Múa trong sân khấu Dù Kê – Nét độc đáo của nghệ thuật múa Khmer Nam Bộ
Tóm tắt
Người Khmer Nam Bộ có một nền nghệ thuật vô cùng đặc sắc với đủ các loại hình âm nhạc, múa, hát và
sân khấu. Nổi bật là các điệu múa được đem biểu diễn trong sinh hoạt, trong các lễ hội và trong sân khấu
chuyên nghiệp của người dân Khmer. Trải qua nhiều năm tháng, kho tàng ngôn ngữ múa Khmer Nam Bộ
ngày càng phong phú, đa dạng và tinh tế. Điều đó, được thể hiện rõ nét khi nhiều chất liệu múa Khmer
truyền thống được sử dụng trong sân khấu Dù Kê và đóng một vai trò quan trọng trong các vở diễn.
Bạn đang xem tài liệu "Múa trong sân khấu Dù Kê – Nét độc đáo của nghệ thuật múa Khmer Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Múa trong sân khấu Dù Kê – Nét độc đáo của nghệ thuật múa Khmer Nam Bộ
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017 112 Múa trong sân khấu Dù Kê – Nét độc đáo của nghệ thuật múa Khmer Nam Bộ Dance in Du Ke theater – The Uniqueness of The Southern Khmer Dance Art ThS. Trần Thị Lan Hương, Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh TP.HCM Tran Thi Lan Huong, M.A., Ho Chi Minh City Academy of Theatre and Cinema Tóm tắt Người Khmer Nam Bộ có một nền nghệ thuật vô cùng đặc sắc với đủ các loại hình âm nhạc, múa, hát và sân khấu. Nổi bật là các điệu múa được đem biểu diễn trong sinh hoạt, trong các lễ hội và trong sân khấu chuyên nghiệp của người dân Khmer. Trải qua nhiều năm tháng, kho tàng ngôn ngữ múa Khmer Nam Bộ ngày càng phong phú, đa dạng và tinh tế. Điều đó, được thể hiện rõ nét khi nhiều chất liệu múa Khmer truyền thống được sử dụng trong sân khấu Dù Kê và đóng một vai trò quan trọng trong các vở diễn. Từ khóa: ngôn ngữ múa Khmer Nam Bộ, sân khấu Dù Kê. Abstract The people of Southern Khmer have a very interesting art foundation with various types of music, dance, song and theater. It is highlighted with dances that were performed in everyday activities, in festivals and in the professional theaters of the Khmer people. Throughout the ages, the Southern Khmer archive in dance language became more abundant, diverse and delicate. This is clearly demonstrated with many traditional dance materials used in Du Ke theater, playing an important part in a lot of plays. Keywords: the Southern Khmer dance language, Du Ke theater. 1. Vài nét khái quát về sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ Có thể nói, Dù Kê là loại hình sân khấu ca kịch dân tộc, đã thu nạp rất nhiều các yếu tố nghệ thuật của sân khấu Rô Băm, Dì Kê, Triều Châu, Cải lương... Kịch bản của sân khấu Dù Kê đa dạng và phong phú về các đề tài, từ truyện cổ Riêm Kê (dựa theo cốt truyện Ramayana của Ấn Độ) đến các đề tài dân gian, lịch sử, tôn giáo, xã hội như “Mối tình Bô Pha – Rạng Xây”, “Bông hồng Trà Vinh” và có cả những vở Tuồng tích của người Hoa như “Tiết Nhơn Quý”, “Tam Tạng thỉnh kinh” hay một số vở từ sân khấu Cải lương như “Tấm Cám”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Thạch Sanh - Lý Thông” Vở diễn đầu tiên của Dù Kê đã đi vào lòng ngườì yêu sân khấu Dù Kê là “Riêm kê”, một dạng kịch bản kế thừa từ sân khấu cổ điển Rô Băm. Với ưu điểm có nhiều tích truyện gần gũi với nhân dân, đặc biệt là những đề tài phản ánh cuộc sống xã hội hiện đại luôn làm phong phú nội dung biểu hiện của thể loại sân khấu kịch hát Dù Kê. Vì vậy, nghệ thuật sân khấu Dù Kê luôn đồng hành cùng với đời sống người dân Khmer nói riêng và TRẦN THỊ LAN HƯƠNG 113 đồng bào vùng Nam Bộ nói chung gần một thế kỷ qua. Người Khmer, người Việt cả người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đều có thể cùng đi xem Dù Kê, bởi Dù Kê được sáng tạo do nhu cầu tự thân của cư dân vùng đất này, dù cho họ có gốc gác từ đâu, thuộc tộc người nào. Dù Kê là “đứa con đẻ” của người dân ĐBSCL, nó được người dân nơi đây đón nhận, yêu thích và nuôi dưỡng cho tới ngày hôm nay. Sân khấu Dù kê là sân khấu biểu diễn kết hợp đa loại hình nghệ thuật: ca, múa, nhạc, diễn xuất, hóa trang, xử lý đạo cụ, kỹ thuật âm thanh, ánh sáng Vì vậy, một vở diễn Dù kê muốn thành công, đòi hỏi phải có sự nỗ lực và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, kỹ thuật, chỉ huy đêm diễn Các diễn viên Dù Kê chuyên nghiệp là người biết xử lý các động tác múa, đạo cụ linh hoạt và sáng tạo không chỉ theo nội dung kịch bản mà theo âm nhạc và cảm hứng của vai diễn. Vũ đạo, vũ thuật trong sân khấu Dù Kê có những đặc điểm riêng, đó là những vũ đạo và vũ thuật được lấy từ võ thuật dân tộc và đã được sân khấu hóa, đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Căn cứ vào các đặc điểm nghệ thuật cơ bản trên của sân khấu Dù Kê, giới chuyên môn đều thống nhất xếp sân khấu Dù Kê thuộc kịch chủng sân khấu kịch hát dân tộc. Tóm lại, trong nghệ thuật sân khấu Dù Kê có sự pha trộn của nhiều yếu tố nghệ thuật từ các loại hình nghệ thuật sân khấu kịch hát khác nhau, đó là kết quả bởi quá trình giao lưu với các tộc người khác cùng chung sống tại Nam Bộ. Nhưng điều đáng nói là, mặc dù thu nạp vào mình nhiều yếu tố nghệ thuật của các các loại hình nghệ thuật sân khấu như vậy, nhưng nghệ thuật sân khấu Dù Kê vẫn có bộ mặt riêng, nét đặc trưng riêng của nó. Và khi xem, người ta vẫn nhận biết ngay đấy là sân khấu Dù Kê của người Khmer Nam Bộ. 2. Nghệ thuật Múa trong sân khấu Dù Kê Trong sân khấu kịch hát dân tộc: ca, múa, nhạc luôn đóng một vai trò quan trọng để truyển tại nội dung vở diễn. Sân khấu kịch hát Dù Kê của người Khmer Nam Bộ cũng vậy, ngoài những yếu tố chính như ca, nhạc thì múa đóng một vị trí quan trọng trong các vở diễn của sân khấu này. Cùng là sân khấu của người Khmer Nam Bộ nhưng sân khấu Rô Băm: với các tuồng tích về vua, hoàng tử, công chúa nên các chất liệu múa chỉ có các động tác múa Khmer cổ điển. Ngược lại, sân khấu Dù Kê: với các nội dung kịch bản phong phú và đa dạng nên các chất liệu múa cũng vô cùng đa dạng và phong phú, tùy vào nội dung vở diễn là tích cổ, dân gian hay hiện đại mà sân khấu Dù Kê lựa chọn cho mình những chất liệu múa Khmer truyền thống phù hợp. Tuy kịch bản trong sân khấu Dù Kê tiếp nhận từ nhiều sân khấu khác nhau, nhưng những chất liệu múa được sử dụng trong các vở diễn chủ yếu được lấy từ múa truyền thống Khmer Nam Bộ: Đó là những điệu múa dân gian vô cùng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt của người dân nơi đây như: Rom Vông, Rom Lêu, Saravan, Rom Kbach...; các điệu các điệu múa trong lễ hội, trong lao động như: múa trống Chhay Dăm, múa gáo dừa, múa xúc tép; các điệu múa cổ điển Khmer: múa Chhu Chhay, múa chúc mừngđều được phát huy trong các vở diễn của sân khấu Dù Kê. Hiện nay, trước khi vào vở diễn chính thức, sân khấu Dù Kê thường có khoảng 30 phút biểu diễn ca, múa, nhạc. Các bài hát dân ca, hiện đại bằng tiếng Khmer và tiếng Việt MÚA TRONG SÂN KHẤU DÙ KÊ – NÉT Đ C ĐÁO CỦA NGH THUẬT MÚA KHMER NAM B 114 đều được biểu diễn để phục vụ đông đảo các các khán giả của nhiều dân tộc tại vùng đất ĐBSCL. Kết thúc chương trình thường là những điệu múa dân gian Khmer tập thể. Đây là những điệu múa có tiết tấu nhanh, vui nhộn nhằm tạo được không khí vui tươi, sôi nổi, hấp dẫn và lôi cuốn khán giả. Hiện nay, các vở diễn trong sân khấu Dù Kê chủ yếu vẫn là các vở tích cổ, với những nội dung xoay quanh thiện chống ác và bao giờ thiện cũng thắng ác. Ở các vở diễn này, bên cạnh ca/nhạc, múa luôn hiện hữu và đồng hành trong các vở diễn làm cho vở diễn hấp dẫn hơn, lôi cuốn hơn. Múa trong sân khấu Dù Kê đa dạng ở các hình thái biểu diễn như: múa tập thể gây không khí, múa minh họa, múa diễn tả tính cách nhân vật, múa các con vật Nhưng nhìn chung vẫn là hai loại múa chính: “Múa minh họa, gây không khí” và “Múa tính cách nhân vật”. Múa minh họa, gây không khí: Múa gây không khí thường là những điệu múa/đoạn múa tập thể, tạo nên một vẻ đẹp đồng đều, sinh động và hấp dẫn. Các động tác múa thường gần gũi với đời sống hàng ngày của người dân, không cách điệu, không mang tính ước lệ tượng trưng nhiều như các điệu: múa gõ gáo, múa xúc tép, múa khua chài, múa vui mùa sản xuất Loại múa này thường dùng để mở màn hay kết thúc vở diễn. Tùy theo nội dung của vở, sẽ có những đoạn múa minh họa cho vai diễn, cảnh diễn: Múa minh họa trong vở tích cổ “Bản tình ca Phanh Nha - Sô Pheap” Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh. Ảnh chụp: Trần Thanh Tâm múa minh họa trong vở “Bản tình ca Phanh Nha - Sô Pheap” - Đoàn NT Khmer Ánh Bình Minh Trà Vinh. Ảnh chụp: Trần Thanh Tâm TRẦN THỊ LAN HƯƠNG 115 Dù trong vở diễn với nội dung tích cổ hay vở diễn phản ánh cuộc sống trong chiến tranh, hòa bình, xây dựng đất nước thì các điệu múa minh họa, gây không khí vẫn luôn được phát huy, làm cho vở diễn thêm phần hấp dẫn, lôi cuốn khán giả. Sân khấu Dù Kê là sân khấu của người dân Khmer sinh ra, gìn giữ và phát triển. Vì vậy, các điệu múa dân gian truyền thống phổ biến như: Rom Vông, Rom Lêu, Saravan, Rom Kbach, Chhu Chay, Rom Môs, Room Chôk, Trống Chhay Dăm, gáo dừa, các động tác vũ đạo, vũ thuật đều được sân khấu Dù Kê sử dụng triệt để mỗi khi nội dung vở diễn phù hợp. Tóm lại, múa minh họa và múa gây không khí cho vở diễn Dù Kê đã luôn tận dụng triệt để các chất liệu múa truyền thống Khmer Nam Bộ, nó đã góp phần phát huy và gìn giữ vốn múa truyền thống dân tộc mình ngay trong sân khấu kịch hát này. Ngoài ra, sân khấu Dù Kê còn tiếp nhận các vũ đạo, vũ thuật của cải lương, hát Tiều và võ thuật dân tộc, từ đó biến hóa thành ngôn ngữ riêng cho sân khấu của mình với nhiều nhóm lớn, nhỏ. NSƯT Sơn Lương có viết: “Vũ đạo, vũ thuật là một đặc điểm riêng có của sân khấu Dù Kê, mà không hề tìm thấy hoặc giống bất cứ loại hình sân khấu nào khác của đồng bào Khmer Nam Bộ” [3, tr.174]. Đây cũng chính là sự tìm tòi, góp thêm những chất liệu mới, múa mới của sân khấu Dù Kê. Cùng với các chất liệu múa truyền thống Khmer, các động tác vũ đạo, vũ thuật trong sân khấu Dù Kê đã góp phần làm phong phú hơn kho tàng ngôn ngữ múa minh họa, múa gây không khí trong các vở diễn của sân khấu này. Múa thể hiện tính cách nhân vật: Tuy sân khấu Dù Kê không sử dụng ngôn ngữ múa nhiều như sân khấu Rô Băm, nhưng do các vở diễn theo các tích cổ, thần thoại còn chiếm một lưu lượng lớn trên sân khấu này nên ngoài múa minh họa/gây không khí, múa trong sân khấu Dù Kê còn có những động tác, những quy định riêng dành cho các vai diễn nhằm thể hiện rõ hơn tính cách nhân vật. Giống với sân khấu Rô Băm, sân khấu Dù Kê cũng chia nhân vật thành hai nhóm: Thiện và Ác. Các động tác múa cho các nhân vật vai Thiện và Ác thường lấy chiều cao của vai làm chuẩn để phân biệt: Động tác múa giành cho vai Thiện thường thấp hơn về chiều cao (ngang hoặc thấp hơn vai) và nhỏ hơn về chiều ngang nhằm thể hiện sự khiêm tốn, nhường nhịn nhưng quyết đoán. Các động tác múa cho vai Ác thường cao hơn về chiều cao (cao hơn vai) và rộng hơn về bề ngang nhằm thể hiện tính cách ngang tàn, xấc xược... Ngoài các động tác múa dành riêng cho nhóm nhân vật Thiện – Ác, các động tác múa thể hiện tính cách nhân vật trong sân khấu Dù Kê đã đạt tới đỉnh cao của ngôn ngữ biểu hiện với vai diễn Chằn. Vai Chằn trong sân khấu Dù Kê tượng trưng cho cái “Ác” và có những vũ đạo riêng. Những vai Chằn đã có phép thuật, động tác vũ đạo thường phức tạp và kỹ thuật hơn. Các động tác tay bao giờ cũng giơ rộng, cao hơn vai, thể hiện sức mạnh hơn người. Còn với những vai Chằn không có phép thuật hoặc Chằn con, quân sỹ Chằn chỉ múa những động tác đơn giản. Do kịch bản sân khấu Dù Kê rất đa dạng và phong phú vì vậy vai Chằn cũng muôn màu, muôn vẻ: Chằn trong các vở kháng chiến chống Mỹ: là những vai diễn như: lính Mỹ, lính ngụy; trong các vở phản ánh cuộc sống nông thôn là: cường MÚA TRONG SÂN KHẤU DÙ KÊ – NÉT Đ C ĐÁO CỦA NGH THUẬT MÚA KHMER NAM B 116 hào, ác bá; trong cuộc sống hiện tại là: những tên cướp, tham quan Dù vai Chằn ở trong nhiều vai diễn với nhiều đối tượng phản ánh khác nhau nhưng vẫn có một điểm chung là đại diện cho cái Ác. Đó cũng là một nét đặc trưng của sân khấu Khmer nói chung và sân khấu Dù Kê nói riêng.Vai Chằn trong sân khấu Dù Kê không đeo mặt nạ mà hóa trang màu trực tiếp trên mặt. Trước kia, mặt Chằn chỉ hóa trang hai màu cơ bản là: đen, trắng. Sau này, thêm màu xanh lá và màu đỏ. Cách vẽ mặt Chằn trong sân khấu Dù Kê gần giống với hóa trang của “kép núi”, “kép phiên” trong sân khấu hát Bội của người Việt và Hồ Quảng của người Hoa. Cặp nanh dài, nhọn đầy hung dữ là một điểm nhấn quan trọng trên khuôn mặt Chằn: Chằn nữ thì vẽ răng nanh trực tiếp trên mặt, còn Chằn nam đeo răng nanh thật (nanh heo) để tăng thêm tính hung ác, dữ tợn của vai diễn đặc sắc này. Việc sử dụng chiếc răng nanh thật là cả một nghệ thuật vô cùng hấp dẫn và lôi cuốn người xem. Đây là một kỹ thuật khó. Nghệ sĩ Thạch Đa Ra, diễn viên đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng, người có 17 năm múa vai Chằn và đã đạt huy chương vàng cho vai diễn chia sẻ: “Để sử dụng được chiếc răng nanh thật, anh đã được ba mẹ cho tập từ khi mới 10 tuổi và đạo cụ lúc đó là những trái đậu đũa”. Cùng với việc sử dụng cơ mặt rất linh hoạt, chiếc răng nanh cũng được thể hiện vô cùng tài tình: lúc chìa ra, khi thụt vào; lúc chĩa lên, khi chọc xuống: Nghệ sĩ Thạch Đa Ra “ Trong vai Chằn Krông Riếp” - Đoàn Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng. Ảnh chụp: Lan Hương Với việc diễn xuất khuôn mặt vô cùng linh hoạt và sinh động, vai Chằn còn đem đến cả một tổng thể ngôn ngữ hình thể (múa, vũ đạo, vũ thuật), tạo nên một vai diễn đầy mạnh mẽ, hung dữ và hấp dẫn người xem. Vai diễn Chằn trong sân khấu Dù Kê rất đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc. Chất liệu múa cho vai Chằn nam và Chằn nữ cũng đa dạng và phong phú với các động tác múa tay không, múa với đạo cụ (gậy thần, đao, kiếm). Chằn nam cũng có rất nhiều vai diễn, TRẦN THỊ LAN HƯƠNG 117 nhưng đặc sắc nhất vẫn là vai Vua Chằn hay Yeak Krông Riếp. Đây là vai diễn quy tụ đầy đủ những kỹ thuật hình thể qua: các động tác múa, vũ đạo, vũ thuật đặc biệt là kỹ thuật xử dụng răng nanh và diễn xuất cơ mặt. Đặc biệt, trước khi Yeak Krông Riếp xuất hiện trên sân khấu, người xem đã nghe thấy 3 tiếng hú vang vọng, gầm thét, đầy hung dữ từ xa vọng lại. Sự xuất hiện của vai diễn, tạo cho người xem sự tò mò ngay từ khi chưa xuất hiện và lôi cuốn người xem đến hết vở diễn bởi: + Kỹ thuật diễn xuất: ánh mắt hung tợn; cơ mặt linh hoạt. + Kỹ thuật sử dụng răng nanh: lúc lật lên, chúc xuống; lúc biến mất vào trong miệng, lúc lại chĩa ra ngoài. + Kỹ thuật múa: nhảy, quay, đá chân + Kỹ thuật vũ đạo khi sử dụng vũ khí như: gậy thần, đao, kiếm Các động tác múa, vũ đạo, vũ thuật của vai diễn Chằn cũng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, các diễn viên sân khấu Dù Kê từ trước tới nay vẫn quen học theo cách truyền nghề truyền thống của người Khmer. Vì vậy, các động tác chưa có tên và cũng chưa có hệ thống giáo trình đào tạo cơ bản. Qua nhiều lần đi điền dã, sưu tầm, tác giả bài viết đã khai thác được một số động tác múa cơ bản của Yeak Krông Riếp (Vua Chằn): + Múa tay không (9 động tác): Kbach Đơ Chinh; Kbach Sa Đăm; Kbach Puông; Kbach Đot Thoi; Kbach Tot Chhaquên; Kbach Tot Sađam; Kbach Chháp Chhót; Kbach Som Đel Rich; Kbach Chốt Chi. + Múa với đạo cụ gậy thần (5 động tác): Kbach Puông Kanh Đầm Bon; Kbach Đot Thoi; Kbach Tot Chhaquên; Kbach Tot Sađam; Kbach Chhap Đom Bon; Kbach Chốt Chi. Những động tác trên được đúc kết từ những động tác hay tổ hợp động tác hay được sử dụng trong vai diễn này. Động tác múa trong vai Chằn Krông Riếp chủ yếu là các động tác với các tư thế tay cao, rộng; các bước chân rộng chắc với các kỹ thuật nhảy, quay nhằm thể hiện sức mạnh hơn người. Để diễn tốt được vai diễn Yeak Krông Riếp, người diễn viên phải tập luyện rất nhiều. Có thể nói, đây là vai diễn khó nhất về kỹ thuật biểu diễn hình thể cũng như kỹ thuật diễn xuất trong sân khấu Dù Kê. Hay nói cách khác, độ khó của vai diễn này cũng chính là sự thành công của người diễn viên khi thể hiện tốt vai diễn. Chằn nữ trong sân khấu Dù Kê gọi là Yeak Kâynây. Ngôn ngữ múa Chằn nữ trong sân khấu Dù Kê phong phú hơn sân khấu Rô Băm. Có lẽ vì các vở diễn trong sân khấu Rô Băm ít vai Chằn nữ, nên vai diễn này do nam đóng và động tác múa cũng giống Chằn nam. Còn trong sân khấu Dù Kê, vai Chằn nữ vẫn do nữ đóng và cũng có nhiều động tác múa riêng cho vai Chằn nữ. Động tác múa cơ bản Chằn nữ (mới sưu tầm) có: + Múa tay không (7 động tác): Kbach Pa Rê Kala; Kbach Hô; Kbach Tot Chhaquên; Kbach Tot Sađam; Kbach On Cuôi; Kbach Pa KRông Riếp; Kbach Salap Sach; Kbach Chop. + Múa với đạo cụ gậy thần (7 động tác): Kbach Canh Đom Bon Tâu Pơrây; Kbach Vi Đom Bon; Kbach Hôl; Kbach Tot Chhaquên; Kbach Tot Sađam; Kbach On Cuôi; Kbach Bun Chhua; Kbach Đơ. MÚA TRONG SÂN KHẤU DÙ KÊ – NÉT Đ C ĐÁO CỦA NGH THUẬT MÚA KHMER NAM B 118 Các động tác múa vai Chằn nữ thường là những động tác với: khung tay thoáng và rộng; các thế chân thường trụ trên một chân (co chân, đá chân, chân bước lùi sau nhún xuống) nhằm thể hiện tài năng và sức mạnh rộng lớn của Chằn nữ. Các động tác múa kỹ thuật khó về đá chân và nhảy, quay cũng có như của nam nhưng số lượng ít hơn và độ khó cũng thấp hơn. Trang phục vai diễn phù hợp với nội dung của vở, không cách điệu nhiều. Vai diễn Chằn nữ đòi hỏi người diễn viên ngoài việc múa tốt các động tác kỹ thuật, thì việc diễn xuất để thể hiện được tính cách của vai ác cũng vô cùng quan trọng. Đó cũng chính là nép đẹp và hấp dẫn của vai diễn Yeak Kâynây. Tuy sân khấu Rô Băm và Dù Kê đều có vai diễn Chằn trong các vở diễn, đều có ngôn ngữ múa riêng nhằm thể hiện tính cách của nhân vật ác. Nhưng chất liệu múa Chằn Dù Kê khác với Chằn Rô Băm do Chằn của sân khấu Rô Băm là sự tiếp biến Chằn từ sân khấu Campuchia, còn Chằn trong sân khấu Dù Kê lại chịu nhiều ảnh hưởng của sân khấu Hồ Quảng của người Hoa và Cải lương của người Việt. Nhận định về vấn đề này, có một số tác giả như Thạch Thị Omnara viết: “Vai Chằn cũng là một trong những vai chịu ảnh hưởng của các loại hình sân khấu Hồ Quảng và Cải lương. Đây là một vai rất đặc biệt trong các vở diễn về những tích cổ. Chằn trong vở Dù Kê khác Chằn trong múa cổ điển” [5, tr.193]. Hay NSƯT Sơn Lương viết: “Lối biểu diễn động tác vũ đạo, vũ thuật trong giao chiến của các nhân vật Chằn ảnh hưởng khá nhiều của động tác hát Tiều” [3, tr.217]. Sự khác biệt của những dòng văn hóa – nghệ thuật khác nhau đã cho vai diễn Chằn của sân khấu Rô Băm và sân khấu Dù Kê có được những chất liệu múa khác nhau để thể hiện vai diễn này . Vai diễn Chằn luôn là vai diễn chính của các vở diễn trong sân khấu Dù Kê. Qua vai diễn này, kho tàng nghệ thuật múa của sân khấu Dù Kê càng thêm phong phú, đa dạng với nhiều thể loại và hình thức múa. Tóm lại, sân khấu Dù Kê tuy không xử dụng ngôn ngữ múa là ngôn ngữ chính của vở diễn như sân khấu Rô Băm. Nhưng sự xuất hiện của các điệu múa trước vở diễn, trong vở diễn hay múa tính cách nhân vật (Chằn) cũng đủ nói lên vai trò quan trọng của nghệ thuật múa trong sân khấu Dù Kê. Với khối lượng các động tác, các điệu múa tập thể minh họa, gây không khí hay múa tính cách nhân vật, sân khấu Dù Kê đã đóng góp một phần đáng kể cho nghệ thuật múa truyền thống của người Khmer nói riêng và nghệ thuật múa dân tộc Việt Nam nói chung. Đó là một kho tàng văn hóa phi vật thể vô cùng quý giá mà chúng ta phải có trách nhiệm nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ và bảo lưu. Hiện nay, một số trường đào tạo tại Trà Vinh, Sóc Trăng và Thành phố Hồ Chí Minh đã có giáo trình dạy múa Khmer truyền thống nhằm đáp ứng cho việc gìn giữ và phát huy múa truyền thống Khmer nói chung và cho sân khấu Dù Kê nói riêng. Điều đó đã thể hiện được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, của các đơn vị đào tạo cho sự phát triển lâu dài. Tuy nhiên, để sân khấu Dù Kê được phát triển trong thời kỳ hội nhập, để các điệu múa truyền thống Khmer vẫn sống mãi trong nhân dân và trên sân khấu Dù Kê, chúng ta cần phải quan tâm đào tạo nguồn nhân lực một cách tổng thể trên nhiều phương diện cho sân khấu Dù Kê trong đó có múa Dù Kê . TRẦN THỊ LAN HƯƠNG 119 3. Đào tạo nguồn nhân lực cho sân khấu Dù Kê. Đào tạo nguồn nhân lực cho sân khấu Dù Kê là một trong những bước quan trọng cho sự tồn tại của sân khấu này. Để có được một đội ngũ làm công tác chuyên môn tốt từ: biên kịch, đạo diễn, diễn viên, nhạc công đáp ứng nhu cầu thực tế, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào công tác đào tạo nguồn nhân lực. Việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sân khấu Dù Kê nói riêng và nghệ thuật sân khấu Khmer nói chung đòi hỏi phải có một đội ngũ giảng viên có trình độ: có phương pháp sư phạm tốt, có trình độ chuyên môn bảo đảm theo yêu cầu thực tiễn. Để đáp ứng được điều đó, theo tôi cần phải tiến hành các bước: - Cần đưa ra những kế hoạch cụ thể và khả thi: + Thành lập Ban xây dựng đề án “Đào tạo nguồn nhân lực cho sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ từ nămđến năm” gồm những người có chuyên môn và kinh nghiệm tốt, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo miền Tây Nam Bộ (tập trung tại hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng). - Triển khai các vấn đề: + Xây dựng giáo trình giảng dạy + Tổ chức những lớp tập huấn cho giảng viên sẽ về đào tạo tại các trường, các đoàn, các chùa để có được những kiến thức cơ bản cho việc truyền nghề tại các đơn vị và địa phương. Cần kết hợp tốt giữa đào tạo chính quy tại các trường nghệ thuật chuyên nghiệp với đào tạo truyền nghề tại gia đình và tại các chùa ở phum, sóc. + Mở các lớp bồi dưỡng,nâng cao cho các nhà biên kịch và đạo diễn đang làm nghề của sân khấu Dù Kê. + Tuyển sinh các lớp đào tạo diễn viên Dù Kê ngắn hạn và dài hạn cùng những lớp chuyên ngành có liên quan đến sân khấu như: nhạc cụ dân tộc, biên kịch, đạo diễn sân khấu Trong quá trình đào tạo, chú ý tập trung đào tạo tài năng trong đào tạo đồng đều để tìm ra những nhân tố tốt cung cấp cho sân khấu Khmer. + Có chế độ đãi ngộ đặc biệt với những học sinh đi học các ngành này (Nhà nước bao cấp học phí 100%) Tóm lại, Việc đào tạo nguồn nhân lực cho sân khấu Dù Kê là vấn đề cấp thiết, tránh để cho sân khấu bị mai một hoặc suy yếu mới quan tâm. Việc gìn giữ, bảo lưu và phát huy nghệ thuật truyền thống dân tộc không phải là trách nhiệm của riêng một ai. Sự đồng thuật giữa các cấp, các ngành, các cơ sở đào tạo cùng với tình yêu nghệ thuật vốn có của người dân Khmer chắc chắn sân khấu Dù Kê nó riêng và sân khấu Khmer Nam Bộ nói chung sẽ phát huy tốt vốn văn hóa truyền thống dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Hiện nay, Trường Trung cấp Văn hóa - Nghệ thuật Trà Vinh đã đào tạo được 2 khóa diễn viên cho sân khấu Dù Kê. Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh; Đoàn nghệ thuật Khmer Sóc Trăng; Trường Đại học Trà Vinh; Trường Trung cấp Múa Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đưa vào giảng dạy những động tác, điệu múa Khmer cổ điển và dân gian cho học sinh/sinh viên. Ngoài những nơi đào tạo chính quy, chùa Khmer cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc đào tạo và gìn giữ những giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc của người dân Khmer. Đây là những đơn vị đào tạo chính nguồn nhân lực cho sân khấu Rô Băm và Dù Kê Khmer Nam Bộ, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu thị MÚA TRONG SÂN KHẤU DÙ KÊ – NÉT Đ C ĐÁO CỦA NGH THUẬT MÚA KHMER NAM B 120 hiếu ngày càng cao của khán giả trong thời kỳ hội nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Tâm Anh (2015), Hình tượng Chằn (YAK) trong văn hóa Khmer Nam Bộ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 2. Lê Ngọc Canh (2013), Nghệ thuật múa truyền thống Khmer Nam bộ, Đề tài NCKH cấp Bộ, Hà Nội. 3. Sơn Lương (2012), Tìm hiểu nghệ thuật sân Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng (Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 2000), Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng xuất bản. 4. Nhiều tác giả (1998) Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ, Sở Văn hóa Thông tin Sóc Trăng và Phân viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại TP. HCM xuất bản. 5. Nhiều tác giả (2013), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam bộ - Di sản văn hóa dân tộc”, tổ chức tại Trường Đại học Trà Vinh, ngày 11 - 12/11/2013. Ngày nhận bài: 12/6/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017
File đính kèm:
- mua_trong_san_khau_du_ke_net_doc_dao_cua_nghe_thuat_mua_khme.pdf