Một số vấn đề về nguồn nhân lực của nước ta dưới góc nhìn giáo dục và đào tạo

Quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc vào nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực con người là quan trọng nhất. Nghiên cứu này khai thác bộ dữ

liệu liên quan nguồn nhân lực những năm gần đây của Tổng cục

Thống kê Việt Nam nhằm nhận diện và thảo luận về thực trạng

nguồn nhân lực của các vùng kinh tế - xã hội (KT-XH) cả nước.

Chất lượng nguồn nhân lực của các vùng KT -XH trong cả nước

ngày càng được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp. Vì vậy, làm

thế nào để rút ngắn sự chênh lệch, từng bước nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực của cả nước đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, hội nhập và phát triển là trách nhiệm thuộc

về cả quốc gia, dân tộc và toàn xã hội.

pdf 8 trang yennguyen 6300
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về nguồn nhân lực của nước ta dưới góc nhìn giáo dục và đào tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về nguồn nhân lực của nước ta dưới góc nhìn giáo dục và đào tạo

Một số vấn đề về nguồn nhân lực của nước ta dưới góc nhìn giáo dục và đào tạo
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
28 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NƯỚC TA 
DƯỚI GÓC NHÌN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Nguyễn Quang Giải
Trường Đại học Thủ Dầu Một
Email: nguyenquanggiai@yahoo.com
Ngày nhận bài: 23/7/2019
Ngày phản biện: 3/8/2019
Ngày tác giả sửa: 12/8/2019
Ngày duyệt đăng: 25/9/2019
Ngày phát hành: 30/9/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/325
Quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc phụ thuộc vào nhiều nguồn lực, trong đó nguồn 
lực con người là quan trọng nhất. Nghiên cứu này khai thác bộ dữ 
liệu liên quan nguồn nhân lực những năm gần đây của Tổng cục 
Thống kê Việt Nam nhằm nhận diện và thảo luận về thực trạng 
nguồn nhân lực của các vùng kinh tế - xã hội (KT-XH) cả nước. 
Chất lượng nguồn nhân lực của các vùng KT -XH trong cả nước 
ngày càng được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp. Vì vậy, làm 
thế nào để rút ngắn sự chênh lệch, từng bước nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực của cả nước đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước, hội nhập và phát triển là trách nhiệm thuộc 
về cả quốc gia, dân tộc và toàn xã hội.
Từ khóa: Nguồn nhân lực; Giáo dục và đào tạo; Vùng kinh 
tế - xã hội.
1. Đặt vấn đề
Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quyết định đến 
chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt đối với sự phát 
triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và xã hội. 
Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực 
chất lượng cao từ lâu đã trở thành một trong những 
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của nhiều quốc gia, 
đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Tại Việt 
Nam, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
và hội nhập quốc tế, nguồn lực con người được xác 
định là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền 
vững đất nước (Ban chấp hành Trung ương Đảng, 
1994). Từ góc nhìn giáo dục và đào tạo, qua kết quả 
điều tra lao động và việc làm, đặc biệt từ kết quả 
định lượng của hai cuộc Điều tra biến động dân số 
và nhà ở trên phạm vi cả nước năm 2011 và 2016 
do Tổng cục Thống kê thực hiện, nghiên cứu này 
thảo luận một khía cạnh nhỏ trong vấn đề lớn về 
nguồn nhân lực của các vùng KT-XH trong cả nước 
nhằm giúp nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý 
có thêm dữ liệu tham khảo, từng bước cải thiện, 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sức cạnh 
tranh của nền kinh tế quốc gia. 
2. Tổng quan nghiên cứu
Giữ vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát 
triển của mỗi cá nhân, cộng đồng và xã hội, nguồn 
nhân lực là chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu 
của nhiều học giả và cơ quan chức năng. Dựa vào 
nguồn tài liệu thứ cấp, có thể thấy, có rất nhiều bài 
viết, công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn 
nhân lực. Tuy nhiên, để có thể làm rõ “bản đồ 
nguồn nhân lực” theo vùng KT-XH Việt Nam hiện 
nay, điều kiện “cần” là phải có nguồn dữ liệu lớn 
(big data) cụ thể qua những công trình “Điều tra dân 
số, kế hoạch hóa gia đình”; “Lao động việc làm”; 
“Niên giám thống kê” những năm gần đây của Tổng 
cục Thống kê mới có thể phản ánh rõ nét nguồn 
nhân lực theo vùng. Điều kiện “đủ” là việc tiến hành 
phân tích, so sánh, tổng hợp và lý giải những thông 
điệp đằng sau những con số định lượng nguồn nhân 
lực. Chính vì vậy, nghiên cứu “Một số vấn đề về 
nguồn nhân lực của nước ta dưới góc nhìn giáo dục 
và đào tạo” là cần thiết.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Dữ liệu và phương pháp phân tích dữ liệu
Nguồn dữ liệu định lượng dân số, lao động 
việc làm, đặc biệt từ kết quả Điều tra biến động 
dân số và nhà ở trên phạm vi cả nước năm 2011 
và 2016 của Tổng cục Thống kê được sử dụng cho 
việc phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực 
theo góc nhìn giáo dục - đào tạo trong mối so sánh 
vùng miền cả nước. Thông qua so sánh đối chứng, 
nghiên cứu phát hiện điểm tương đồng và khác biệt 
về nguồn nhân lực phân theo vùng KT-XH trong 
cả nước. Trước khi thực hiện so sánh đối chứng, 
tác giả bài viết sử dụng phương pháp thống kê mô 
tả (descriptive statistics) nhằm trình bày, mô tả và 
đo lường dữ liệu nhân lực. Đối với thống kê mô tả, 
số trung bình cộng, số tương đối cường độ (lần, %) 
và số tương đối kết cấu (phân phối tần số, %) cũng 
được sử dụng.
3.2. Cách tiếp cận và địa bàn nghiên cứu 
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
29Volume 8, Issue 3
Để nhận diện rõ nét nguồn nhân lực của nước 
ta hiện nay, nghiên cứu này lựa chọn cách tiếp 
cận vùng (vùng KT-XH). Vùng KT-XH là một bộ 
phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số tỉnh, thành 
phố trực thuộc Trung ương có các hoạt động KT-
XH tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao 
động xã hội của cả nước. Đây là loại vùng phục vụ 
việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển 
KT-XH theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá 
trình phát triển KT-XH trên mỗi vùng của đất nước. 
Như vậy, Việt Nam hiện có 6 vùng KT-XH, gồm 
Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông 
Hồng (Vùng Bắc Bộ); Bắc Trung Bộ và Duyên hải 
miền Trung, Tây Nguyên (vùng Trung Bộ); Đông 
Nam Bộ và ĐBSCL (vùng Nam Bộ) (Nghị định 
số 92/2006/NĐ-CP, 2006). Nghị định số 92/2006/
NĐ-CP là văn bản pháp lý quan trọng về vùng KT-
XH Việt Nam hiện hành. Hầu hết, các ấn phẩm của 
Tổng cục Thống kê hiện nay khi phân vùng KT-XH 
đều dựa vào văn bản này. Trong phạm vi bài viết 
này, vùng KT-XH được lấy từ Niên giám Thống kê 
Việt Nam (Tổng cục Thống kê Việt Nam 2017). Sau 
đây là các vùng KT-XH trên bản đồ Việt Nam. 
Bắc Bộ là vùng đất phía Bắc của Việt Nam, Bắc 
Bộ được phân thành hai tiểu vùng, Đồng bằng sông 
Hồng (ĐBSH) và Trung du và miền núi phía Bắc 
(TD-MNPB); gồm 26 tỉnh, thành. So với cả nước, 
diện tích Bắc Bộ chiếm khoảng 35,1%, dân số 
khoảng 33,1 triệu người, chiếm 35,7% (2016); mật 
độ dân số 558 người/km2. Bình quân mức tăng dân 
số Bắc Bộ giai đoạn 2013 - 2016 là 1,13%, đồng 
bằng sông Hồng 1,04%, Trung du và miền núi phía 
Bắc 1,22%; bình quân mức tăng dân số cả nước 
giai đoạn này là 1,07%. Đồng bằng sông Hồng gồm 
11 tỉnh, thành gồm Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, 
Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, 
Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Trung 
du miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh, thành: Hà Giang, 
Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên 
Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, 
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình (Tổng cục 
Thống kê, 2017c).
Trung Bộ là vùng đất nằm giữa Bắc Bộ và Nam 
Bộ Việt Nam. Trung Bộ gồm hai tiểu vùng, Bắc 
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (BTB-DHMT) 
và Tây Nguyên gồm 19 tỉnh, thành. So với cả nước, 
diện tích Trung Bộ chiếm khoảng 45,4%, dân số 
khoảng 25,4 triệu người, chiếm 27,5%; mật độ 
dân số 155 người/km2. Bình quân mức tăng dân 
số Trung Bộ giai đoạn 2013 - 2016 là 1,10%; Bắc 
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 0,71%; Tây 
Nguyên 1,50%. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền 
Trung gồm 14 tỉnh, thành: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà 
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà 
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú 
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Khu 
vực Tây Nguyên gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, 
Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng (Tổng cục Thống 
kê, 2017c)
Nam Bộ là vùng đất phía Nam của Tổ quốc, Nam 
Bộ gồm hai tiểu vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) và Tây 
Nam Bộ1 gồm 19 tỉnh, thành. So với cả nước, diện 
tích Nam Bộ chiếm khoảng 19,4%, dân số khoảng 
34,1 triệu người, chiếm 36,7%, mật độ dân sô 563 
người/km2. Mức tăng dân số bình quân giai đoạn 
2013 – 2016 của Nam Bộ là 1,23%, Đông Nam Bộ 
2,07. Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh, thành: Bình Phước, 
Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng 
Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. 
ĐBSCL là châu thổ trù phú, là vựa lúa lớn của 
cả nước, gồm 13 tỉnh, thành: Long An, Tiền Giang, 
Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An 
Giang, Kiên Giang, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, 
Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, với tổng diện tích 
đất tự nhiên 40.576,6 km2, chiếm 12,3% diện tích 
cả nước; dân số 17.660.700 người, chiếm khoảng 
19,1% so với dân số cả nước (2016) mật độ dân 
số 433 người/km2, bình quân mức tăng dân số giai 
đoạn 2013 - 2016 khoảng 2,07% (Tổng cục Thống 
kê, 2017c).
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Nguồn nhân lực cả nước từ góc nhìn giáo 
dục 
4.1.1. Tỷ lệ đi học chung và đi học đúng tuổi
Tỷ lệ đi học là chỉ tiêu phản ánh đầu vào của 
giáo dục. Tỷ lệ đi học chung trong bài viết này được 
hiểu là số học sinh/sinh viên (không kể tuổi) đang 
tham gia vào một cấp giáo dục tính trên 100 người 
trong tuổi đến trường cấp học đó. Tỷ lệ đi học đúng 
tuổi là số học sinh/sinh viên trong tuổi đến trường 
của một cấp học đang tham gia vào cấp học đó tính 
trên 100 người trong tuổi đến trường của cấp học 
đó. Theo số liệu Bảng 1 cho thấy, trong những năm 
2011 và 2016, cả nước cơ bản đã hoàn thành phổ 
cập giáo dục bậc tiểu học (2011, đạt khoảng 89,3%; 
năm 2016, đạt khoảng 94,1%). Ở bậc học này, mức 
phổ cập khu vực đô thị và nông thôn gần tương đồng 
(năm 2011: 93,3% so với 88,0%; năm 2016: 95,9% 
so với 93,3%). Tuy nhiên, với bậc học vấn càng 
cao thì chênh lệch phổ cập giáo dục giữa đô thị và 
nông thôn càng lớn, cụ thể bậc trung học phổ thông 
(THPT) mức chênh khoảng 1,3 lần (2011); 1,2 lần 
(2016) và cao đẳng, đại học (CĐ, ĐH) khoảng 4,1 
lần (2011); 3,1 lần (2016). 
Điểm cần quan tâm hơn, có xu hướng trái chiều 
về mức độ phổ cập giáo dục giữa hai vùng đồng 
bằng lớn của cả nước. Theo đó, ở vùng ĐBSCL, 
tỷ lệ đi học chung bậc trung học cơ sở (THCS) và 
1. Hoặc Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
30 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
THPT gần như thấp nhất cả nước2. Cụ thể năm 2011 tương ứng sẽ là 78,4%; 49,3%; năm 2016: 88,2%; 
58,0%; trong khi đó đồng bằng sông Hồng tỷ lệ này lại cao nhất nước, năm 2011: 96,9%; 84,2%; năm 
2016: 99,0% và 87,8%. Điều này cho thấy, phổ cập giáo dục THCS và THPT vẫn là vấn đề đáng quan tâm 
hiện nay đối với ĐBSCL và Tây Nguyên (Bảng 1). 
Bảng 1: Tỷ lệ đi học chung và đi học đúng tuổi theo vùng KT-XH năm 2011, 2016 (%)
Tỷ lệ đi học chung Tỷ lệ đi học đúng tuổi
Tiểu học THCS THPT CĐ,ĐH Tiểu học THCS THPT CĐ,ĐH
Cả nước
2011
2016
103,0
100,2
89,3
94,1
66,8
72,0
26,9
30,5
95,3
98,0
82,5
91,4
60,2
68,9
18,2
23,8
Đô thị
2011
2016
101,6
99,7
93,3
95,9
78,6
82,1
56,2
54,2
96,7
98,3
87,7
94,3
71,7
79,1
38,4
43,6
Nông thôn 
2011
2016
103,6
100,4
88,0
93,3
62,7
67,8
13,6
17,6
94,8
97,9
80,7
90,1
56,3
64,7
9,0
13,1
Vùng KT-XH
ĐBSH
2011
2016
103,2
100,2
96,9
99,0
84,2
87,8
37,9
45,8
97,3
99,3
92,3
97,9
78,6
86,1
27,4
37,8
TD-MNPB
2011
2016
105,6
100,2
89,1
94,9
62,5
66,2
12,3
11,3
94,8
97,9
79,4
90,7
54,6
62,6
6,4
6,5
BTB-DHMT
2011
2016
103,8
99,7
92,5
96,0
68,6
75,8
23,3
27,7
96,8
98,1
85,8
93,6
62,7
72,6
16,5
21,5
Tây Nguyên
2011
2016
105,4
100,0
84,7
89,1
61,7
59,9
11,5
9,6
95,2
96,5
76,8
84,4
54,6
55,7
6,5
6,3
Đông Nam Bộ
2011
2016
102,6
100,1
90,8
94,7
67,1
73,9
42,9
43,3
96,6
98,3
84,5
92,8
60,0
70,9
29,0
34,7
ĐBSCL
2011
2016
99,7
100,7
78,4
88,2
49,3
58,0
16,7
22,8
91,2
96,9
71,1
84,5
42,5
54,2
10,3
16,9
Nguồn: Tổng hợp từ Kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2011 và 2016
4.1.2. Trình độ học vấn
Học vấn luôn được xem là một trong những nội dung quan trọng phản ánh chất lượng nguồn lực của 
mỗi quốc gia, dân tộc (Tổng cục Thống kê, 2017b). Kết quả điều tra biến động dân số 01/04/2011 và 
01/04/2016 chỉ ra một số thông tin sau. Nhìn chung, trên phạm vi cả nước trình độ học vấn của người dân 
ngày được cải thiện. Vào thời điểm 01/04/2011 tỷ lệ dân số đạt học vấn từ trung học cơ sở trở lên cả nước 
là 48,1% và đến năm 2016 tỷ lệ này nâng lên 51,2% (Bảng 2). Có sự khác biệt đáng kể về trình độ học 
vấn giữa các vùng KT-XH trong cả nước. Theo đó, vùng có mức độ phát triển cao nhất về KT-XH đồng 
thời cũng là nơi tỷ lệ người dân có học vấn cao, đó là vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Năm 
2011, tại hai vùng này, số người tốt nghiệp THPT trở lên chiếm tỷ lệ là 29,7% và 28,4% dân số của vùng; 
năm 2016 tỷ lệ này lần lượt sẽ là 36,2%; 33,0%. Ngược lại, vùng ĐBSCL và Tây Nguyên là hai vùng có 
tỷ lệ dân số chưa tốt nghiệp tiểu học cao nhất. Cụ thể năm 2011, ĐBSCL là 31,0%, Tây Nguyên 23,8%; 
năm 2016 vùng ĐBSCL là 29,9%, Tây Nguyên 21,8%. Nếu xem xét ở bậc học vấn cao nhất (tốt nghiệp 
2. Xấp xỉ khu vực Tây Nguyên.
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
31Volume 8, Issue 3
THPT trở lên) thì vùng ĐBSCL và Tây Nguyên tỷ trọng dân số đạt bậc học vấn này chiếm tỷ lệ khá thấp 
so với các vùng KT-XH trong cả nước (năm 2011, vùng ĐBSCL 10,7%; năm 2016 là 13,7%; năm 2011, 
Tây Nguyên 13,9%; năm 2016 là18,1%). 
So sánh tỷ lệ dân số ở bậc học vấn thấp nhất (chưa tốt nghiệp tiểu học) và cao nhất (tốt nghiệp trung 
học trở lên) giữa vùng ĐBSCL và cả nước sẽ chỉ ra có sự chênh lệch quá xa về trình độ học vấn của người 
dân vùng ĐBSCL so với cả nước. Năm 2011, tỷ lệ chưa tốt nghiệp tiểu học ở vùng ĐBSCL so với cả nước 
tương ứng là 31,0% so với 21,2%; tỷ lệ dân số tốt nghiệp trung học trở lên ở vùng ĐBSCL chỉ bằng một 
nửa mức chung so với cả nước (10,7% so với 21,1%). Tương tự, năm 2016 tỷ lệ chưa tốt nghiệp tiểu học 
của ĐBSCL so với cả nước 29,9% so với 20,2% và tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên tương ứng sẽ 
là 13,7% so với 26,4%. Do vậy, chúng ta có đủ minh chứng kết luận khu vực đồng bằng sống Cửu Long 
là “vùng trũng giáo dục” của cả nước (Bảng 2). Tuy nhiên, một luận điểm quan trọng cần thảo luận học 
vấn là một trong những trụ cột quan trọng nhất quyết định sự hưng thịnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều 
nghiên cứu về xã hội học, đặc biệt là những nghiên cứu về nghèo, hoặc phân tầng xã hội, cho rằng học vấn 
thấp là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói. Phân tích sâu về nhân tố trình độ học vấn, 
tác giả Lê Văn Toàn (2012) kết luận trình độ học vấn tỷ lệ thuận với vị thế xã hội của con người. Theo đó, 
học vấn càng cao thì triển vọng chiếm lĩnh những địa vị cao trong xã hội càng dễ và ngược lại, trình độ học 
vấn thấp thì sự thăng tiến sẽ khó khăn hơn. 
Bảng 2: Trình độ học vấn người dân phân theo khu vực năm 2011, 2016 (%)
Vùng KT-XH Tổng
Trình độ học vấn
Chưa
đi học
Chưa tốt 
nghiệp tiểu 
học
Tốt nghiệp 
tiểu học
Tốt nghiệp 
THCS
Tốt nghiệp 
THPT
trở lên
Cả nước
2011
2016
100,0
100,0
4,4
3,9
21,2
20,2
26,4
24,7
27,0
24,8
21,1
26,4
ĐBSH
2011
2016
TD-MNPB
2011
2016
100,0
100,0
100,0
100,0
1,6
1,2
8,6
7,9
14,5
14,5
20,3
19,8
17,3
15,4
24,1
22,7
36,9
32,8
28,1
26,1
29,7
36,2
18,9
23,5
BTB-DHMT
 2011
2016
Tây Nguyên
2011
2016
100,0
100,0
100,0
100,0
4,1
3,5
7,0
7,4
20,7
19,2
23,8
21,8
27,6
24,6
29,6
29,2
28,3
26,4
25,7
23,4
19,2
26,2
13,9
18,1
 Đông Nam Bộ
2011
2016
ĐBSCL
2011
2016
100,0
100,0
100,0
100,0
2,6
1,9
5,9
5,6
18,8
17,7
31,0
29,9
27,0
26,3
35,4
34,4
23,2
21,1
17,1
16,5
28,4
33,0
10,7
13,7
Nguồn: Tổng hợp từ Kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2011 và 2016
4.2. Nguồn nhân lực cả nước từ góc nhìn đào tạo
4.2.1. Lao động đang làm việc hiện nay theo vùng KT-XH 
Bảng 3 cung cấp bức tranh tổng thể lực lượng lao động Việt Nam giai đoạn 2010 - 2017 theo vùng KT-
XH. Bình quân lực lượng lao động Việt Nam giai đoạn này chiếm khoảng 57,5%; nghĩa là cứ 2 người dân 
thì có hơn 1 người đang làm việc; hoặc nói cách khác “hơn một người cõng một người”. Nhìn chung, tỷ lệ 
lao động đang làm việc so với tổng dân số được duy trì khá ổn định giữa các năm. Ở tại vùng ĐBSCL với 
các tiểu vùng cả nước thì tỷ trọng này cũng vẫn được giữ nguyên và phân bổ khá đồng đều giữa các vùng 
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
32 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
và tiểu vùng trên bản đồ Việt Nam (Bảng 3).
Bảng 3: Lực lượng lao động đang làm việc giai đoạn 2010 - 2016 vùng KT-XH so với dân số (%)
Vùng KT-XH
Năm
2010 2013 2014 2015 2016 2017
Cả nước 56,4 58,2 58,1 57,6 57,5 57,4
ĐBSH
TD-MNPB
56,6
60,9
57,3
63,7
56,7
63,4
56,1
63,1
55,6
62,3
57,1
62,3
BTB-DHMT
Tây Nguyên
56,3
55,1
58,9
58,7
59,5
59,4
58,5
60,3
58,2
60,4
57,1
60,2
Đông Nam Bộ
ĐBSCL
53,2
56,7
58,7
57,8
59,4
57,7
60,0
57,3
60,4
58,0
57,1
58,2
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám Thống kê Việt Nam 2016, 2017
4.2.2. Lao động đã qua đào tạo giai đoạn 2008-2017 
Lao động đã qua đào tạo là những người đã học và tốt nghiệp ở một trường lớp đào tạo chuyên môn 
kỹ thuật của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở 
lên (có văn bằng hoặc chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo) (Tổng cục Thống kê, 2017a) Lao động đã 
qua đào tạo là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Theo dõi lực lượng lao động 
đã qua đào tạo trong vòng một thập kỷ gần đây (2008 - 2017) phân theo khu vực KT-XH thì cả nước nổi 
lên mấy điểm sau. (1) Một là, nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ngày mỗi tăng. Cũng giống như phổ cập 
giáo dục, nguồn nhân lực lao động đã qua đào tạo ở Việt Nam ngày càng được cải thiện. Cụ thể, nếu như 
năm 2008 cả nước chỉ có khoảng 14,3% lao động đã qua đào tạo tay nghề thì đến năm 2017 tỷ lệ này sẽ 
là 21,4%; bình quân lao động có tay nghề cả nước gian đoạn này chiếm tỷ trọng khoảng 17,4%. (2) Hai 
là, bất bình đẳng lớn về nhân lực có chuyên môn kỹ thuật giữa các vùng KT-XH cả nước. Theo xu hướng 
phát triển, nguồn nhân lực đã qua đào tạo tay nghề ngày được cải thiện, tuy nhiên mức độ cải thiện là rất 
khác nhau giữa các vùng KT-XH trong cả nước. Xếp từ thấp đến cao lần lượt sẽ là, ĐBSCL, khoảng 9,8%; 
Tây Nguyên 12,2%; Trung du miền núi phía Bắc 15,0%; Bắc trung Bộ và Duyên hải miền Trung 16,1%; 
đồng bằng sông Hồng 23,7%; Đông Nam Bộ 22,4%; nếu so với cả nước thì chênh lệch giữa ĐBSCL với 
cả nước là 1,77 lần (17,4% so với 9,8%) (Bảng 4).
Bảng 4: Lao động đã qua đào tạo theo vùng KT-XH giai đoạn 2008-2017 (%)
Vùng KT-XH
Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014` 2015 2016 2017
Cả nước 14,3 14,8 14,6 15,4 16,6 17,9 18,2 19,9 20,6 21,4
Bắc Bộ
 ĐBSH
 TD-MNPB
15,1
18,1
12,2
17,0
20,9
13,2
17,0
20,7
13,3
17,3
21,1
13,6
19,3
24,0
14,6
20,2
24,9
15,6
20,7
25,9
15,6
22,2
27,5
17,0
22,9
28,4
17,5
21,2
25,2
17,1
Trung Bộ
 BTB-DHMT
 Tây Nguyên
12,2
13,1
11,4
12,2
13,5
10,9
11,5
12,7
10,4
12,6
14,4
10,8
13,5
14,9
12,1
14,5
15,9
13,1
14,3
16,4
12,3
16,3
19,4
13,3
16,5
20,0
13,1
17,5
20,6
14,3
Nam Bộ
Đông Nam Bộ
ĐBSCL
15,1
22,5
7,8
13,7
19,6
7,9
13,7
19,5
7,9
14,6
20,7
8,6
15,0
21,0
9,1
16,9
23,5
10,4
17,2
24,1
10,3
18,3
25,3
11,4
19,1
26,2
12,0
16,6
21,1
12,1
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám Thống kê Việt Nam 2012, 2013, 2016, 2017
4.2.3. Lao động đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc cao
Xem xét lao động đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật bậc cao (cao đẳng và đại học trở lên trong khoảng 
thời gian 5 năm (năm 2011 và 2016) nổi lên hai điểm dễ nhận thấy, 1/ lực lượng lao động này ngày có sự 
cải thiện; 2/ có sự chênh lệch đáng kể đối với lực lượng lao động này giữa các vùng và tiểu vùng trong 
cả nước. Năm 2011, cả nước chỉ có 15,6% lao động đã qua đào tạo, nhưng đến năm 2016 con số này đạt 
20,6%. Có sự chênh lệch khá xa về lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa đô thị và nông thôn; năm 
2011 mức chênh 3,3 lần (30,8% so với 9,2%); năm 2016 là 2,9 lần (37,2% so với 12,8%). Như vậy, giữa 
nam so với nữ đều chênh nhau khoảng 1,27 lần sau 5 năm (năm 2016, 23,0% so với 18,0%; và năm 2011, 
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
33Volume 8, Issue 3
17,4% so với 13,7%) (Bảng 4).
Bảng 5: Lao động đã qua đào đạt chuyên môn kỹ thuật bậc cao nhất năm 2011, 2016 (%)
Vùng KT-XH Tổng Dạy nghề Trung cấp Cao đẳng
Đại học
trở lên
Cả nước
2011
2016
15,6
20,6
4,0
5,0
3,7
3,9
1,8
2,7
6,1
9,0
Nam
2011
2016
17,4
23,0
6,0
8,0
3,3
3,7
1,3
2,1
6,8
9,1
Nữ
2011
2016
13,7
18,0
1,9
1,7
4,1
4,1
2,3
3,2
5,5
9,0
Đô thị
2011
2016
30,8
37,2
6,7
7,5
5,8
5,7
2,9
4,0
15,4
20,0
Nông thôn
2011
2016
9,2
12,8
2,9
3,8
2,8
3,1
1,3
2,0
2,2
3,9
Các vùng
TD-MNPB
2011
2016
13,9
17,5
3,9
4,0
4,5
4,0
1,9
2,7
3,6
5,9
ĐBSH 
(Không bao gồm Hà Nội)
2011
2016
17,1
28,4
6,9
7,6
3,7
4,5
2,0
3,5
4,6
12,9
Trong đó Hà Nội
2011
2016
30,7
42,7
5,5
8,8
5,7
6,0
2,5
4,0
17,0
23,9
BTB-DHMT
2011
2016
14,7
20,0
3,2
4,7
4,3
4,4
1,9
2,9
5,2
8,0
Tây Nguyên
2011
2016
11,0
13,1
2,3
2,5
3,4
3,3
1,4
1,7
3,8
5,5
Đông Nam Bộ
(Không bao gồm TP Hồ Chí Minh)
2011
2016
13,0
26,2
4,1
6,3
3,0
3,5
1,3
2,9
4,6
13,5
Trong đó TP. Hồ Chí Minh
2011
2016
28,8
34,8
6,1
6,8
3,0
3,8
2,7
3,7
17.0
20,5
ĐBSCL
2011
2016
8,6
12,0
1,8
2,6
2,4
2,5
1,0
1,4
3,4
5,4
Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm Việt Nam 2011 và 2016
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
34 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Khác biệt về lao động có tay nghề sẽ được phản 
ánh rõ hơn khi so sánh giữa vùng đồng bằng sông 
Hồng và vùng ĐBSCL. Cụ thể, năm 2011, tỷ trọng 
lao động đạt trình độ chuyên môn bậc cao tại ở vùng 
ĐBSCL chỉ 8,6%; năm 2016 đạt 12,0%; thêm nữa 
ở tất cả các nhóm trình độ chuyên môn kỹ thuật, 
vùng ĐBSCL đều chiếm tỷ lệ ở mức thấp nhất 
(năm 2016, lần lượt 2,6%; 2,5%; 1,4%; 5,4%; và 
năm 2011, 1,8%; 2,4%; 1,0%; 3,4%), trong khi đó, 
ở vùng đồng bằng sông Hồng thì hoàn toàn ngược 
lại (năm 2016 có đến 28,4% lao động có chuyên 
môn kỹ thuật; 7,6%, 4,5%, 3,5%, 12,9%; và năm 
2011 con số lần lượt là 17,1%; 6,9%; 3,7%; 2,0%; 
4,6% ). Điểm lưu ý thêm, vùng ĐBSCL là vựa lúa 
lớn nhất cả nước nhưng giáo dục mà người dân nơi 
đây đạt được không tương xứng, nhiều nghiên cứu 
đã chỉ ra ĐBSCL là vùng “trũng giáo dục” của cả 
nước (Giải, 2017; Khoa, 2015). Xét toàn diện, đồng 
bằng sông Hồng là vùng dẫn đầu cả nước về nhân 
lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại trừ ở 
bậc đại học trở lên so với vùng Đông Nam Bộ của 
năm 2016 (12,9% so với 13,5%). Điểm cần quan 
tâm hơn lao động có chuyên môn kỹ thuật tập trung 
chủ yếu tại hai trung tâm KT-XH lớn cả nước là 
thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Năm 
2016, tỷ lệ này tại Hà Nội cao gấp khoảng 2,1 lần 
so với cả nước (42,7% so với 20,6%); thành phố Hồ 
Chí Minh cao gấp khoảng 1,7 lần so với cả nước 
(34,8% so với 20,6%); tương tự như vậy, năm 2011 
con số lần lượt là khoảng 1,9 lần (30,7% so với 
15,6%); 1,8 lần (28,8% so với 15,6%). Tỷ lệ lao 
động đang làm việc đạt trình độ đại học trở lên (cao 
nhất) khá chênh nhau giữa các vùng. Theo đó, Hà 
Nội và thành phố Hồ Chí Minh là những nơi thu hút 
nhiều lao động có chất xám cao (năm 2016 tương 
ứng 23,9% và 20,5%; năm 2011 ngang nhau, đều là 
17,0%). Tuy nhiên, vấn đề quan tâm hơn đối với lao 
động đạt trình độ từ trung cấp trở lên, ĐBSCL vẫn 
thấp nhất so với các vùng trong cả nước; thấp hơn 
so với cả Trung du và miền núi phía Bắc (Bảng 5).
Kết quả thống kê và phân tích lao động đã qua 
đào tạo ở trên (Bảng 4, Bảng 5) đã cho thấy, xu 
hướng rõ nét người lao động ngày càng được trang 
bị trình độ chuyên môn kỹ thuật hơn, đặc biệt đối 
với tay nghề bậc cao (cao đẳng và đại học trở lên). 
Tuy nhiên, mất cân đối về cơ cấu đào tạo nghề thực 
sự là bài toán khó cần có chính sách điều chỉnh phù 
hợp. Trong xu hướng phát triển hiện nay, Việt Nam 
vẫn đang và sẽ còn có nhu cầu rất lớn về nguồn 
nhân lực chất lượng cao và lành nghề nhưng hiện 
nay cung chưa đáp ứng được cầu (Tổng cục Thống 
kê, 2012, 2017a). Một thách thức lớn không chỉ tại 
vùng ĐBSCL mà trên phạm vi vùng miền cả nước 
hiện nay là sở hữu về nguồn nhân lực “lao động giản 
đơn” khá lớn; lao động có trình độ chuyên môn kỹ 
thuật bậc cao và bậc trung chiếm tỷ trọng khá khiêm 
tốn trong tổng số lao động đang làm việc. Thực tiễn 
đã chứng minh lao động có kỹ năng là tiền đề quan 
trọng đối với phát triển bền vững (Tổng cục Thống 
kê, 2017a). Lao động tay nghề bậc cao ngày mỗi 
đông tuy nhiên mức tăng vẫn còn chậm. Điểm quan 
tâm hơn, có sự cách biệt khá xa và không đồng đều 
về trình độ tay nghề giữa các vùng - miền; đô thị - 
nông thôn; đặc biệt giữa các tiểu vùng. Thực trạng 
này cũng là dấu hiệu cho biết sự mất cân đối nguồn 
nhân lực giữa các vùng miền và tất yếu kéo theo 
chênh lệch mức sống dân cư (Giải, 2017); về phát 
triển KT-XH giữa các vùng KT-XH cả nước.
5. Kết luận 
Trong nghiên cứu này nổi lên một số phát hiện 
và thảo luận chính cần quan tâm: Nguồn nhân lực ở 
vùng ĐBSCL nói riêng và các tiểu vùng cả nước nói 
chung ngày được cải thiện. Tuy nhiên, tỷ lệ nguồn 
nhân lực này chưa được trang bị tay nghề khá cao, 
đây thực sự là thách thức và rào cản lớn đối với sự 
phát triển KT-XH. Tại Việt Nam chất lượng nguồn 
nhân lực không đồng đều và có độ chênh khá lớn 
giữa các vùng, tiểu vùng KT-XH. Theo đó, chất 
lượng nguồn nhân lực vùng Đông Nam Bộ tốt hơn 
so với khu vực Tây Nam Bộ; vùng đồng bằng sông 
Hồng tốt hơn Trung du miền núi phía Bắc; vùng 
Bắc Trung Bộ - Duyên hải miền Trung tốt hơn khu 
vực Tây Nguyên; vùng đồng bằng sông Hồng tốt 
hơn vùng ĐBSCL. Chênh lệch về giáo dục và đào 
tạo là một trong những nguyên nhân quan trọng làm 
mất cân đối về chất lượng nguồn nhân lực giữa các 
vùng, đồng thời kéo theo sự bất bình đẳng trong 
phát triển KT-XH giữa các vùng. 
Làm thế nào để rút ngắn, hạn chế chênh lệch 
chất lượng nguồn nhân lực giữa các vùng KT-XH. 
Đây là cả vấn đề lớn của quốc gia, dân tộc, chính 
vì vậy, việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật 
cho người dân thông qua giáo dục và đào tạo không 
chỉ là trách nhiệm của chính phủ, chính quyền địa 
phương, của cộng đồng, của xã hội mà mỗi gia đình, 
mỗi cá nhân không ngừng nỗ lực học tập, nâng cao 
năng lực chuyên môn để lập nghiệp, góp phần vào 
sự phát triển bền vững chung của đất nước và toàn 
xã hội. Điều quan trọng hơn vấn đề cấp bách hiện 
nay, về mặt vĩ mô Chính phủ cần nghiên cứu và tìm 
ra được chính sách giáo dục và đào tạo đột phá, hiệu 
quả hơn nhằm hóa giải cho vấn đề này.
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
35Volume 8, Issue 3
SOME ISSUES ABOUT HUMAN RESOURCES IN OUR COUNTRY 
UNDER EDUCATION AND TRAINING VIEW
Nguyen Quang Giai
Thu Dau Mot University
Email: nguyenquanggiai@yahoo.com
Received: 23/7/2019
Reviewed: 3/8/2019
Revised: 12/8/2019
Accepted: 25/9/2019
Released: 30/9/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/325
Abstract
Determining the survival and development of each nation, 
ethnicity depends on many resources, including Human force 
resources is the most important. This study exploits the data set 
on human resources in recent years of the Statistics Department 
General of Vietnam aims to identify and discuss the current 
situation human resources of socio-economic regions throughout 
the country. The quality of human resources of socio-economic 
regions in the country increasingly improved but still at a low 
level. So do how to shorten the difference, gradually improve 
the human resources quality of the whole country meet the cause 
of industrialization, modernizing the country, integration and 
development are the responsibility about the nation, the ethnicity 
and the whole society
Keywords
Human resources; Education and training; Social – economic 
region
Tài liệu tham khảo
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (1994). Phát 
triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước và xây dựng giai cấp công nhân 
trong giai đoạn mới. Truy cập ngày 29/3/ 
2018, từ Nghị quyết số 07-NQ/HNTW Hội 
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng (khoá VII), ngày 30/07/1994; website: 
kien/tu-lieu-ve-dang/sach-ve-cong-tac-
dang/doc-222320173451856.html
Giải, N. Q. (2017). Chênh lệch về mức sống dân 
cư qua dữ liệu các cuộc điều tra mức sống 
hộ gia đình Việt Nam 2006 - 2014. Tạp chí 
Khoa học Xã hội TP Hồ Chí Minh, 9(299), 
30–39.
Giải, N. Q. (2018). Tình hình kinh tế - xã 
hội năm 2017. Truy cập 15/5/2019, 
từ https://www.gso.gov.vn/Default.
aspx?tabid=621&idmid=&ItemID=18668
Khoa, D. Đ. (2015). Đào tạo nhân lực ở đồng 
bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải 
pháp. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 
21(31), 78–81.
Toàn, L. V. (2012). Phân tầng xã hội ở Việt Nam 
trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế 
thị trường và hội nhập quốc tế. Hà Nội: Nxb. 
Chính trị quốc gia - Sự thật.
Tổng cục Thống kê. (2012). Báo cáo Điều tra 
lao động việc làm năm 2011. Hà Nội: Nxb. 
Thống kê.
Tổng cục Thống kê. (2017a). Báo cáo Điều tra 
lao động việc làm năm 2016. Hà Nội: Nxb. 
Thống kê.
Tổng cục Thống kê. (2017b). Kết quả điều tra 
biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời 
điểm 01/04/2016. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
Tổng cục Thống kê. (2017c). Niên giám Thống 
kê Việt Nam 2016. Hà Nội: Nxb. Thống kê.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_nguon_nhan_luc_cua_nuoc_ta_duoi_goc_nhin_gi.pdf