào tạo theo 
niên chế, nhà trường chủ động xây dựng kế 
hoạch còn SV phải tuân theo, thì trong đào 
tạo TC, SV tự lập kế hoạch còn nhà trường 
phải đáp ứng. Như vậy, hệ thống điều hành 
quản lí đào tạo phải được đổi mới theo 
hướng mềm dẻo, linh hoạt. Đặc biệt, hệ 
thống này phải khai thác có hiệu quả công 
nghệ thông tin. 
5.8. Tăng cường cơ sở vật chất và 
nguồn học liệu phục vụ cho đào tạo TC 
Thực trạng đào tạo TC hiện nay cho 
thấy sự hạn chế về cơ sở vật chất kĩ thuật 
(phòng học, thiết bị dạy học, mạng máy 
tính) và nguồn học liệu làm cho việc tổ 
chức đào tạo và tăng cường sự tự học của 
SV gặp nhiều trở ngại. Vì vậy, muốn thực 
sự đảm bảo nhu cầu học tập của từng SV 
thì trước hết các trường phải đầu tư phát 
triển các nguồn lực về cơ sở vật chất, trang 
thiết bị giảng dạy và học liệu. 
6. KẾT LUẬN 
Đào tạo theo TC tuy được coi là 
phương thức đào tạo mới nhưng đã có lịch 
sử cách đây hàng trăm năm và đã khẳng 
định ưu thế của nó tại nhiều trường đại học 
danh tiếng trên thế giới. Ở Việt Nam, nhìn 
chung phương thức đào tạo theo TC còn 
khá mới mẻ. Mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ, 
lúng túng trong việc ứng dụng nhưng nhiều 
trường đại học đã tích cực áp dụng phương 
thức đào tạo này và đạt được những thành 
công nhất định. 
Với chủ trương của Chính phủ và của 
Bộ Giáo dục và Đào tạo là quyết tâm đẩy 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ 
mạnh việc áp dụng phương thức đào tạo 
theo hệ thống TC, với sự tích cực hưởng 
ứng của các trường đại học và cao đẳng, 
chúng tôi hi vọng rằng hệ thống đào tạo 
này ở nước ta sẽ ngày càng hoàn thiện và 
từng bước tiếp cận với hệ thống giáo dục 
đại học trên thế giới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Thanh Ái (2010), Đào tạo theo hệ thống TC - Các nguyên lí, thực trạng và giải 
pháp, Kì yếu hội thảo Khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học 
theo TC”, Chuyên san của Tạp chí Đại học Sài Gòn. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy 
theo hệ thống TC (Ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 
tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). 
3. Vũ Đình Bảy (2010), Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy học 
phù hợp với phương thức đào tạo theo hệ thống TC ở các trường đại học hiện nay, Kì 
yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo hệ 
thống TC”, Chuyên san của Tạp chí Đại học Sài Gòn. 
4. Diệp Ngọc Dũng (2010), Một số tồn tại trong quá trình chuyển đổi sang đào tạo theo 
hệ thống TC, Kì yếu hội nghị “Tổng kết, đánh giá công tác đào tạo TC”, Trường Đại 
học Cần Thơ. 
5. Trần Văn Dũng (2010), Một số khó khăn trong chuyển đổi phương thức đào tạo từ 
niên chế sang TC tại trường đại học Tây Nguyên, Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn quốc 
“Đổi mới phương pháp giảng dạy đại học theo TC”, Chuyên san của Tạp chí Đại học 
Sài Gòn. 
6. Elis Mazuz & Phạm Thị Ly (2006), Mục tiêu sư phạm của hệ thống đào tạo theo TC 
Mĩ và những gợi ý cho cải cách cho giáo dục Việt Nam, (đăng trên trang web 
 /index). 
7. Trịnh Duy Oánh (2010), Đào tạo theo hệ thống TC và một số vấn đề trong đổi mới 
phương pháp dạy học, Kì yếu hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp 
giảng dạy đại học theo TC”, Chuyên san của Tạp chí Đại học Sài Gòn. 
8. Lâm Quang Thiệp (2006), Việc áp dụng đào tạo theo hệ thống TC trên thế giới và ở 
Việt Nam, Xây dựng chương trình đào tạo theo TC có sử dụng Internet, Viện Nghiên 
cứu Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm TPHCM. 
9. Lâm Quang Thiệp (2010), Về phương pháp dạy, học và đánh giá kết quả học tập trong 
hệ thống TC, Kì yếu hội thảo khoa học toàn quốc “Đổi mới phương pháp giảng dạy 
đại học theo TC”, Chuyên san của Tạp chí Đại học Sài Gòn. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_dao_tao_theo_he_thong_tin_chi.pdf