Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ: Bảo tồn và phát triển

Tóm tắt

Bài viết giới thiệu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ như là một loại hình nghệ thuật sân

khấu mới, vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt độc đáo, được hình thành và phát triển ngày

càng rõ nét trên địa bàn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng từ những năm 20 thế kỷ XX. Hiện nay, sân khấu Dù

kê đang thiếu trầm trọng các kịch bản đương đại để dàn dựng; thiếu đội ngũ đội soạn giả, đạo diễn, diễn

viên, nhạc công trẻ để kế thừa, trong khi các thế hệ nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer đã lớn tuổi; đặc biệt cả

nước chưa có trường đào tạo hệ chính quy, chuyên ngành diễn viên và nhạc công sân khấu Dù kê nên

loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê rất có nguy cơ bị mai một, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp

nhằm bảo tồn và phát triển sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ

pdf 6 trang yennguyen 4160
Bạn đang xem tài liệu "Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ: Bảo tồn và phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ: Bảo tồn và phát triển

Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ: Bảo tồn và phát triển
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014138 Soá 13, thaùng 3/2014 139
thành một tác phẩm hoàn chỉnh kết hợp với diễn 
xuất của đội ngũ diễn viên là lực lượng sinh viên 
– cán bộ có tâm huyết của Nhà trường trong Liên 
hoan Nghệ thuật Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ 
lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 11 năm 2013 
tại Sóc Trăng. Sân khấu Dù kê - Lakhôn Bassắc 
ngày nay không ngừng phát huy sáng tạo cái mới, 
cái hay dựa trên nền cũ để loại hình nghệ thuật 
dân tộc Khmer trở nên mới mẻ và hấp dẫn nhưng 
vẫn rất đặc trưng cho vùng đất Nam Bộ giàu nghĩa 
tình này. 
4. Kết luận
Kho tàng văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer 
là một giá trị độc đáo riêng trong ngôi nhà văn hóa 
Việt Nam. Từ đó, việc giữ gìn và phát huy vốn giá 
trị văn hóa ấy luôn nhận được sự quan tâm của 
Đảng và Nhà nước. Nhưng do giá trị văn hóa cộng 
đồng dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng nên 
gặp phải nhiều vướng mắc trong lúc thực thi, cụ 
thể chưa đáp ứng đúng mục tiêu như mong đợi. Vì 
trước xu thế hội nhập, các trào lưu văn hóa mới 
ồ ạt tiếp biến mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư 
nên việc giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hóa 
truyền thống dân tộc trong giai đoạn hiện nay cần 
phải có một chiến lược bền vững. Hội thảo “Nghệ 
thuật Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản 
văn hóa dân tộc” được tổ chức tại Trường Đại học 
Trà Vinh có thể xem là một sự kiện khởi sắc, thể 
hiện sự bền vững ở góc độ thực thi công việc về 
văn hóa tộc người Khmer. Các bài tham luận trong 
hội thảo sẽ là những đóng góp có giá trị thực tiễn 
để làm rõ vấn đề đặt ra. Riêng bài tham luận này 
góp phần điểm lại sơ bộ hoạt động về công tác 
nghiên cứu và làm rõ hoạt động phát huy giá trị 
văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer tại đơn vị nhà 
trường. Qua đó, thể hiện sự đồng tình trong công 
tác đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về văn 
hóa dân tộc. Đặc biệt cần chú trọng tạo mọi điều 
kiện nghiên cứu về loại hình văn hóa dân tộc đang 
có nguy cơ bị mai một, khuyến khích việc đầu 
tư phục dựng, sân khấu hóa hình thức biểu diễn 
và vận dụng đặc điểm thuận lợi trong xu thế hội 
nhập góp phần quảng bá giá trị văn hóa tộc người 
Khmer đến với khu vực và thế giới. Có thể nhận 
thấy việc chú trọng nghiên cứu về văn hoá Khmer 
Nam Bộ đến thực tiễn phát huy các giá trị văn hoá 
nghệ thuật dân tộc là một trong những mục tiêu 
chiến lược quan trọng hàng đầu để đơn vị Trường 
Đại học Trà Vinh có được nền tảng khoa học vững 
chắc trong việc đào tạo nguồn nhân lực hiểu biết 
sâu rộng về văn hoá tộc người Khmer cho địa bàn. 
Đây cũng chính là mục tiêu và phương hướng 
giúp nhà trường phấn đấu xây dựng Khoa Ngôn 
ngữ - Văn hoá - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thành 
khoa trọng điểm quốc gia góp phần vào sự nghiệp 
giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hoá tộc người 
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam vào sự phát 
triển chung của đất nước.
Tài liệu tham khảo
Đàm Văn Hiển, Trần Văn Bổn, Lê Hàm. 2012. Sân khấu dân gian. NXB Văn hóa dân tộc.
Đào Huy Quyền – Sơn Ngọc Hoàng – Ngô Khị. 2007. Nhạc khí dân tộc Khmer Sóc Trăng. Nxb 
Tổng hợp Tp. HCM.
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị yến Tuyết. 1987. 
Người Khmer tỉnh Cửu Long. NXB Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long.
Ngô Văn Tưởng. 2007. Báo cáo kết quả điều tra Di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Khmer tỉnh 
Trà Vinh. NXB Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long.
Nhóm tác giả. Sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng 
– Phân viện Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh
SÂN KHẤU DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Trần Thanh Tâm1
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ như là một loại hình nghệ thuật sân 
khấu mới, vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt độc đáo, được hình thành và phát triển ngày 
càng rõ nét trên địa bàn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng từ những năm 20 thế kỷ XX. Hiện nay, sân khấu Dù 
kê đang thiếu trầm trọng các kịch bản đương đại để dàn dựng; thiếu đội ngũ đội soạn giả, đạo diễn, diễn 
viên, nhạc công trẻ để kế thừa, trong khi các thế hệ nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer đã lớn tuổi; đặc biệt cả 
nước chưa có trường đào tạo hệ chính quy, chuyên ngành diễn viên và nhạc công sân khấu Dù kê nên 
loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê rất có nguy cơ bị mai một, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp 
nhằm bảo tồn và phát triển sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
Từ khóa: nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, Dù kê, nghệ thuật sân khấu, Khmer Nam Bộ.
Abstract
 Du ke theatre of Southern Khmer is a new theatrical art which retains both common and original 
features. It has been formed and developed more distinctly in the provinces of Tra Vinh and Soc Trang 
since the 1920s. Currently, there is a great shortage of modern Du ke scenarios, the inheritance of 
young composers, directors, actors, actresses and musicians while the Khmer artists are getting older. 
In addition, there still have no regular schools that train actors, actresses and musicians for Du ke 
theatre. As a result, Du ke theatrical art is likely to fall into oblivion. Therefore, this paper is to propose 
solutions to preserve and develop Du ke theatre of Southern Khmer.
 Key words: Southern Khmer Du ke theatrical art, Du ke, theatrical art, southern Khmer. 
1 Học viên lớp Cao học Văn hoá Khmer Nam Bộ, Khoá học 
2012 - 2014 
1. Mở đầu 
Người Khmer Nam Bộ có quyền tự hào là dân 
tộc ít người duy nhất ở Việt Nam có hai loại hình 
sân khấu kịch hát dân tộc Rô băm và Dù kê. Riêng 
sân khấu Dù kê đã được bảo tồn và phát triển trong 
đời sống văn hoá xã hội của người Khmer Nam 
Bộ đến nay gần tròn một thế kỷ, rất được người 
Khmer Nam Bộ và nước bạn Campuchia yêu mến.
Trong những năm qua, có nhiều công trình 
nghiên cứu khoa học, nhiều tác giả có bài viết, 
tham luận về sân khấu Dù kê Nam Bộ. Nhìn chung 
các công trình này chủ yếu mô tả về quá trình hình 
thành và phát triển sân khấu Dù kê ở Nam Bộ từ 
những năm 1920 đến nay; giới thiệu đôi nét về đặc 
điểm nghệ thuật sân khấu Dù kê; một số bài viết về 
thực trạng công tác bảo tồn sân khấu Dù kê; chưa 
có nhiều công trình khoa học quan tâm nghiên 
cứu về sự phát triển bền vững của sân khấu Dù kê 
Khmer trong đời sống văn hoá tinh thần của người 
Khmer Nam Bộ trong thời gian tới.
2. Nội dung
2.1. Đôi nét về Dù kê
 Tỉnh Trà Vinh thuộc khu vực Đồng bằng 
sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 2.288,09 
km2, tổng số dân là 1.012.648 người, trong đó 
dân tộc Khmer là 320.392 người, chiếm 31,63% 
(Số liệu của Cục Thống kê Trà Vinh năm 2011). 
Người Khmer chủ yếu sống xen kẽ và tập trung 
thành từng cụm dân cư theo phum sróc trên những 
giồng cát cao. Trong quá trình cùng cộng cư trên 
vùng đất tỉnh Trà Vinh, các dân tộc Kinh, Khmer 
và Hoa luôn có truyền thống đoàn kết, gắn bó với 
nhau trong khai phá thiên nhiên, chống giặc ngoại 
xâm, lao động sản xuất, xây dựng xóm làng ngày 
càng phát triển. Đặc biệt, quá trình giao lưu, tiếp 
biến văn hoá lẫn nhau đã tạo cho người dân Khmer 
ở Trà Vinh có một bản sắc văn hoá độc đáo, đa 
dạng và phong phú trong nền văn hoá Việt Nam 
thống nhất.
Hầu như bất cứ người dân Khmer nào ở tỉnh 
Trà Vinh cũng biết thông thạo ít nhất một loại hình 
nghệ thuật của dân tộc mình (âm nhạc, múa, sân 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014140 Soá 13, thaùng 3/2014 141
khấu). Nếu có dịp đi bất cứ nơi đâu trong vùng 
có dân tộc Khmer (nhất là trong dịp tết, lễ hội) 
thì chúng ta sẽ nghe thấy đâu đó những giai điệu 
dân ca Khmer, các điệu múa Rom-vong, Rom-leo, 
Sravan, À day, trống Sà-dam hay hát Dù kê.
Nghệ thuật sân khấu Dù kê của người dân 
Khmer là một loại hình nghệ thuật sân khấu mới. 
Nó vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt 
độc đáo và được hình thành ngày càng rõ nét. Đây 
là kết quả của sự thích ứng với cuộc sống, hoàn 
cảnh và sự tương tác, giao lưu, tiếp biến văn hóa 
với các dân tộc bản địa trên vùng đất Nam Bộ. Chữ 
“Dù kê” do đọc trại từ “Dì kê” - tên một loại kịch 
hát có ảnh hưởng từ kịch hát Chăm Bà La Môn, có 
từ lâu đời của vương quốc Campuchia và đã được 
người Khmer du nhập vào vùng biên giới Tri Tôn, 
tỉnh An Giang.
Dù kê: Tên gọi tuy hết sức mộc mạc, dân dã 
nhưng bản thân nó cũng phản ánh được phần nào 
nguồn gốc khai sinh ra nó. Đặc biệt, từ “Dùh kê”, 
đây là đặc điểm phát âm trong sinh hoạt đời thường 
của người dân Khmer Nam Bộ, mỗi khi phát âm 
đều không nghe rõ âm sắc giữa Dì và Dù, mà chỉ 
nghe rõ nhất ở âm “D” ở đầu, còn âm “ì” và “ù” 
dường như chỉ thoáng qua chung là âm “ùh” mà 
thôi, nhất là khi nói nhanh nó chẳng khác gì là âm 
câm,... Cũng không loại trừ khả năng do sự phiên 
âm của tên gọi ở thời kỳ Pháp thuộc từ “Dì kê” 
(Yikê) thành từ Dù kê (Yukê).
Qua nhiều nguồn tài liệu, trao đổi, phỏng vấn 
các nghệ nhân, nghệ sĩ và trực tiếp xem nhiều buổi 
biểu diễn, chúng tôi nhận thấy Dù kê là hình thức 
sân khấu dân gian, loại hình nghệ thuật tổng hợp 
của dân tộc Khmer và là sự tổng hoà các loại hình 
nghệ thuật: văn học, múa, âm nhạc, có tính cải 
tiến. Sân khấu Dù kê có sự giao lưu, tiếp biến với 
các loại hình nghệ thuật khác, như: Rô-băm, hát 
Tiều, Cải lương v.v quá trình giao lưu được biểu 
hiện rõ nét nhất là trong phong cách biểu diễn, hoá 
trang, phục trang, vũ đạo, võ thuật và các là làn 
điệu bài ca, bản nhạc được sử dụng trong sân khấu 
Dù kê cho đến ngày nay. 
Ngày nay đã khẳng định nghệ thuật sân khấu 
Dù kê là lối hát tuồng tương tự như sân khấu Cải 
lương của người Kinh. Một loại hình nghệ thuật 
sân khấu tổng hợp về ca, múa, nhạc, mà ở đó đạo 
diễn, văn nghệ sĩ hay diễn viên biểu diễn dựa theo 
tác phẩm kịch bản, để tạo ra những hình tượng 
nghệ thuật trên sân khấu hay khán đài cho khán giả 
xem. Đây là loại hình nghệ thuật rất được người 
Khmer Nam Bộ nói chung và người Khmer tỉnh 
Trà Vinh nói riêng yêu thích và là loại hình nghệ 
thuật có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa 
của người Khmer tỉnh Trà Vinh.
2.2. Sự hình thành và phát triển sân khấu Dù 
kê Nam Bộ
Theo nhiều tài liệu đã phát hành, ngay từ 
những năm đầu thập kỷ 20, 30 của thế kỷ XX, tại 
hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh đã hình thành và 
phát triển các gánh hát Dù kê trong dân gian với 
các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống độc 
đáo và có kinh nghiệm sáng tạo trong dàn dựng 
kịch bản. 
Các nguồn tài liệu nghiên cứu về nghệ thuật 
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ đều có quan điểm 
cho rằng, nghệ thuật sân khấu Dù kê của người dân 
tộc Khmer được ra đời bởi một nhóm văn nghệ sĩ, 
trí thức người Khmer Nam Bộ rất có tâm huyết, 
am hiểu nghệ thuật và thông thạo văn học, thơ ca 
Khmer. Trong đó, có ông Thạch Xua/Suor (Thầy 
Xua) ở xã Hiếu Tử, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh 
và ông Lý Kọn (còn gọi là Chhà Kọn) là người 
Khmer lai Triều Châu, ấp Sóc Vồ, xã An Ninh, 
tỉnh Sóc Trăng đứng ra tập hợp các thanh niên yêu 
thích văn nghệ, có năng khiếu về ca hát, biểu diễn 
để tổ chức luyện tập, dàn dựng. Qua một thời gian 
đưa ra biểu diễn và được đông đảo khán giả nhiệt 
liệt cổ vũ, hưởng ứng, gánh hát Dù kê Nam Bộ 
được hình thành và phát triển, chủ yếu ở hai tỉnh 
Sóc Trăng và Trà Vinh.
Một số gánh hát sân khấu Dù kê Khmer Nam 
Bộ tiêu biểu, như: 
Tỉnh Sóc Trăng: khoảng từ năm 1919-1944, 
gánh Dù kê Tự Lập Ban của Chà Kọn - Sóc Vồ, 
xã An Ninh, huyện Mỹ Mỹ Tú; từ năm 1933-1943, 
gánh Dù kê Tổ Lập Thành của Tà Thại; từ năm 
1934-1945, gánh Dù kê Tổ Lập Thành của Chhà 
Tỷ - Vũng Thơm; từ năm 1946-1972, gánh Dù kê 
Tự lập Ban của Bà Lý Thị Sô Phi con ông Chhà 
Kọn; từ năm 1949-1968, gánh Dù kê Ánh Sáng 
của Tà Kươn, xã Đại Tâm, Mỹ Xuyên
Tỉnh Trà Vinh: năm 1926, gánh Dù kê Bà Bầu 
- xã Nguyệt Hoá; năm 1929-1930, gánh Dù kê của 
Xã Nhương - Tri Tân; năm 1930, gánh Dù kê của 
Quản Sách - xã Lương Hòa; một số gánh Dù kê 
của Tà Chuôl - xã Tập Ngãi; gánh Dù kê của Tà 
Tưng, Tà Mục - xã Long Đức; gánh Dù kê Tự 
Lập Thành của Tà Tia - xã Lưu Nghiệp Anh, Trà 
Cú; sau đó nhập gánh với của Tà Yên - Càng Long 
để lập gánh Võ Lập Thành; năm 1934, Quản Sách 
giao gánh hát lại cho Thạch Hoa và đặt tên là Hoa 
Long Thành, đoàn hát bằng tiếng Khmer lẫn tiếng 
Việt; khoảng năm 1930-1937, gánh Dù kê Nhật 
Nguyệt Quang của Sơn Kưu - Trà Cú; năm 1952-
1953, gánh Dù kê Nhật Nguyệt Thành của Thạch 
Vông, Thạch Tu Quang; năm 1965-1975, gánh Dù 
kê Nhật Nguyệt Quang Sơn Kưu giao cho ông 
Cơ - xã Đại An quản lý... 
Ngoài ra, hầu như ở khắp nơi của hai tỉnh Sóc 
Trăng và Trà Vinh, người ta thấy xuất hiện các 
gánh hát Dù kê liên tiếp được thành lập, không có 
tên, không danh hiệu chính thức, thường là quy 
mô nhỏ có tính tự phát chủ yếu để góp vui cho các 
cuộc lễ hội của phum, sróc. Tuy nhiên, các gánh 
hát Dù kê dân gian tự phát thường thiếu sự chặt 
chẽ về tổ chức, quản lý; thiếu đội ngũ diễn viên, 
nhạc công; thiếu vở diễn hoàn chỉnh; các trang bị 
thiết bị, trang phục, đạo cụ thiếu đồng bộ nên chưa 
nhận được sự ủng hộ cao của khán giả, sau một 
thời gian đã tự tan rã. 
Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ 
ra đời không chỉ ảnh hưởng ở trong phạm vi của 
một tỉnh, khu vực Nam Bộ mà còn mở rộng phạm 
vi đến đất nước Chùa Tháp anh em. Người dân 
Campuchia yêu mến nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ và đặt tên rất gần gũi, thân quen, 
đó là “Lakhôn Basắc”2 và tên gọi này vẫn tồn tại 
đến ngày nay. 
2 Lakhôn Bassac: “Bassac” là tên sông Bassac do người 
Khmer Campuchia gọi, có tên gọi khác của người Kinh là 
Hậu giang hay sông Hậu (Tự điển Bách khoa toàn thư - Sông 
Cửu Long); “Lakhôn Bassac” được hiểu là “Sân khấu của 
người ở xứ Basac / xứ sông Hậu”
Lakhôn Bassac: “Từ sau năm 1930, gánh hát Dù kê của ông 
Chhà Kọn - Sóc Trăng đã tổ chức nhiều chuyến lưu diễn và đã 
được đông đảo công chúng Campuchia yêu thích. Sự thành 
công của gánh Chhà Kọn đã gây nên dư luận tốt, tạo tiếng vang 
khắp cả đất nước Chùa Tháp. Vào đầu thập kỷ 30 thế kỷ XX 
(1930-1931), nhân có cuộc tổ chức triển lãm trước Hoàng cung 
ở Nông Phênh 03 ngày, 03 đêm mừng thọ của mình, nhà vua 
Si Sô Wáth – Mô Ni Vông (lên ngôi từ năm 1927-1941) đã 
cho quan cận thần mời gánh hát của ông Chhà Kọn vào Hoàng 
cung biểu diễn cho nhà vua và hoàng tộc xem. Khi kết thúc 
buổi biểu diễn, Nhà vua hết lòng khen ngợi và thán phục tài 
thông minh sáng tạo của người Khmer Nam Bộ, nên hạ chỉ cho 
mời ông bầu gánh Dù kê Nam Bộ đến nhập triều để yết kiến 
nhà vua. Qua thăm hỏi gia đình, nguồn gốc của gánh hát Dù 
kê, khi biết rằng gánh hát Dù kê này là của những người ở Sróc 
Khlêng, nghe xong nhà vua nói: “À, gánh hát này thật ra của 
người ở xứ sở Bassac, vậy thì nên gọi gánh hát của các người 
là “Krom Lakhôn Bassac” (gánh hát Bassac/ Basắc) để người 
dân ở Campuchia ai cũng đều biết Lakhôn Bassac là sân khấu 
Dù kê của người dân xứ Basắc”. Cũng từ sự kiện đó, sân khấu 
Dù kê Khmer Nam Bộ ở Campuchia chính thức ... có dịp giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh 
nghiệm lẫn nhau;
Định hướng xây dựng “Nhà hát nghệ thuật sân 
khấu Khmer Nam Bộ” trong tương lai, đây sẽ là nơi 
tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ ưu tú, các chuyên 
gia am hiểu lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Khmer 
Nam Bộ; khai thác và học tập vốn cổ trong nghệ 
thuật ca Bassac; tổ chức nghiên cứu học thuật lĩnh 
vực sân khấu Dù kê và biểu diễn đúng phong cách 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ chính 
thống. Trên cơ sở đó, “Nhà hát nghệ thuật sân khấu 
Khmer Nam Bộ” sẽ là nơi phục hồi, chỉnh lí, cải 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014142 Soá 13, thaùng 3/2014 143
là Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh là một 
chặng đường phát triển liên tục đầy sáng tạo của 
nhiều thế hệ nghệ sĩ dân tộc Khmer. Đây là kết quả 
của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc 
Khmer, Kinh, Hoa đã cùng cộng cư, chan hòa trên 
vùng đất Nam Bộ. Cho đến nay, nghệ thuật sân 
khấu Dù kê đã trở thành món ăn tinh thần không 
thể thiếu của người Khmer Nam Bộ.
2.3. Thực trạng sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ 
Khu vực Nam Bộ có tất cả 11 Nghệ sĩ Ưu 
tú Khmer (NSUT). Trong những năm qua, Đoàn 
Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh tỉnh Trà Vinh 
có 5/6 NSƯT, Đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc 
Trăng có 3/4 NSƯT và Đoàn Nghệ thuật Khmer 
Kiên Giang có một NSƯT luôn đóng vai trò nòng 
cốt giữ gìn và phát huy nghệ thuật sân khấu Dù kê. 
Tuy nhiên, do việc đào tạo đội ngũ diễn viên, nhạc 
công cho sân khấu Dù kê để bổ sung cho các đoàn 
chủ yếu là truyền nghề, hướng dẫn kinh nghiệm 
bằng phương pháp “truyền miệng” là chính, trong 
khi các nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer này ngày càng 
lớn tuổi, một số đã mất, nên việc bổ sung đội ngũ 
diễn viên trẻ, tài năng là rất khan hiếm.
Qua khảo sát, điền dã thực tế, trao đổi với các 
lãnh đạo ngành Văn hoá, Thể thao & Du lịch một 
số địa phương; phỏng vấn một số lãnh đạo đoàn, 
nghệ sĩ, nghệ nhân, diễn viên sân khấu Dù kê; 
tham khảo các bài báo, bài viết về sân khấu Dù kê, 
chúng tôi nhận thấy hiện nay loại hình sân khấu 
Dù kê Khmer Nam Bộ rất có nguy cơ bị mai một, 
do các yếu tố sau: 
Một số đoàn chuyên nghiệp chất lượng nghệ 
thuật từng lúc chưa đáp ứng nhu cầu thưởng thức 
nghệ thuật ngày càng cao của khán giả. Thiếu vở 
diễn Dù kê mới chất lượng, nhất là thiếu kịch bản 
đề tài đương đại để dàn dựng nhằm thu hút khán 
giả. Thiếu đội ngũ diễn viên, nhạc công trẻ, tài năng 
đáp ứng thị hiếu người xem. Thiếu đội ngũ soạn 
giả, đạo diễn có trình độ và am hiểu về sân khấu 
Dù kê để phát hiện tìm những yếu tố mới trong 
biên soạn kịch bản và đột phá trong khâu dàn dựng 
vở diễn Dù kê phù hợp với xã hội đương đại. Thiếu 
sự quảng bá các kịch bản Dù kê cho các đoàn Dù 
kê nghiệp dư để duy trì phong trào và tạo nguồn 
cho các đoàn chuyên nghiệp. Một số địa phương 
có phong trào văn hoá - văn nghệ Khmer phát triển 
và một số địa phương khác có các nghệ nhân sân 
khấu Dù kê lão thành rất muốn khôi phục câu lạc 
bộ, đội, nhóm hát sân khấu Dù kê để biểu diễn tại 
địa phương trong các dịp lễ hội Khmer trong năm, 
nhưng chưa có nơi đào tạo để bổ sung nhạc công, 
diễn viên sân khấu Dù kê phù hợp với thời gian 
học tập của học viên; hoặc có gia đình nghệ nhân 
khi phát hiện có con, cháu còn nhỏ tuổi rất có năng 
khiếu về biểu diễn sân khấu Dù kê, nhưng chưa 
có nơi nào đào tạo chuyên nghiệp dài hạn để sau 
này các con, cháu có thể theo nghề lâu dài. Thời 
gian vừa qua, khu vực Nam Bộ chưa có nơi nào 
tổ chức tuyển sinh đào tạo các chuyên ngành diễn 
viên, nhạc công sân khấu Dù kê do thiếu đội ngũ 
giáo viên, giảng viên cơ hữu và đạt chuẩn. Đến 
cuối năm 2012, Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ 
thuật tỉnh Trà Vinh phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao 
và Du lịch tỉnh Trà Vinh tổ chức thực hiện Đề án 
đào tạo, bổ sung đội ngũ diễn viên cho Đoàn Nghệ 
thuật Khmer Ánh Bình Minh Trà Vinh, đây là đơn 
vị đầu tiên khu vực Nam Bộ đăng ký Sở Giáo dục 
& Đào tạo tỉnh Trà Vinh mở mã ngành mới và 
tổ chức tuyển sinh lớp trung cấp chuyên nghiệp, 
ngành “Nghệ thuật biểu diễn kịch múa (Ca kịch 
Dù kê)”, hệ chính quy, khóa học 2012-2015, đối 
tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp trung học 
cơ sở trong địa bàn tỉnh Trà Vinh, đã trúng tuyển 
26 học sinh. Tuy nhiên, chỉ tuyển các thí sinh trong 
địa bàn tỉnh Trà Vinh thì chưa thể đáp ứng nhu 
cầu học tập và bổ sung đội ngũ diễn viên trẻ sân 
khấu cho các đoàn nghệ thuật Khmer trong khu 
vực Nam Bộ. Thiếu sự giới thiệu, quảng bá loại 
hình văn hoá - nghệ thuật Khmer và sân khấu Dù 
kê trong các tour du lịch khách đến tham quan và 
có nghỉ đêm tại tỉnh Trà Vinh.
Mặc khác, hiện nay, có một số nghệ nhân 
Khmer tài năng xuất sắc, lưu giữ nhiều bài ca 
Bassac cổ xưa, có công phổ biến, truyền dạy nghề 
cho thế hệ trẻ, được đồng nghiệp và quần chúng 
kính trọng, đủ tiêu chuẩn phong tặng “Nghệ nhân 
ưu tú”, nhưng chưa được Nhà nước ghi nhận. 
Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, 
phương tiện tuyên truyền hiện đại, sự du nhập ồ ạt 
những băng, đĩa hình và sản phẩm phi văn hóa từ 
bên ngoài, phần nào đó đã làm phai mờ và lệch lạc 
đi nghệ thuật truyền thống tốt đẹp của dân tộc vốn 
có từ lâu đời. Một điều rất cần quan tâm là qua trao 
đổi, phỏng vấn một bộ phận thanh niên dân tộc 
Khmer, có nhiều thanh niên không biết về nguồn 
gốc, xuất xứ nghệ thuật sân khấu Dù kê, thậm chí 
các thanh niên này cho rằng không quan tâm đến 
sân khấu Dù kê, mà chỉ quan tâm đến các loại hình 
âm nhạc hiện đại.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật 
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, vừa mang tính 
truyền thống, đạo lý, văn hoá vừa mang tính đoàn 
kết của các dân tộc (Kinh, Khmer, Hoa) đã cùng 
nhau chung sức phát triển nên loại hình sân khấu 
độc đáo này là việc làm hết sức cần thiết, đòi hỏi 
sự quan tâm của các cấp và cộng đồng. 
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nghệ thuật sân 
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ rộng rãi, bằng nhiều 
hình thức trong cộng đồng dân cư, nhất là giới trẻ 
Khmer sẽ giúp cho thế hệ trẻ hiểu được việc bảo 
tồn và phát huy vốn văn hoá độc đáo của dân tộc 
mình là điều cần thiết.
Đào tạo chuyên ngành “Nghệ thuật biểu diễn 
kịch múa (Ca kịch Dù kê)” cần được nâng cấp lên 
bậc cao đẳng, đại học, để chính những học sinh, 
sinh viên này là những người được đào tạo một 
cách chuyên nghiệp; cũng là người giữ gìn, truyền 
đạt những kiến thức, văn hoá cội nguồn của dân tộc 
và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc Khmer 
một cách tốt nhất. Đây sẽ là lực lượng diễn viên, 
nhạc công trẻ cung cấp cho các đoàn nghệ thuật 
Khmer từ tỉnh đến cơ sở trong khu vực Nam Bộ và 
sẽ là nguồn đào tạo đội ngũ giảng viên, soạn giả, 
đạo diễn sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trong 
tương lai.
3.2. Kiến nghị
Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển sân 
khấu Dù kê Nam Bộ một cách bền vững, như sau: 
Định kỳ mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn đào tạo 
diễn viên sân khấu Dù kê và nhạc cụ dân tộc Khmer 
nhằm tạo phong trào trong công chúng Khmer và 
tạo nguồn đào tạo các lớp sân khấu Dù kê hệ chính 
quy, dài hạn.
Mở mới ngành đào tạo bậc Trung cấp Chuyên 
nghiệp “Diễn viên sân khấu kịch hát- ca kich Dù 
kê ” - hệ Chính quy, thời gian đào tạo 3 năm, đối 
tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp trung học 
cơ sở.
Mở mới mã ngành đào tạo bậc cao đẳng, đại 
học chuyên ngành “Diễn viên sân khấu Khmer 
Nam Bộ” hoặc “Diễn viên sân khấu kịch hát – ca 
kịch/sân khấu Dù kê” - hệ chính quy, đối tượng 
tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp Trung cấp Chuyên 
nghiệp ngành “Diễn viên sân khấu kịch hát - ca 
kịch Dù kê ”.
Mở rộng quy mô và đối tượng tuyển sinh khu 
vực Nam Bộ và có chính sách, đãi ngộ đối với 
học sinh, sinh viên học chuyên ngành Nghệ thuật 
Khmer Nam Bộ;
Đào tạo hoặc liên kết đào tạo cán bộ trình độ 
đại học các ngành: Biên kịch sân khấu, sáng tác 
âm nhạc, đạo diễn sân khấu, biên đạo múa, đối 
tượng tuyển chọn là học sinh tốt nghiệp các lớp 
Trung cấp Chuyên nghiệp khối ngành nghệ thuật 
Khmer Nam Bộ;
Định kỳ mở trại sáng tác kịch bản hoặc tổ chức 
thi sáng tác kịch bản sân khấu Dù kê Khmer Nam 
Bộ, khuyến khích các đề tài xã hội đương đại để 
cung cấp kịch bản sân khấu Dù kê mới, đảm bảo 
chất lượng và sẽ phong phú đề tài cho các Đoàn 
Dù kê chuyên và không chuyên nghiệp lựa chọn, 
sao cho đề tài kịch bản phù hợp với tình hình địa 
phương mình;
Định kỳ tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn 
sân khấu Dù kê cấp tỉnh và cấp toàn quốc, để 
các nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, kỹ thuật viên 
các đoàn có dịp giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh 
nghiệm lẫn nhau;
Định hướng xây dựng “Nhà hát nghệ thuật sân 
khấu Khmer Nam Bộ” trong tương lai, đây sẽ là nơi 
tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ ưu tú, các chuyên 
gia am hiểu lĩnh vực nghệ thuật sân khấu Khmer 
Nam Bộ; khai thác và học tập vốn cổ trong nghệ 
thuật ca Bassac; tổ chức nghiên cứu học thuật lĩnh 
vực sân khấu Dù kê và biểu diễn đúng phong cách 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ chính 
thống. Trên cơ sở đó, “Nhà hát nghệ thuật sân khấu 
Khmer Nam Bộ” sẽ là nơi phục hồi, chỉnh lí, cải 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014144 Soá 13, thaùng 3/2014 145
biên những vở diễn Dù kê truyền thống, tiêu biểu 
và cũng là nơi phát hiện các hạt nhân nghệ thuật và 
tạo nguồn đào tạo các lớp nghệ thuật sân khấu Dù 
kê - hệ chính quy.
Tổ chức nghiên cứu khoa học, sưu tầm các bài 
ca Bassac, các kịch bản sân khấu Dù kê Khmer 
Nam Bộ, đặc biệt là biên soạn sách song ngữ 
Khmer - Việt, Khmer – Anh về nghệ thuật sân 
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ để thuận tiện giới 
thiệu và quảng bá rộng rãi loại hình nghệ thuật này 
đến công chúng trong và ngoài nước.
Mạnh dạn bổ sung vào chương trình tour du 
lịch khách đến tham quan có nghỉ đêm tại tỉnh Trà 
Vinh chương trình biểu diễn ca, múa, nhạc Khmer 
và trích đoạn sân khấu Dù kê, nhằm giới thiệu, 
quảng bá loại hình sân khấu Dù kê Khmer Nam 
Bộ với bạn bè trong nước và quốc tế. Đây cũng sẽ 
là đầu ra của học sinh, sinh viên các lớp đào tạo hệ 
chính quy ngành Diễn viên Sân khấu Khmer Nam 
Bộ trong tương lai.
Đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu 
“Nghệ nhân ưu tú” cho các nghệ nhân sân khấu Dù 
kê Khmer Nam Bộ đủ tiêu chuẩn theo quy định. 
Tài liệu tham khảo
Đặng Vũ Thị Thảo. 1988. Sân khấu truyền thống của người Khmer ĐBSCL. NXB Tổng hợp 
Hậu Giang.
Định Văn Linh. 1988. Văn hoá Khmer trong quá trình giao lưu và phát triển ở ĐBSCL. NXB Tổng 
hợp Hậu Giang.
Hoàng Túc. 1988. Tìm hiểu vốn văn hoá dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Kim Thịnh. 2003. Báo cáo Tổng kết kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh 
Bình Minh Trà Vinh (14/4/1963-14/4/2003). 
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (1998) về “ Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên 
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Phan An. 2009. Dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
Phạm Thị Phương Hạnh. 2011. Văn hoá Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hoá Việt Nam. 
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng 
giai đoạn 1920-2000. Hội Văn học Nghệ thuật Sóc Trăng.
Trần Văn Bổn. 2012. Sân khấu dân gian. NXB Văn hoá Dân tộc.
Trường Lưu (chủ biên). 1993. Văn hoá người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hoá 
Dân tộc - Nghệ thuật.
KHAI THÁC DI SẢN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ 
TRONG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH TRÀ VINH
Ngô Hoàng Đại Long1
 Nguyễn Văn Cần2
TÓM TẮT
Sản phẩm văn hóa là sản phẩm của lịch sử và luôn mang dấu ấn của thời đại. Hiện nay, nhiều sản 
phẩm văn hóa mới ra đời phục vụ cuộc sống và phát triển hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch sẽ tạo 
nên các sản phẩm du lịch. Việc tạo nên các sản phẩm du lịch từ văn hóa chính là thành quả của “văn 
hóa du lịch và nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer chính là bản sắc vùng đất Trà Vinh”. Bài viết dưới đây 
sẽ làm rõ nội dung này.
Từ khoá: sản phẩm du lịch, Dù kê, sản phẩm văn hoá, văn hoá du lịch, Trà Vinh
ABSTRACT
Culture closely connects to history and bears contemporary stamp. Nowadays, many cultural 
products are for serving spiritual life and tourism development. Tourism will bring about its product. 
The tourism product made from culture is the result of tourism culture and Khmer Du ke theatre is a 
character of Tra Vinh. This article will analyze clearly this content.
Keywords: tourism product, Du ke, cultural products, tourism culture, Tra Vinh
1 Trung tâm Nghiên cứu Biển & Đảo, ĐH KHXH&NV TP. HCM
2 Khoa Du lịch & Việt Nam học, ĐH Nguyễn Tất Thành
1. DẪN NHẬP
Trà Vinh là tỉnh duyên hải Đồng bằng sông 
Cửu Long, diện tích 2.288.09 km2 với dân số là 
1.012.648 người (theo Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh 
năm 2011), bao gồm một thành phố trực thuộc tỉnh 
và bảy huyện, phía Đông giáp Biển Đông, phía 
Tây giáp Vĩnh Long, phía Nam giáp Sóc Trăng, 
phía Bắc giáp tỉnh Bến Tre, có 65 km bờ biển. Trà 
Vinh cách thành phố Hồ Chí Minh 200 km đi bằng 
quốc lộ 53, khoảng cách chỉ còn 130 km nếu đi 
bằng quốc lộ 60, cách thành phố Cần Thơ 95 km. 
Tỉnh Trà Vinh là vùng địa lý cộng cư của ba dân 
tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa và một số ít các dân 
tộc khác. Trong đó, người Kinh có tỷ lệ cao nhất 
trong cơ cấu dân số của tỉnh với 684.119 người 
chiếm 67,5% dân số của tỉnh. Đồng bào Khmer ở 
Trà Vinh có 320.292 người (chiếm 31,63%), đông 
thứ hai cả nước sau tỉnh Sóc Trăng
Đây là một vùng văn hóa với những đặc trưng 
độc đáo và khác biệt so với các tiểu vùng văn hóa 
khác trong vùng văn hóa Tây Nam Bộ. Vì khi 
nhắc vùng đất Trà Vinh, người ta nghĩ ngay đến 
những ngôi chùa Khmer độc đáo đậm chất huyền 
bí, bên cạnh đó là những lễ hội truyền thống: Chol 
Chnam Thmay, Ok Om Bok, Dolta và ẩm thực 
đa sắc màu như: chính sự cộng cư của ba dân tộc 
Kinh – Hoa – Khmer đã tạo nên vùng đất Trà Vinh 
rất phong phú và đặc trưng. Nhưng có lẽ, điều đặc 
biệt vẫn sinh tồn và phát triển một cách bền bỉ với 
thời gian và không gian của người Khmer nơi đây, 
đó chính là: nghệ thuật sân khấu Dù kê, múa Lâm 
Thol, vũ điệu Apsara với dàn nhạc ngũ âm của họ. 
Đặc biệt, Dù kê - nghệ thuật sân khấu độc đáo của 
đồng bào dân tộc Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu 
Long nói chung và vùng đất Trà vinh nói riêng.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc 
tế như hiện nay thì vấn đề bảo tồn và phát huy 
những giá trị văn hóa dân tộc, cũng như các giá trị 
văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer là một 
yêu cầu cấp thiết. Đồng thời, đây cũng là thời điểm 
cần phát huy hơn nữa những giá trị văn hóa ra bên 
ngoài, quảng bá hơn nữa tính sự đa dạng, độc đáo 
và bản sắc văn hóa của Trà Vinh nói riêng và Việt 
Nam nói chung ra ngoài phạm vi vùng, khu vực 
và thế giới. 
Hoạt động du lịch và xây dựng các sản phẩm 
du lịch đặc trưng, độc đáo của vùng chính là kênh 
văn hóa quan trọng để chuyển tải những nét độc 
đáo ra bên ngoài, đồng thời thông qua du lịch sẽ 
góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa 

File đính kèm:

  • pdfsan_khau_du_ke_khmer_nam_bo_bao_ton_va_phat_trien.pdf