Một vài suy nghĩ về diễn ngôn sư phạm trong giảng dạy tiếng Pháp
TÓM TẮT
Xuất phát từ những thông tin quan sát được trên thực tế, tác giả trình bày những suy nghĩ của mình về
việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trên lớp. Trước hết, bài viết điểm lại quá trình hình thành của khái
niệm diễn ngôn sư phạm, sau đó đề cập các chức năng của loại diễn ngôn này theo lý thuyết về hành
vi ngôn ngữ của Austin. Song song với việc trình bày lý thuyết, tác giả đưa ra các khuyến cáo dựa trên
các kết quả dự giờ của giảng viên Việt Nam và Pháp với hy vọng việc làm này sẽ có ích cho việc đổi mới
phương pháp giảng dạy tiếng Pháp
Bạn đang xem tài liệu "Một vài suy nghĩ về diễn ngôn sư phạm trong giảng dạy tiếng Pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một vài suy nghĩ về diễn ngôn sư phạm trong giảng dạy tiếng Pháp
10 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Để thực hiện nhiệm vụ của mình, người giáo viên ngoại ngữ cần làm chủ phương pháp giảng dạy. Các ứng xử sư phạm trên lớp thể hiện chủ yếu thông qua hai yếu tố: cử chỉ và lời nói. Cử chỉ là việc sử dụng có chủ ý một số bộ phận cơ thể, chủ yếu là cánh tay và bàn tay phục vụ cho mục đích sư phạm. Yếu tố thứ hai được thể hiện bằng lời để truyền đạt kiến thức và hướng dẫn học sinh hoạt động, trong giáo học pháp người ta gọi là diễn ngôn sư phạm (DS). DS có vai trò hết sức quan trọng vì mọi giao tiếp trên lớp đều được tiến hành bằng phương tiện này. Thêm vào đó là đặc thù của lớp học tiếng: việc dạy-học một ngôn ngữ mới được thực hiện qua chính ngôn ngữ đó (nó vừa là mục đích, vừa là phương tiện). Do vậy giáo viên cần quan tâm tới vấn đề này. Việc nghiên cứu DS trong giảng dạy tiếng Pháp cho đối tượng người Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ. Trong khuôn khổ của một nghiên cứu về DS (Nguyễn Việt Quang, 2014), chúng tôi đã tiến hành MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ DIỄN NGÔN SƯ PHẠM TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG PHÁP NGUYỄN VIỆT QUANG Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội TÓM TẮT Xuất phát từ những thông tin quan sát được trên thực tế, tác giả trình bày những suy nghĩ của mình về việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trên lớp. Trước hết, bài viết điểm lại quá trình hình thành của khái niệm diễn ngôn sư phạm, sau đó đề cập các chức năng của loại diễn ngôn này theo lý thuyết về hành vi ngôn ngữ của Austin. Song song với việc trình bày lý thuyết, tác giả đưa ra các khuyến cáo dựa trên các kết quả dự giờ của giảng viên Việt Nam và Pháp với hy vọng việc làm này sẽ có ích cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy tiếng Pháp. Từ khóa: diễn ngôn giáo khoa, diễn ngôn sư phạm, hành vi ngôn ngữ, phương pháp giảng dạy quan sát một số giờ dạy, trong đó có giờ do giáo viên người Pháp thực hiện ở Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội. Xét thấy những điều đã quan sát được cũng là những vấn đề chung có thể xảy ra ở những đơn vị đào tạo khác, nên chúng tôi mạnh dạn trình bày những suy nghĩ của mình trong bài viết này. Trước hết, chúng tôi điểm lại quá trình hình thành khái niệm DS, sau đó đề cập các chức năng của DS theo lý thuyết về hành vi ngôn ngữ của Austin, đồng thời đưa ra các khuyến cáo dựa trên các quan sát dự giờ đã nói ở trên. 2. KHÁI NIỆM DIỄN NGÔN SƯ PHẠM Diễn ngôn sư phạm (Discours pédagogique) là một nhánh của giao tiếp trên lớp, một trường hợp đặc biệt của giao tiếp ngoại ngôn (communication exolingue). Trong 20 năm vừa qua, giao tiếp ngoại ngôn đã được một số nhà ngôn ngữ học và lý luận dạy học nghiên cứu. Nhưng các công trình đều đề cập DS ở mức độ khái quát, và nhiều khi còn có sự nhầm lẫn giữa DS với diễn ngôn giáo khoa (Discours didactique). 11KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Tài liệu nghiên cứu khá chi tiết DS là tạp chí Langages số 45 xuất bản năm 1977. Tạp chí đã dành riêng số này để công bố các nghiên cứu về DS với tiêu đề Formation des discours pédagogiques (Sự hình thành của các loại diễn ngôn sư phạm). Trong lời giới thiệu, C. Désirat và T. Hordé nhận xét rằng, loại diễn ngôn này có một vị thế đặc biệt và là đối tượng của hai hướng nghiên cứu (Desirat c., Horde t., 1997). Theo hướng thứ nhất, DS chỉ các văn bản trong sách giáo khoa, các bài viết của học sinh, các lời chỉ dẫn của giáo viên, các báo cáo thanh tra, v.v. Ở nghĩa này, DS (dùng ở số nhiều) đối lập với diễn ngôn phản bác, tranh luận và với diễn ngôn khoa học. Khuynh hướng thứ hai coi DS (dùng ở số ít) chỉ là một trong những dạng của diễn ngôn giáo khoa mà đặc điểm nổi bật là không có các chủ thể phát ngôn (câu không có chủ ngữ cụ thể, có thể được phát ra bởi X hoặc Y). Như vậy, khái niệm DS có một trường nghĩa rất rộng, và qua đó ta cũng thấy có một sự chồng chéo giữa diễn ngôn sư phạm và diễn ngôn giáo khoa. Bảy năm sau vào năm 1984, trong lĩnh vực lý luận dạy học, C. Kramsch cho xuất bản một nghiên cứu rất đầy đủ về Tương tác và diễn ngôn trong lớp học ngoại ngữ (Interaction et discours dans la classe de langue (Kramsch C., 1984/1996). Theo Kramsch, những điều kiện tâm lý và xã hội của những năm 80 thế kỷ trước đã khiến các nhà giáo học pháp quan tâm tới nội dung của diễn ngôn sử dụng trong lớp học ngoại ngữ. Diễn ngôn được quan niệm như sản phẩm của một quy trình trao đổi giữa hai hay nhiều tác nhân trong một tình huống giao tiếp cụ thể, nó cần được đặt trong mạng lưới các tương tác cá nhân và xã hội. Trong giảng dạy, để chuyển tải một nội dung nào đó, người dạy cần sử dụng diễn ngôn phù hợp với điều kiện và trình độ của người học. Ở đây DS được đối lập với nội dung giảng dạy, nhưng tác giả cũng không đưa ra một định nghĩa cụ thể. Sự phân biệt giữa diễn ngôn sư phạm và diễn ngôn giáo khoa chỉ được thực hiện một cách tường minh trong luận án tiến sĩ của Burlinska năm 2012 “Diễn ngôn sư phạm trong đào tạo ban đầu giáo viên ngoại ngữ (Le discours pédagogique dans la formation initiale des enseignants de langues étrangères)”. Theo đó, diễn ngôn giáo khoa liên quan đến nội dung chương trình, giáo trình, v.v. Nội dung là một khối lượng kiến thức tương đối cố định cần truyền tải tới người học. Còn diễn ngôn sư phạm là diễn ngôn tương tác được thực hiện qua các trao đổi trên lớp. “Diễn ngôn sư phạm là một sản phẩm tương tác bằng lời để giao tiếp và thực hiện một nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nó có một cấu trúc nội tại liên quan đến thể loại diễn ngôn được sử dụng và tuân thủ một sự tình có kết cấu động, và có khả năng thực hiện các hoạt động tri nhận quan trọng, nó được đặt trong một ngữ cảnh cụ thể mà nó vừa phụ thuộc vừa chi phối” (Burlinska W., 2012). Trong định nghĩa trên, tác giả đã nhấn mạnh tới khía cạnh tương tác, cấu trúc nội tại và ngữ cảnh của DS, nhưng vẫn chưa bao quát hết toàn bộ nội dung và phương tiện diễn đạt. Chúng tôi đề nghị đưa thêm vào nội dung của DS các sản phẩm viết, và vào phương tiện diễn đạt các phương tiện ngoại lời vì cả hai yếu tố trên đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp trên lớp. Như vậy, diễn ngôn sư phạm là tất cả những gì do giáo viên tạo ra dưới dạng nói hay viết để thực hiện một hành động giáo dục và đào tạo. Ở dạng nói, nó được hỗ trợ bởi cử chỉ và các biểu hiện của cơ thể, dạng viết được thể hiện ở trên bảng và trên giấy trong bài làm của người học. Cũng cần nói thêm là việc mở rộng khái niệm diễn ngôn sư phạm sang lĩnh vực viết là hoàn toàn phù hợp với quá trình tiến triển của khái niệm diễn ngôn. Sausure là người đầu tiên phân biệt ngôn ngữ (langue) và diễn ngôn (discours). Diễn ngôn là sự hiện thực hóa ngôn ngữ, là ngôn ngữ trong hành động. Trong một thời gian khá lâu, diễn ngôn chỉ dùng cho các sản phẩm nói, đối lập với văn bản (texte), diễn ngôn thuộc lĩnh vực nói còn văn bản thuộc lĩnh vực viết. Ngày nay sự phân biệt nói/viết đang có xu hướng biến mất. Ở mục từ “văn bản”, Từ điển lý luận dạy học tiếng Pháp đã nêu ra 13 thể loại bao gồm cả văn bản viết và văn bản nói: hội thoại, tọa đàm, tranh luận, tham vấn, xét hỏi, bài báo, quảng cáo, văn bản chuyên ngành,... (Cuq J.-P.(Dir), tr.73). 3. CHỨC NĂNG Dưới góc độ của ngữ dụng thì DS là tập hợp các hành động lời nói (acte de langage). Như chúng ta biết, Austin đã xây dựng một lý thuyết chung về lời nói trong hành động. Khi ta đưa ra một phát ngôn hướng tới ai và nhằm một mục đích nào đó là đã thực hiện ba hành động: hành động tạo lời, hành động tại lời và hành động bởi lời (Austin, J.-L., 1962). Chúng tôi nghĩ có thể sử dụng lý thuyết của Austin để xác định chức 12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY năng của DS bởi lẽ mỗi hành động trên lớp đều được xây dựng trên cơ sở tuân thủ những quy luật chung về ngôn ngữ, nhằm thực hiện một “việc” và để lại một “hiệu quả” nào đó ở người học. 3.1. Chức năng tạo lời (locutoire) Như nói ở trên, trong giảng dạy ngoại ngữ, ngôn ngữ đích cũng là ngôn ngữ giao tiếp trên lớp. Thông qua và bằng lời nói của mình người dạy giúp người học tiếp thu một phương tiện giao tiếp mới. Do vậy, DS phải có tính khuôn mẫu để người học noi theo. Tạo lời tức là xây dựng các phát ngôn theo các quy luật của ngôn ngữ, điều này được thể hiện ở ba bình diện chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. 3.1.1. Về mặt ngữ âm Nếu DS là vỏ vật chất của phương pháp sư phạm, thì ngữ âm là vỏ vật chất của DS. Việc tạo lời phải được tiến hành chuẩn xác cả về cấu âm và cách sử dụng các yếu tố siêu ngữ đoạn. Ở đây cần lưu ý tới ảnh hưởng tiêu cực của tiếng mẹ đẻ. Những âm chỉ có ở tiếng nước ngoài như các âm mũi /ɑ̃ ɔ ̃ ɛ ̃ œ̃/ trong tiếng Pháp có thể gây khó khăn, nhưng không “nguy hiểm”, bởi lẽ lúc đầu người học có thể không phát âm chính xác nhưng dần dần họ sẽ đạt được. Cái khó là ở các âm gần giống, phần tương đồng dễ cho ảo tưởng là phát âm đúng. Ví dụ, /g/ và /ɤ/ đều là hữu thanh, nhưng /g/ là một phụ âm tắc (occlusive) trong tiếng Pháp, còn /ɤ/ là phụ âm xát (fricative) trong tiếng Việt (Đoàn Thiện Thuật, 1997). Khi phát ra âm này ở trạng thái riêng lẻ giáo viên có thể phân biệt, nhưng đặt trong một chuỗi câu sự nhầm lẫn dễ xảy ra, nhất là trong các từ gần giống tiếng Pháp như ga, ga tầu (đã được Việt hóa từ gare trong tiếng Pháp). Rất có nhiều khả năng từ gare trong Je vais à la gare được phát âm với /ɤ/ và sau đó không có phụ âm cuối /r/. Chúng tôi còn nhận thấy xu hướng nhầm lẫn /g/ với /r/, một âm ngạc hữu thanh, ví dụ, thay vì “conjuguez” họ nói “conjurez”. Xu hướng càng rõ hơn khi /g/ ở liền kề với /r/ như trong các từ Roland Garros, calendrier grégorien và garroter. Cái sai của người dạy tất sẽ dẫn đến cái sai của người học. Quan sát cho thấy sự nhầm lẫn về âm này còn dai dẳng ở một số giáo viên. Về mặt ngữ âm thì các giáo viên bản ngữ có ưu thế hơn nhiều, chúng ta cần quan sát để điều chỉnh cho phù hợp. 3.1.2. Về mặt ngữ pháp Theo cách phân chia truyền thống, ngữ pháp bao gồm từ pháp và cú pháp. Đối với người Việt Nam, trong số 9 loại từ của Từ pháp tiếng Pháp, động từ gây nhiều khó khăn nhất, đặc biệt là việc dùng thời, thể. Cú pháp quan tâm đến hoạt động của các hình vị trong câu và các dạng câu, và cũng gây không ít khó khăn. Dưới đây chúng tôi xin nêu hai ví dụ. a) Cách đặt câu hỏi Trong các loại câu (tường thuật, mệnh lệnh, nghi vấn, cảm thán), câu nghi vấn chiếm vị trí quan trọng. Câu hỏi cho phép người dạy hiểu rõ tình hình của lớp, nắm được những hiểu biết của người học liên quan đến nội dung của bài sắp học, giảng những vấn đề mới và cuối cùng là đánh giá được mức độ tiếp thu của họ. Đây là các câu hỏi “thực”: nó giúp người hỏi có thêm thông tin về một vấn đề mà mình chưa biết. Ngoài ra còn có câu hỏi “giả”. Để điều hành lớp, giảng viên phải thường xuyên đưa ra các yêu cầu; về lý thuyết chúng được diễn đạt bằng câu mệnh lệnh, ví dụ, Lisez le texte! Nhưng trong thực tế để giảm bớt căng thẳng, người ta mềm hóa yêu cầu đó bằng một câu hỏi Pouvez-vous lire le texte? Trong tiếng Pháp có ba cách đặt câu hỏi: dùng ngữ điệu lên giọng, dùng đặc ngữ est-ce que và đảo chủ ngữ. Câu hỏi trong tiếng Việt được thể hiện qua các từ để hỏi (phần lớn đặt ở cuối), và không có đảo chủ ngữ: – Bạn thấy điều đó thế nào? – Có bao nhiêu văn bản ở đó? – Người ta có thể thấy các văn bản lập luận ở đâu? Qua quan sát chúng tôi thấy, dưới ảnh hưởng của cấu trúc tiếng Việt “chủ ngữ + động từ + phải không?” một số giảng viên có xu hướng lạm dụng dùng câu hỏi lên giọng (đôi khi kèm theo cụm n’est-ce pas ở cuối), và như vậy hầu như loại bỏ câu hỏi đảo chủ ngữ. Dự một số giờ của giảng viên bản ngữ thì thấy ngược lại: cả ba loại câu hỏi đều được sử dụng, trong đó có đảo chủ ngữ: – Pourquoi avez-vous trouvé ça intéressant? – / donc euh / combien y a-t-il de textes? 13KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v – Où trouve-t-on les textes argumentatifs / informatifs surtout? Do vậy, không nên dùng quá nhiều câu hỏi lên giọng. Cũng xin nói thêm là cách đặt câu hỏi lên giọng (không đảo chủ ngữ) không phải luôn luôn được chấp nhận với nhiều người Pháp. Julien Lepers, người dẫn chương trình Questions pour un champion trên đài truyền hình Pháp đã kể câu chuyện sau: Trong một lần ghi hình qua phiếu khán giả tôi thấy ứng viên rất yêu mến vùng Aquitaine (nơi có thành phố Arcachon xinh đẹp nằm trên bờ biển Đại Tây Dương), tôi đã đặt câu hỏi “Vous vivez à Arcachon?” Ngày hôm sau tôi nhận được một bức thư ký tên Isabelle R. ở Saint-de-Malbert: “Khi dẫn một chương trình văn hóa, thưa ông, người ta không nói như vậy!” Do mệt nên tôi đã quên những gì nói hôm trước. Liệu có phải tôi đã nói “Habitez-vous à Arcachon?” thay vì “Vous habitez à Arcachon?” Tôi tiếp tục đọc thư, Isabelle viết: “Ông có bị méo mồm đi khi nói “Vivez-vous à Arcachon?” mà không phải là “Vous vivez à Arcachon?” như tất cả các quý ông-bà ngu dốt mà người ta đã tuyển chọn vào đài truyền hình, ngay cả đến cách đặt một câu hỏi mà họ cũng không biết?” Isabelle có thể dùng những lời lẽ nhẹ nhàng hơn, nhưng tôi không phản đối nội dung bức thư (Lepers J., 2011). b) Dùng thời quá khứ khi cần thiết Việc dùng thời, thể trong tiếng Pháp luôn là một vấn đề khó đối với người Việt Nam, bởi hiện tượng này không tồn tại trong tiếng Việt. Có trường hợp giáo viên chỉ sử dụng thời hiện tại của thức trực thuyết (indicatif ) ngay cả đối với các hành động quá khứ: Et tu n’écris pas ici?/Mais tu es toujours en retard/c’est pas seulement aujourd’hui/mais mardi/tu es déjà en retard. Ở đây cần phải dùng hai động từ “écrire” và “être” ở thời quá khứ kép (Em đã không viết vào đây, Hôm thứ ba vừa rồi em đã đến muộn). Khi quan sát giáo viên người Pháp thì thấy hoàn toàn khác. Để nhắc lại bài hôm trước, người bản ngữ nói: – Alors vous avez été intéressés par le dossier un / Oui? (Bài 1 đã làm cho các bạn hứng thú không?) – Quelles ont été vos impressions?/ / (rire) Pourquoi avez-vous trouvé ça intéressant? (Các bạn đã có cảm giác như thế nào? Tại sao các bạn đã thấy điều đó lý thú?) Các động từ intéresser, être, trouver được dùng ở thời quá khứ kép thức trực thuyết. Cũng như vậy khi bình luận về câu trả lời của sinh viên: – Hmm/ vous avez trouvé que ça changeait/ ça vous a changé des autres thèmes/ des autres façons de penser (faire signe avec la main)/ Un peu? (Bạn đã thấy là điều đó đã thay đổi.) – J’ai bien aimé ton expression. (Tôi đã rất thích cách diễn đạt của bạn.) Trong văn nói, người ta có thể dùng thời hiện tại để diễn tả các hành động tương lai: nous faisons une promenade au parc = nous allons faire une promenade au parc (chúng tôi sắp đi dạo trong công viên), nhưng với các hành động đã qua thì phải dùng thời quá khứ (trừ trong các tác phẩm văn học, khi tác giả muốn làm sống lại ở hiện tại một chuỗi hành động quá khứ). Trong giao tiếp trên lớp cũng vậy, ví dụ, khi hỏi một sinh viên đã bị ốm như thế nào thì phải dùng Qu’est-ce que vous avez eu? (Bạn đã làm sao vậy?) chứ không phải Qu’est-ce que vous avez? Tóm lại, DS cũng phải tuân thủ các quy tắc dùng thời, thể trong tiếng Pháp. 3.1.3. Về mặt từ vựng Mỗi ngôn ngữ tồn tại dưới nhiều cấp độ: cấp độ trang trọng, cấp độ thông dụng, cấp độ thân mật, cấp độ suồng sã. DS phải được dùng ở cấp độ thông dụng (langue courante). Điều này có vẻ là một sự thật hiển nhiên, nhưng thực tế không luôn đúng như vậy. Vì giao tiếp giữa người dạy và người học trên lớp chủ yếu được thực hiện dưới dạng nói nên người ta dễ chuyển từ thông dụng sang thân mật hoặc suồng sã. Việc lạm dụng dùng từ quoi (cái gì) như trong Quoi? hay Tu dis quoi? thay vì những câu hỏi thông dụng: Que dis-tu? Qu’est-ce que tu dis? (Em nói điều gì vậy) là một ví dụ. Cũng như vậy đối với trường hợp các từ voiture và bagnole, caisse. Từ voiture thuộc cấp độ ngôn ngữ thông dụng, trong khi đó hai từ bagnole và caisse thuộc cấp độ ngôn ngữ thân mật. Ngoài việc nhầm lẫn về cấp độ ngôn ngữ, trong quá trình dự lớp chúng tôi còn ghi nhận một số lỗi về cách sử dụng từ. Sau đây là hai ví dụ: – Về nghĩa: passant/ passager. Từ đầu chỉ người đi bộ 14 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY đi dạo (personne qui passe à pied dans un lieu, dans une rue), trong khi đó passager chỉ hành khách đi tàu đi xe... (personne transportée à bord d‘un navire, d‘un avion, d‘une voiture...). Do vậy, khi nói về cụ bà đang đi trong một con phố thì phải dùng La grand-mère est une passante (không phải là passagère). – Về giới từ: S’opposer et protester contre la décision du maire (chống lại và phản đối quyết định của thị trưởng). Việc dùng giới từ sau động từ cũng là một vấn đề khó, cần phải ghi nhớ máy móc, ví dụ: s’opposer à, essayer de, lutter contre. Nếu hai động từ có cùng giới từ và cùng bổ ngữ, khi đi liền nhau ta chỉ dùng giới từ một lần: On proteste et lutte contre cette invasion. Nhưng nếu mỗi động từ có một giới từ riêng thì cần dùng đầy đủ cả hai. Câu trên phải được chữa như sau: s’opposer à la décision du maire et protester contre elle. Vậy khi sử dụng DS, ta phải cân nhắc lựa chọn từ đúng nghĩa và đúng cách dùng; khi giao tiếp trên lớp các sai sót có thể qua đi vì “lời nói gió bay”, nhưng trong các văn bản viết (ví dụ, lời phê vào bài làm, nhận xét công trình khoa học...) thì chúng tồn tại lâu dài trên “giấy trắng mực đen” có khả năng ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức mới của người học, và uy tín của người dạy. Ngoài ra, cần tránh các tật ngôn ngữ (des tics de langage), tức việc dùng lạm dụng một từ nào đó. 3.2. Chức năng tại lời (illocutoire) Mọi thao tác tạo lời đều nhằm gây một tác động nào đó tới người nghe. Austin đã viết “quand dire, c’est faire”, tức khi người ta nói không phải chỉ là để nói mà là để làm một việc gì đó. Có thể nói đây là tính mục đích của phát ngôn. DS của giáo viên trên lớp phải hướng vào một mục đích sư phạm cụ thể. Theo L. Dabène, người giáo viên trên lớp có ba chức năng chính: Cung cấp thông tin cho người học (informateur); Tổ chức các hoạt động sư phạm (meneur de jeu); Đánh giá (évaluateur) (Dabène L., 1984). Ba chức năng này tạo ra cấu trúc giao tiếp trong lớp học ngoại ngữ và được thực hiện thông qua một loạt các hoạt động siêu ngôn ngữ thể hiện qua DS. Chức năng thông tin, liên quan đến việc truyền tải kiến thức, bao gồm kiến thức về ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) và kiến thức về văn hóa. Ngày nay kiến thức văn hóa rất được chú trọng; văn hóa là tất cả những gì tạo nên nét riêng của một cộng đồng như phong tục tập quán, cách sinh hoạt, tác phẩm văn học, công trình kiến trúc,... Tất cả những điều đó cần được thể hiện từng bước trong bài học thông qua DS. Chức năng tổ chức, dẫn dắt được thực hiện thông qua việc quản lý các hoạt động sư phạm và điều tiết lời nói. Có thể nêu ba thao tác chính: thao tác điều tiết (opérations de ponctuation de l‘échange), thao tác kích ngôn (opérations d‘incitation à la prise de parole) và thao tác cảnh báo (opérations de mise en garde). Trong các thao tác trên, việc dẫn dắt người học đi vào nội dung bài, phát hiện kiến thức mới là rất quan trọng. Ngày nay việc dạy học không còn một chiều theo cách thầy giảng trò nghe, mà là hướng dẫn người học tự khám phá kiến thức. Lời nói của giảng viên phải đi theo hướng gợi mở, dẫn dắt như: Pour comprendre l’idée principale du texte, basez-vous sur les mots en gras (để hiểu được ý chính của bài hãy dựa vào những từ in đậm); hoặc Vous êtes dans la bonne voie, continuez (các em đi đúng hướng rồi, tiếp tục đi). Về chức năng đánh giá, như ta đã biết mọi giao tiếp trong lớp học đều được thực hiện qua tam giác sư phạm gồm ba yếu tố: giảng viên hỏi (Question), sinh viên trả lời (Réponse), giảng viên kết thúc bằng việc đánh giá (Évaluation). Công việc đánh giá rất quan trọng vì nó kết thúc một đoạn giao tiếp và mở ra một đoạn mới. Nó thường được tiến hành thông qua ba thao tác: đánh giá (opération évaluative), điều chỉnh (opération corrective) và chuyển giai đoạn (ouverture sur un nouvel échange). Trước hết người dạy phải thể hiện quan điểm của mình trước sản phẩm của người học (khen hoặc chê, đồng ý hay không đồng ý), sau đó phải đưa ra các điều chỉnh tùy theo mức độ chính xác của sản phẩm, cuối cùng là thao tác chuyển sang một giai đoạn giao tiếp mới. Điều cần lưu ý ở đây là dù chất lượng sản phẩm do người học đưa ra như thế nào, việc đánh giá phải đi theo hướng tích cực. Phải coi những lỗi của người học là điều tất yếu, là thành tố tự nhiên của quá trình học tập. Lời nói của người dạy chủ yếu phải mang tính chất khen ngợi, động viên. Những câu như sau cần được thường xuyên sử dụng: Une excellente idée (Một ý tưởng tuyệt vời). 15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Vous avez raison (Em hoàn toàn có lý). Vous avez très bien compris, n’hésitez pas (Em đã hiểu rất đúng, đừng ngần ngại). 3.3. Chức năng bởi lời (perlocutoire) Chức năng bởi lời là chức năng tạo ra hiệu quả ở người nghe. Khi phát ra một phát ngôn, người nói luôn mong tạo ra ở người nghe một hiệu quả nào đó sau khi nghe lời nói của mình. Chức năng bởi lời ở đây khác với chức năng tại lời ở trên. Khi nói Maintenant, nous allons commencer la séance, ouvrez le livre à la page X (Bây giờ chúng ta bắt đầu bài học, mở sách ra ở trang X), người dạy đã thực hiện một hành động tại lời. Đó là thông báo với lớp là buổi làm việc đã bắt đầu và yêu cầu người học mở sách ra ở trang X. Còn chức năng bởi lời là hiệu quả mà người học có được sau khi nghe câu đó. Có thể là vui mừng phấn khởi được bắt đầu một bài học mới, điều này có thể là do cách nói mạch lạc rõ ràng cộng với một vẻ mặt tươi vui của giáo viên; cũng có thể là buồn chán vì lại phải làm việc với một giáo viên mà họ không thích, lý do không thích là do phương pháp phi sư phạm cộng với một thái độ quá nghiêm khắc thể hiện qua DS. Các hiệu quả do chức năng bởi lời tạo ra tác động đến người nghe hết sức khác nhau, không có tính quy ước (Đỗ Thị Kim Liên, 2014). Chúng phụ thuộc vào ý đồ và thái độ của người nói và trạng thái tâm lý của người nghe. Trong bối cảnh của tình hình giảng dạy tiếng Pháp ở Việt Nam hiện nay (không còn được mở rộng như thời kỳ tổ chức Hội nghị cấp cao các nước nói tiếng Pháp năm 1997), người dạy cần tạo ra ở người học hai hiệu quả chính: hứng thú đối với bộ môn tiếng Pháp và khả năng tự chủ trong học tập. Phương pháp sư phạm thể hiện qua DS phải góp phần vào việc hình thành hai “hiệu quả” này. Hứng thú trong học tập có thể được tạo ra bằng nhiều cách: vị thế của môn học trong xã hội, nội dung sách giáo khoa, môi trường giảng dạy, phương pháp sư phạm, v.v. Ba yếu tố đầu nhìn chung vượt ra khỏi quyền quyết định của người dạy, chỉ có yếu tố thứ tư là nằm trong tầm kiểm soát của họ. Người dạy hoàn toàn có khả năng điều chỉnh phương pháp sư phạm thông qua DS của mình để nâng cao hứng thú của người học. Một cách ứng xử quá “cứng” như quở trách người học khi không làm bài tập trong ví dụ sau cần tránh. -: . Tu n’as pas fait l’exercice à la maison? Sinh viên: Non. -: Pourquoi non? Sinh viên: // -: Pourquoi non? Sinh viên: -: Parce que Sinh viên: -: En vietnamien / pourquoi tu n’as pas fait l’exercice à la maison? Sinh viên: -: Tu peux parler plus fort? Sinh viên: Hôm qua em có việc. - Hôm qua em có việc // La prochaine fois, il faut faire attention Bởi vì bạn đã không phải là giỏi rồi / đúng không / cho nên mình phải làm bài ở nhà nếu mình muốn hiểu cô / ça va? -: . Em đã không làm bài tập ở nhà? Sinh viên: Không ạ. -: Tại sao lại không? Sinh viên: // -: Tại sao lại không? Sinh viên: -: Bởi vì Sinh viên: -: Hãy nói bằng tiếng Việt / Tại sao em đã không làm bài tập ở nhà? Sinh viên: -: Em có thể nói to thêm được không? Sinh viên: Hôm qua em có việc. - Hôm qua em có việc // La prochaine fois, il faut faire attention Bởi vì bạn đã không phải là giỏi rồi / đúng không / cho nên mình phải làm bài ở nhà nếu mình muốn hiểu cô / ça va? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không làm bài tập, cũng có thể do khách quan hoặc chủ quan. Trong trường hợp này, trước hết người giảng viên phải có thái độ thông cảm, tìm cách giúp sinh viên hòa nhập vào bài mới. Điều toát lên từ đoạn “tra hỏi” trên là một sự quở trách với ý đồ làm mất thể diện của sinh viên trước lớp. Khi sinh viên không thể đưa ra một lời giải thích có giá trị, giảng viên yêu cầu “Em có thể nói to thêm được không?”, và cuối cùng kết thúc bằng việc tuyên bố trước lớp “Bạn đã không phải là giỏi rồi / đúng không”. Tất cả những việc đó không thuộc DS của giáo học pháp mới, cần loại bỏ. 16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 4. KẾT LUẬN Hình thành khả năng tự chủ của người học là một trong những mục tiêu chính của giáo dục hiện đại. Công việc của người dạy là giảng dạy, và công việc của người học là học tập. Người dạy không thể học thay vị trí của người học. Mục đích của người dạy là giúp người học có được năng lực tự học. Cần cung cấp cho người học các công cụ cho phép họ trở thành người học chủ động, biết cách tự phát triển các kỹ năng nhận thức, nói cách khác là biết học cách học. Một sinh viên được đào tạo tốt là người biết cách học. Người dạy cần có những chiến lược phù hợp để phát huy năng lực tự học của người học. DS phải được thai nghén và hiển ngôn phục vụ cho mục đích trên. Nếu như trước kia người ta chỉ chú trọng chức năng thông tin của giảng viên, ngày nay chức năng tổ chức các hoạt động sư phạm rất được đề cao. Hy vọng việc làm sáng tỏ chức năng của DS sẽ có ích cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy tiếng Pháp, đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới về hoạt động của giảng viên trên lớp./. Tài liệu tham khảo: 1. Austin, J.-L. (1962), How to do thing with words, Cambridge (Mass) Havard University Press, p.5. 2. Burlinska W. (2012), Le discours pédagogique dans la formation initiale des enseignants de langues étrangères, thèse de doctorat, Uniwersytet Im. Adama Mickiewicza Wpoznaniu, Poznan. 3. Cuq J.-P. (Dir) (2003), Dictionnaire de didactique du français, Paris, CLE International. 4. Dabène L. (1984), “Communication et métacommunication dans la classe de langue étrangère” in INTERACTIONS les échanges langagiers en classe de langue, ouv. coll. de l’Université des Langues et Lettres de Grenoble, Grenoble. 5. Desirat C., Horde T., “Formation des discours pédagogiques”, Langages, n° 45. 6. Kramsch C. (1984/1996), Interaction et discours en classe de langue, Hatier/Didier. 7. Lepers J. (2011), Les fautes de français? Plus jamais! Michel Lafon. 8. Đỗ Thị Kim Liên (2014), Ngôn ngữ học đại cương, NXB Đại học Quốc gia. 9. Nguyễn Việt Quang (2004), Étude du discours pédagogique dans l’enseignement de la compréhension écrite, Cas du Département de Langue et de Culture Françaises de l’ULEI – UN de Hanoi. Thèse de doctorat, Université Nationale de Hanoi, (1977) . 10. Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. A FEW THOUGHTS ON PEDAGOGICAL DISCOURSE IN TEACHING FRENCH NGUYEN VIET QUANG Abstract: Basing on classroom observations, the author presents his perspectives on the teachers’ use of classroom language. The article first reviews the formation of the term “pedagogical discourse”, and then covers different functions of this discourse type according to Austin’s speech act theory. In addition to theoretical presentation, the author also suggests his implications deriving from observing both Vietnamese and French teachers’ lessons. This aims to contribute to the reform of French language teaching in Vietnam. Keywords: didactic discourse, pedagogical discourse, speech act, teaching methodology Ngày nhận: 05/9/2016 Ngày phản biện: 19/9/2016 Ngày duyệt đăng: 20/9/2016
File đính kèm:
- mot_vai_suy_nghi_ve_dien_ngon_su_pham_trong_giang_day_tieng.pdf