Tính bản địa - Đặc trưng quan trọng làm nên sự hấp dẫn cho sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ

Tóm tắt

Trong bài viết chúng tôi phân tích rằng sức lôi cuốn của nghệ thuật biểu diễn Dù kê là nhờ đặc trưng

bản địa của nó. Tính bản địa thể hiện rõ nét không chỉ ở xuất xứ mà còn thể hiện ở những yếu tố khác

như trang phục, âm nhạc, vũ điệu .v.v làm nên nét đặc thù Khmer Nam Bộ của nghệ thuật Dù kê. Chính

vì thế, để loại hình nghệ thuật biểu diễn sân khấu dân gian này gắn chặt với đời sống của cộng đồng

người Khmer Nam Bộ, việc lưu giữ và phát huy nghệ thuật biểu diễn Dù kê cũng có nghĩa là cần duy trì

và bồi đắp thêm đặc trưng bản địa của loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian này

pdf 6 trang yennguyen 3920
Bạn đang xem tài liệu "Tính bản địa - Đặc trưng quan trọng làm nên sự hấp dẫn cho sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính bản địa - Đặc trưng quan trọng làm nên sự hấp dẫn cho sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ

Tính bản địa - Đặc trưng quan trọng làm nên sự hấp dẫn cho sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201458 Soá 13, thaùng 3/2014 59
TÍNH BẢN ĐỊA - ĐẶC TRƯNG QUAN TRỌNG LÀM NÊN SỰ HẤP DẪN
CHO SÂN KHẤU DÙ KÊ CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Trần Trí Dõi1
Tóm tắt
Trong bài viết chúng tôi phân tích rằng sức lôi cuốn của nghệ thuật biểu diễn Dù kê là nhờ đặc trưng 
bản địa của nó. Tính bản địa thể hiện rõ nét không chỉ ở xuất xứ mà còn thể hiện ở những yếu tố khác 
như trang phục, âm nhạc, vũ điệu ...v.v làm nên nét đặc thù Khmer Nam Bộ của nghệ thuật Dù kê. Chính 
vì thế, để loại hình nghệ thuật biểu diễn sân khấu dân gian này gắn chặt với đời sống của cộng đồng 
người Khmer Nam Bộ, việc lưu giữ và phát huy nghệ thuật biểu diễn Dù kê cũng có nghĩa là cần duy trì 
và bồi đắp thêm đặc trưng bản địa của loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian này.
Từ khóa: Dù kê, Khmer Nam Bộ, nghệ thuật biểu diễn, văn hóa dân gian, bản địa, lễ hội 
truyền thống.
Abstract
This paper is to analyze native character of Du ke Southern Khmer theatre. The indigenousness 
demonstrates not only the origin but also its elements such as costume, music and dance, making Du ke 
Khmer unique. In order for Du ke to closely attach to Southern Khmer community’s life, the preservation 
and promotion of Du ke is needed to enrich native character of this type of art. 
Keywords: Du ke, Southern Khmer, performing art, folk culture, native, traditional festival 
1 Giáo sư, Tiến sĩ, Chủ nhiệm Bộ môn “Ngôn ngữ và Văn hóa 
các dân tộc thiểu số Việt Nam”, khoa Ngôn ngữ học; Giám đốc
 Trung tâm “Nghiên cứu phát triển Dân tộc thiểu số - Miền núi
 và Lưu vực sông Hồng” trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
1. Mở đầu
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu về nghệ thuật 
và văn hóa ở Việt Nam đã xác nhận Dù kê là một 
nghệ thuật biểu diễn sân khấu dân gian của người 
Khmer Nam Bộ. Trong đời sống cộng đồng người 
Khmer, đây là một loại hình nghệ thuật rất được ưa 
thích, có sức cuốn hút rộng rãi đối với người dân 
bình thường. Vì thế, trong những hoạt động lễ hội 
truyền thống của người Khmer ở miền tây Nam Bộ 
Việt Nam, biểu diễn sân khấu Dù kê luôn luôn là 
sự lựa chọn hàng đầu.
Lý do Dù kê hấp dẫn cộng đồng người Khmer 
Nam Bộ là nhờ đặc trưng bản địa của nghệ thuật 
sân khấu dân gian này. Trong số những đặc điểm 
làm nên tính bản địa của Dù kê, ngôn ngữ Khmer 
(tiếng mẹ đẻ của người Khmer) giữ một vị trí 
hết sức quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay, có lẽ 
về nguyên tắc, chỉ có sân khấu Dù kê là sân khấu 
dùng tiếng mẹ đẻ của người dân tộc thiểu số như 
là ngôn ngữ chính thức trong biểu diễn nghệ thuật 
sân khấu.
2. Nội dung
2.1. Sân khấu Dù kê có sức hấp dẫn mãnh liệt 
trong cộng đồng Khmer Nam Bộ
2.1.1. Hấp đẫn như thế nào?
Những nghiên cứu đã có về sân khấu dân gian 
Nam Bộ đều xác nhận rằng sân khấu Dù kê phát 
triển rất nhanh chóng vào đầu thế kỷ thứ XX ở 
cộng đồng người Khmer Nam Bộ. Từ khi ra đời, 
nó đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu 
được của người Khmer ở nơi đây. Vào những dịp 
lễ hội truyền thống như Chol Chnăm Thmây, Sen 
Dolta, Ooc-Om-Boc, đối với người Khmer Nam 
Bộ, không thể không có biểu diễn sân khấu Dù 
kê. Không chỉ được yêu thích ở cộng đồng người 
Khmer Nam Bộ Việt Nam, khi Dù kê truyền sang 
đất nước Campuchia láng giềng, nghệ thuật sân 
khấu dân gian Nam Bộ này cũng đã được người 
dân Khmer tại đây đón xem một cách nồng nhiệt 
và được người dân đất nước Chùa Tháp tiếp nhận 
một cách trân trọng. Cộng đồng người Khmer 
nước láng giềng đã đặt cho nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ một tên mới là “Lkhôn Ba Sắc” 
(tiếng Khmer có nghĩa là “kịch hát ở miền sông 
Hậu”), xác nhận nguồn gốc của Dù kê nảy sinh từ 
miền đất sông Hậu.
Ngày nay, hàng năm vào dịp người Khmer 
Nam Bộ tổ chức hội hè hay có đình đám, loại hình 
nghệ thuật này trở thành một món ăn tinh thần 
không thể thiếu của cộng đồng. Qua những điệu 
múa, tiết tấu âm nhạc và nhất là ngôn ngữ diễn 
xướng, những người Khmer ngồi quây quần bên 
sàn diễn chăm chú theo dõi như hòa vào nội dung 
của từng vở diễn. Có cùng tham gia xem diễn Dù 
kê với người Khmer Nam Bộ, chúng ta mới cảm 
nhận hết được sức thu hút hay lôi cuốn mạnh mẽ 
của loại hình nghệ thuật dân gian này trong đời 
sống văn hóa của người Khmer Nam Bộ. Có thể 
nói, sự hấp dẫn của sân khấu Dù kê đối với người 
dân là bệ đỡ cho sự tồn tại và phát triển của nó 
trong đời sống văn hóa cộng đồng người Khmer 
Nam Bộ.
Người ta có thể nhận thấy sức sống mãnh liệt 
của loại hình sân khấu Dù kê trong đời sống văn 
hóa của người Khmer Nam Bộ qua một vài biểu 
hiện sau đây. Chẳng hạn, đoàn nghệ thuật Khmer 
Ánh Bình Minh với việc dàn dựng những vở ca kịch 
Dù kê mang tính chất xã hội đương đại như những 
vở “Nghĩa tình trong giống tố”, “Giữ Đền cô Hia”, 
“Bông Hồng Trà Vinh” hay “Mối tình Bôpha - Rạng 
Xây” v.v. trong hơn 50 năm thành lập không chỉ 
luôn được đánh giá cao ở các hội diễn nghệ thuật 
chuyên nghiệp mà còn được đông đảo người dân 
Khmer Nam Bộ ưa thích. Hay như ở vùng đất An 
Giang (xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn), gia đình nghệ 
nhân Châu Men Sa Ray đang gìn giữ những phục 
trang truyền thống dùng cho các diễn viên hát Dù 
kê như là báu vật của gia đình. Nếu không có sức 
hấp dẫn hay sự yêu thích của cộng đồng, nghệ thuật 
sân khấu Dù kê Nam Bộ sẽ không có điều kiện để 
tồn tại trong cộng đồng dân cư như nó đã có. Nói 
rằng sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ có 
sức sống mãnh liệt là nhờ những hiện thực xã hội 
như thế.
2.1.2. Lý do của sự hấp dẫn
 Theo chúng tôi, hiện thực nói trên đã đặt ra 
một câu hỏi cho các nhà hoạt động và quản lý văn 
hóa vùng Khmer Nam Bộ. Đó là, vậy những yếu 
tố hay những nhân tố nào đã làm nên sức hấp dẫn 
và lôi cuốn của nghệ thuật sân khấu Dù kê trong 
cộng đồng người Khmer Nam Bộ? Việc trả lời một 
cách chính xác câu hỏi vừa đặt ra sẽ giúp chúng ta 
có được cách ứng xử hợp lý đối với loại hình nghệ 
thuật biểu diễn này trong nhiệm vụ giữ gìn và phát 
huy những nhân tố văn hóa truyền thống của cộng 
đồng người Khmer Nam Bộ. Trong bối cảnh toàn 
cầu hóa hiện nay, việc lưu giữ và phát huy văn hóa 
truyền thống trong đời sống dân tộc là một nhiệm 
vụ vô cùng cấp thiết để chúng ta giữ gìn bản sắc văn 
hóa dân tộc, làm bệ đỡ cho sự hòa nhập thế giới.
 Những gì hiện đang có của sân khấu Dù kê 
cho chúng ta thấy rằng sự hấp dẫn và lôi cuốn của 
nghệ thuật sân khấu này chính là đặc trưng bản địa 
của nó. Tính bản địa ấy thể hiện rõ nét không chỉ 
ở xuất xứ của loại nghệ thuật này mà còn thể hiện 
ở những yếu tố hợp thành nên sân khấu biểu diễn 
(như ngôn ngữ, trang phục, âm nhạc, vũ điệu...) 
mang đậm nét đặc thù Khmer Nam Bộ. Chính nhờ 
những đặc điểm đó, loại hình nghệ thuật biểu diễn 
sân khấu nói trên có được một công chúng (hay 
người xem) đông đảo là những người Khmer bình 
dân ở Nam Bộ. Nói một cách khác, nhờ gắn chặt 
với đời sống của những người Khmer bình dân, 
sức sống của sân khấu Dù kê trở nên mãnh liệt. 
2.2. Những đặc điểm thể hiện tính bản địa của 
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
 Ở mục 2.1 nói trên, chúng tôi đã cho rằng tính 
bản địa là đặc trưng nổi bật của sân khấu Dù kê. 
Dưới đây, chúng tôi xin lần lượt phân tích những 
đặc điểm khác nhau làm nên đặc trưng mang tính 
bản địa ấy của nó. 
2.2.1. Đặc điểm về xuất xứ của sân khấu Dù kê
 Trước hết, chúng ta có thể xem xét về đặc 
điểm xuất hiện của sân khấu Dù kê. Tuy có một vài 
giải thích khác nhau nhưng những tài liệu nghiên 
cứu đã có về văn hóa người Khmer Nam Bộ đều 
xác nhận rằng sân khấu Dù kê bắt nguồn từ nhu 
cầu sinh hoạt văn hóa của chính người Khmer Nam Bộ. 
Chúng ta biết rằng nhiều tài liệu khác nhau khi nói 
về xuất xứ của sân khấu Dù kê đều quy tụ nguồn 
gốc của nó vào hai câu chuyện. Thứ nhất là câu 
chuyện theo đó thủy tổ của nghệ thuật sân khấu Dù 
kê liên quan đến ông Kru Cô, một người Khmer 
sinh sống ở Trà Vinh. Vào năm 1920, ông Kru Cô 
thành lập gánh hát có tên là “Nhật Nguyệt Quan”. 
Gánh hát của ông vừa biểu diễn phục vụ người 
dân, vừa truyền bá và đào tạo diễn viên cho bộ 
môn nghệ thuật mới mẻ này. Từ đó, nghệ thuật sân 
khấu Dù kê Nam Bộ ra đời.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201458 Soá 13, thaùng 3/2014 59
TÍNH BẢN ĐỊA - ĐẶC TRƯNG QUAN TRỌNG LÀM NÊN SỰ HẤP DẪN
CHO SÂN KHẤU DÙ KÊ CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Trần Trí Dõi1
Tóm tắt
Trong bài viết chúng tôi phân tích rằng sức lôi cuốn của nghệ thuật biểu diễn Dù kê là nhờ đặc trưng 
bản địa của nó. Tính bản địa thể hiện rõ nét không chỉ ở xuất xứ mà còn thể hiện ở những yếu tố khác 
như trang phục, âm nhạc, vũ điệu ...v.v làm nên nét đặc thù Khmer Nam Bộ của nghệ thuật Dù kê. Chính 
vì thế, để loại hình nghệ thuật biểu diễn sân khấu dân gian này gắn chặt với đời sống của cộng đồng 
người Khmer Nam Bộ, việc lưu giữ và phát huy nghệ thuật biểu diễn Dù kê cũng có nghĩa là cần duy trì 
và bồi đắp thêm đặc trưng bản địa của loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian này.
Từ khóa: Dù kê, Khmer Nam Bộ, nghệ thuật biểu diễn, văn hóa dân gian, bản địa, lễ hội 
truyền thống.
Abstract
This paper is to analyze native character of Du ke Southern Khmer theatre. The indigenousness 
demonstrates not only the origin but also its elements such as costume, music and dance, making Du ke 
Khmer unique. In order for Du ke to closely attach to Southern Khmer community’s life, the preservation 
and promotion of Du ke is needed to enrich native character of this type of art. 
Keywords: Du ke, Southern Khmer, performing art, folk culture, native, traditional festival 
1 Giáo sư, Tiến sĩ, Chủ nhiệm Bộ môn “Ngôn ngữ và Văn hóa 
các dân tộc thiểu số Việt Nam”, khoa Ngôn ngữ học; Giám đốc
 Trung tâm “Nghiên cứu phát triển Dân tộc thiểu số - Miền núi
 và Lưu vực sông Hồng” trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
1. Mở đầu
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu về nghệ thuật 
và văn hóa ở Việt Nam đã xác nhận Dù kê là một 
nghệ thuật biểu diễn sân khấu dân gian của người 
Khmer Nam Bộ. Trong đời sống cộng đồng người 
Khmer, đây là một loại hình nghệ thuật rất được ưa 
thích, có sức cuốn hút rộng rãi đối với người dân 
bình thường. Vì thế, trong những hoạt động lễ hội 
truyền thống của người Khmer ở miền tây Nam Bộ 
Việt Nam, biểu diễn sân khấu Dù kê luôn luôn là 
sự lựa chọn hàng đầu.
Lý do Dù kê hấp dẫn cộng đồng người Khmer 
Nam Bộ là nhờ đặc trưng bản địa của nghệ thuật 
sân khấu dân gian này. Trong số những đặc điểm 
làm nên tính bản địa của Dù kê, ngôn ngữ Khmer 
(tiếng mẹ đẻ của người Khmer) giữ một vị trí 
hết sức quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay, có lẽ 
về nguyên tắc, chỉ có sân khấu Dù kê là sân khấu 
dùng tiếng mẹ đẻ của người dân tộc thiểu số như 
là ngôn ngữ chính thức trong biểu diễn nghệ thuật 
sân khấu.
2. Nội dung
2.1. Sân khấu Dù kê có sức hấp dẫn mãnh liệt 
trong cộng đồng Khmer Nam Bộ
2.1.1. Hấp đẫn như thế nào?
Những nghiên cứu đã có về sân khấu dân gian 
Nam Bộ đều xác nhận rằng sân khấu Dù kê phát 
triển rất nhanh chóng vào đầu thế kỷ thứ XX ở 
cộng đồng người Khmer Nam Bộ. Từ khi ra đời, 
nó đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu 
được của người Khmer ở nơi đây. Vào những dịp 
lễ hội truyền thống như Chol Chnăm Thmây, Sen 
Dolta, Ooc-Om-Boc, đối với người Khmer Nam 
Bộ, không thể không có biểu diễn sân khấu Dù 
kê. Không chỉ được yêu thích ở cộng đồng người 
Khmer Nam Bộ Việt Nam, khi Dù kê truyền sang 
đất nước Campuchia láng giềng, nghệ thuật sân 
khấu dân gian Nam Bộ này cũng đã được người 
dân Khmer tại đây đón xem một cách nồng nhiệt 
và được người dân đất nước Chùa Tháp tiếp nhận 
một cách trân trọng. Cộng đồng người Khmer 
nước láng giềng đã đặt cho nghệ thuật sân khấu 
Dù kê Nam Bộ một tên mới là “Lkhôn Ba Sắc” 
(tiếng Khmer có nghĩa là “kịch hát ở miền sông 
Hậu”), xác nhận nguồn gốc của Dù kê nảy sinh từ 
miền đất sông Hậu.
Ngày nay, hàng năm vào dịp người Khmer 
Nam Bộ tổ chức hội hè hay có đình đám, loại hình 
nghệ thuật này trở thành một món ăn tinh thần 
không thể thiếu của cộng đồng. Qua những điệu 
múa, tiết tấu âm nhạc và nhất là ngôn ngữ diễn 
xướng, những người Khmer ngồi quây quần bên 
sàn diễn chăm chú theo dõi như hòa vào nội dung 
của từng vở diễn. Có cùng tham gia xem diễn Dù 
kê với người Khmer Nam Bộ, chúng ta mới cảm 
nhận hết được sức thu hút hay lôi cuốn mạnh mẽ 
của loại hình nghệ thuật dân gian này trong đời 
sống văn hóa của người Khmer Nam Bộ. Có thể 
nói, sự hấp dẫn của sân khấu Dù kê đối với người 
dân là bệ đỡ cho sự tồn tại và phát triển của nó 
trong đời sống văn hóa cộng đồng người Khmer 
Nam Bộ.
Người ta có thể nhận thấy sức sống mãnh liệt 
của loại hình sân khấu Dù kê trong đời sống văn 
hóa của người Khmer Nam Bộ qua một vài biểu 
hiện sau đây. Chẳng hạn, đoàn nghệ thuật Khmer 
Ánh Bình Minh với việc dàn dựng những vở ca kịch 
Dù kê mang tính chất xã hội đương đại như những 
vở “Nghĩa tình trong giống tố”, “Giữ Đền cô Hia”, 
“Bông Hồng Trà Vinh” hay “Mối tình Bôpha - Rạng 
Xây” v.v. trong hơn 50 năm thành lập không chỉ 
luôn được đánh giá cao ở các hội diễn nghệ thuật 
chuyên nghiệp mà còn được đông đảo người dân 
Khmer Nam Bộ ưa thích. Hay như ở vùng đất An 
Giang (xã Ô Lâm, huyện Tri Tôn), gia đình nghệ 
nhân Châu Men Sa Ray đang gìn giữ những phục 
trang truyền thống dùng cho các diễn viên hát Dù 
kê như là báu vật của gia đình. Nếu không có sức 
hấp dẫn hay sự yêu thích của cộng đồng, nghệ thuật 
sân khấu Dù kê Nam Bộ sẽ không có điều kiện để 
tồn tại trong cộng đồng dân cư như nó đã có. Nói 
rằng sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ có 
sức sống mãnh liệt là nhờ những hiện thực xã hội 
như thế.
2.1.2. Lý do của sự hấp dẫn
 Theo chúng tôi, hiện thực nói trên đã đặt ra 
một câu hỏi cho các nhà hoạt động và quản lý văn 
hóa vùng Khmer Nam Bộ. Đó là, vậy những yếu 
tố hay những nhân tố nào đã làm nên sức hấp dẫn 
và lôi cuốn của nghệ thuật sân khấu Dù kê trong 
cộng đồng người Khmer Nam Bộ? Việc trả lời một 
cách chính xác câu hỏi vừa đặt ra sẽ giúp chúng ta 
có được cách ứng xử hợp lý đối với loại hình nghệ 
thuật biểu diễn này trong nhiệm vụ giữ gìn và phát 
huy những nhân tố văn hóa truyền thống của cộng 
đồng người Khmer Nam Bộ. Trong bối cảnh toàn 
cầu hóa hiện nay, việc lưu giữ và phát huy văn hóa 
truyền thống trong đời sống dân tộc là một nhiệm 
vụ vô cùng cấp thiết để chúng ta giữ gìn bản sắc văn 
hóa dân tộc, làm bệ đỡ cho sự hòa nhập thế giới.
 Những gì hiện đang có của sân khấu Dù kê 
cho chúng ta thấy rằng sự hấp dẫn và lôi cuốn của 
nghệ thuật sân khấu này chính là đặc trưng bản địa 
của nó. Tính bản địa ấy thể hiện rõ nét không chỉ 
ở xuất xứ của loại nghệ thuật này mà còn thể hiện 
ở những yếu tố hợp thành nên sân khấu biểu diễn 
(như ngôn ngữ, trang phục, âm nhạc, vũ điệu...) 
mang đậm nét đặc thù Khmer Nam Bộ. Chính nhờ 
những đặc điểm đó, loại hình nghệ thuật biểu diễn 
sân khấu nói trên có được một công chúng (hay 
người xem) đông đảo là những người K ... 
dân hàng ngày gắn bó với cộng đồng. Vì thế, lời 
hát hay vũ điệu của họ rất gần gũi với công chúng 
thưởng thức nghệ thuật này. Đây có lẽ là một nhân 
tố làm nên sự gần gũi giữa công chúng và diễn 
viên biểu diễn sân khấu Dù kê.
Để thấy rõ mối quan hệ hữu cơ giữa công chúng 
và diễn viên biểu diễn sân khấu Dù kê, chúng ta 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201462 Soá 13, thaùng 3/2014 63
có thể lấy trường hợp gia đình nghệ nhân Chau 
Men Sa Ray ở xã Ô Lâm (Tri Tôn, An Giang) làm 
ví dụ. Hàng ngày cùng sinh sống với cộng đồng 
thôn ấp, nhưng khi hóa thân thành diễn viên cả 
ba người trong gia đình (gồm hai vợ chồng Chau 
Men Sa Ray và Néang Ok với cô con gái Néang 
Kunh Thia) đã trở thành những diễn viên “chuyên 
nghiệp” thực thụ. Họ có thể làm như thế được chỉ 
khi họ có tình yêu và mong muốn gìn giữ loại hình 
nghệ thuật này như một thứ “bảo vật” thiêng liêng 
của cộng đồng. Tính chất gần gũi giữa công chúng 
và diễn viên rõ ràng là nguồn động viên tinh thần 
rất lớn đối với diễn viên sân khấu Dù kê. Nhờ đó, 
ngọn lửa nhiệt tình vẫn sáng mãi trong tim, giúp họ 
nỗ lực để giữ gìn giá trị văn hóa thiêng liêng của 
cộng đồng dân tộc.
2.3. Duy trì, bảo tồn và phát triển sân khấu Dù 
kê Khmer Nam Bộ như thế nào?
 Có thể nói, đối với người Khmer Nam Bộ, sân 
khấu Dù kê đã trở thành món ăn tinh thần không 
thể thiếu trong đời sống thường nhật của mình. 
Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải duy trì, bảo 
tồn và phát triển sân khấu Dù kê trong cộng đồng 
người Khmer Nam Bộ. Thực hiện được nhiệm vụ 
này, cũng có nghĩa là chúng ta góp phần bảo tồn 
và phát triển không chỉ là văn hóa của cộng đồng 
người Khmer nói riêng mà là góp phần bảo tồn 
và phát triển văn hóa của cả dân tộc Việt Nam nói 
chung. Theo suy nghĩ của chúng tôi, để thực hiện 
được nhiệm vụ đó, chúng ta phải làm sao duy trì 
được “tính chất bản địa” của đội ngũ “diễn viên”, 
đồng thời phải duy trì được môi trường phát triển 
mà ở đó Dù kê được gắn chặt với công chúng 
người Khmer. Muốn vậy, có lẽ trong nhiều vấn 
đề khác nhau, có hai vấn đề thực sự quan trọng 
cần được chúng ta cân nhắc và xem xét một cách 
nghiêm túc.
2.3.1. Xây dựng đội ngũ diễn viên thông thạo về 
tiếng và chữ Khmer
 Theo suy nghĩ của chúng tôi, để duy trì, bảo 
tồn và phát triển sân khấu Dù kê trong cộng đồng 
người Khmer Nam Bộ, trước hết là làm sao chúng 
ta phải có được đội ngũ diễn viên biểu diễn có chất 
lượng tốt cho loại hình nghệ thuật này. Theo đó, 
đội ngũ diễn viên biểu diễn có chất lượng phải sẽ 
là những người đáp ứng những đặc điểm mà chúng 
tôi đã phân tích ở mục 2 làm nên đặc trưng bản địa 
của loại hình sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ.
 Trong những yêu cầu đó, trước hết phải là yêu 
cầu hoàn thiện về ngôn ngữ mẹ đẻ của người Khmer. 
Muốn làm được điều đó, việc phổ cập tiếng Khmer 
cho người cộng đồng người Khmer phải được đặc 
biệt chú ý. Chúng ta biết rằng trong chính sách 
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống 
của các dân tộc, vai trò của tiếng mẹ đẻ người dân 
tộc giữ một vị trí đặc biệt. Trong những năm qua, 
hệ thống nhà chùa của người Khmer Nam Bộ nói 
chung và, chẳng hạn, ở Trà Vinh nói riêng đã có 
những đóng góp không nhỏ vào việc duy trì tiếng 
Khmer, chữ Khmer ở đồng bằng Nam Bộ. Nhưng 
như vậy là chưa đủ. Ngày nay, tiếng Khmer và chữ 
Khmer đã được giảng dạy trong trường phổ thông, 
ở ngành học chuyên nghiệp (như ở Trường Đại 
học Trà Vinh). Đó là một hướng đi đúng với thực 
tế xã hội và chính sách của Nhà nước Việt Nam. 
 Như vậy, khi nào mà trong cộng đồng người 
dân Khmer Nam Bộ là một cộng đồng song ngữ 
(tiếng quốc gia - tiếng mẹ đẻ) hoàn chỉnh, thì khi 
đó chúng ta mới có điều kiện tốt để tuyển chọn 
được đội ngũ diễn viên đáp ứng yêu cầu ngày càng 
phát triển của sân khấu Dù kê. Bản chất chức năng 
của ngôn ngữ là phương tiện trong giao tiếp cộng 
đồng. Cho nên, muốn có đội ngũ diễn viên đáp ứng 
tốt yêu cầu ngôn ngữ mẹ đẻ cho sân khấu Dù kê, 
không cách nào tốt hơn cách tôi luyện đội ngũ ấy 
trong môi trường ngôn ngữ của toàn xã hội. Vì thế, 
xây dựng cộng đồng người dân Khmer Nam Bộ 
trở thành một cộng đồng song ngữ hoàn chỉnh là 
một trong những cách thức tốt nhất để duy trì, bảo 
tồn và phát triển sân khấu Dù kê. Chúng tôi nghĩ 
rằng cách làm như thế mới thực sự là cách làm bền 
vững cho sự phát triển văn hóa dân tộc Khmer nói 
chung và sân khấu Dù kê nói riêng.
2.3.2. Môi trường phát triển phải được gắn chặt 
với công chúng
 Vấn đề thứ hai trong nhiệm vụ duy trì, bảo tồn 
và phát triển sân khấu Dù kê ở cộng đồng người 
Khmer Nam Bộ là vấn đề đảm bảo môi trường biểu 
diễn của loại hình sân khấu này phải được gắn chặt 
với công chúng người Khmer. Muốn vậy, việc xây 
dựng và phát triển loại sân khấu Dù kê phải luôn 
luôn tôn trọng đặc trưng bản địa của nó. Nói một 
cách khác, những đặc điểm làm nên đặc trưng của 
sân khấu Dù kê như trang phục, âm nhạc, sân khấu 
nơi biểu diễn phải luôn được chú ý lưu giữ. Có 
như vậy, người Khmer Nam Bộ mới cảm nhận sân 
khấu Dù kê là bản sắc của mình. Đó là cách thức 
để đảm bảo môi trường biểu diễn của loại hình sân 
khấu này gắn chặt với công chúng.
Với cách nhìn như vậy, chúng tôi thấy rằng 
cách làm ở tỉnh Trà Vinh hiện nay là một ví dụ tốt 
trong việc duy trì, bảo tồn và phát triển sân khấu 
Dù kê. Theo đó, các chùa Khmer trong tỉnh đều 
thành lập đội văn nghệ, lấy loại hình nghệ thuật 
sân khấu ca kịch Dù kê làm nền tảng trong hoạt 
động. Cách làm đó, về bản chất đang là cách làm 
khoa học để đảm bảo môi trường biểu diễn của 
loại hình sân khấu này đúng như nó vốn có. Từ 
môi trường dân gian đó, những đoàn nghệ thuật 
sân khấu lấy ca kịch Dù kê làm nền tảng sẽ có điều 
kiện tuyển chọn được một đội ngũ diễn viên có 
giọng hát và khả năng diễn xuất rất tốt. Đó là một 
cách làm đúng hướng để cho sân khấu Dù kê được 
duy trì, bảo tồn và phát triển.
3. Kết luận
Cộng đồng người Khmer Nam Bộ là một cộng 
đồng góp phần làm nên đặc trưng đa văn hóa của 
dân tộc Việt Nam. Trong số 53 dân tộc thiểu số, có 
thể nói, người Khmer Nam Bộ là một cộng đồng 
song ngữ hoàn chỉnh. Ở đó, việc sử dụng ngôn ngữ 
quốc gia cũng như tiếng mẹ đẻ về cơ bản đều quan 
trọng như nhau. Chính nhờ đặc điểm đó chúng ta 
mới thấy hết giá trị văn hóa của tiếng mẹ đẻ (tiếng 
Khmer) trong biểu diễn sân khấu Dù kê ở Nam Bộ.
Cho nên, chúng tôi cho rằng để luôn duy trì 
sự hấp dẫn của sân khấu Dù kê, chúng ta phải tạo 
điều kiện tốt để sân khấu này “đắm mình” trong 
môi trường tiếng mẹ đẻ của người Khmer. Đó là 
cách để từ đó có thể lựa chọn được đội ngũ diễn 
viên đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của sân 
khấu Dù kê; đó cũng là cách để chúng ta luôn nuôi 
dưỡng “tính dân gian” của sân khấu Dù kê. Bởi vì, 
ngôn ngữ chỉ có sức sống mãnh liệt khi nó đích 
thực là phương tiện trong giao tiếp cộng đồng dân 
cư là chủ thể của ngôn ngữ đó.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Mạnh Cường. 2002. Vài nét về người Khmer Nam Bộ. NXB Khoa học xã hội. Tr.451.
Nhiều tác giả. Về sân kháu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng. 
Tr.174.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. 
Tr.371.
Sơn Phước Hoan (chủ biên). 2002. Các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ. NXB 
Giáo dục. Tr.143.
Trần Minh Thương. Tiếng Việt gốc Khmer trong ngôn ngữ bình dân ở miền tây Nam Bộ - nhìn từ 
góc độ ca dao. Nguồn sáng (Tạp chí của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam). số 3-2011.
Trần Trí Dõi. 1999 (Tái bản năm 2000). Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. NXB 
Đại học Quốc gia Hà Nội. Tr.301.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/201462 Soá 13, thaùng 3/2014 63
có thể lấy trường hợp gia đình nghệ nhân Chau 
Men Sa Ray ở xã Ô Lâm (Tri Tôn, An Giang) làm 
ví dụ. Hàng ngày cùng sinh sống với cộng đồng 
thôn ấp, nhưng khi hóa thân thành diễn viên cả 
ba người trong gia đình (gồm hai vợ chồng Chau 
Men Sa Ray và Néang Ok với cô con gái Néang 
Kunh Thia) đã trở thành những diễn viên “chuyên 
nghiệp” thực thụ. Họ có thể làm như thế được chỉ 
khi họ có tình yêu và mong muốn gìn giữ loại hình 
nghệ thuật này như một thứ “bảo vật” thiêng liêng 
của cộng đồng. Tính chất gần gũi giữa công chúng 
và diễn viên rõ ràng là nguồn động viên tinh thần 
rất lớn đối với diễn viên sân khấu Dù kê. Nhờ đó, 
ngọn lửa nhiệt tình vẫn sáng mãi trong tim, giúp họ 
nỗ lực để giữ gìn giá trị văn hóa thiêng liêng của 
cộng đồng dân tộc.
2.3. Duy trì, bảo tồn và phát triển sân khấu Dù 
kê Khmer Nam Bộ như thế nào?
 Có thể nói, đối với người Khmer Nam Bộ, sân 
khấu Dù kê đã trở thành món ăn tinh thần không 
thể thiếu trong đời sống thường nhật của mình. 
Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải duy trì, bảo 
tồn và phát triển sân khấu Dù kê trong cộng đồng 
người Khmer Nam Bộ. Thực hiện được nhiệm vụ 
này, cũng có nghĩa là chúng ta góp phần bảo tồn 
và phát triển không chỉ là văn hóa của cộng đồng 
người Khmer nói riêng mà là góp phần bảo tồn 
và phát triển văn hóa của cả dân tộc Việt Nam nói 
chung. Theo suy nghĩ của chúng tôi, để thực hiện 
được nhiệm vụ đó, chúng ta phải làm sao duy trì 
được “tính chất bản địa” của đội ngũ “diễn viên”, 
đồng thời phải duy trì được môi trường phát triển 
mà ở đó Dù kê được gắn chặt với công chúng 
người Khmer. Muốn vậy, có lẽ trong nhiều vấn 
đề khác nhau, có hai vấn đề thực sự quan trọng 
cần được chúng ta cân nhắc và xem xét một cách 
nghiêm túc.
2.3.1. Xây dựng đội ngũ diễn viên thông thạo về 
tiếng và chữ Khmer
 Theo suy nghĩ của chúng tôi, để duy trì, bảo 
tồn và phát triển sân khấu Dù kê trong cộng đồng 
người Khmer Nam Bộ, trước hết là làm sao chúng 
ta phải có được đội ngũ diễn viên biểu diễn có chất 
lượng tốt cho loại hình nghệ thuật này. Theo đó, 
đội ngũ diễn viên biểu diễn có chất lượng phải sẽ 
là những người đáp ứng những đặc điểm mà chúng 
tôi đã phân tích ở mục 2 làm nên đặc trưng bản địa 
của loại hình sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ.
 Trong những yêu cầu đó, trước hết phải là yêu 
cầu hoàn thiện về ngôn ngữ mẹ đẻ của người Khmer. 
Muốn làm được điều đó, việc phổ cập tiếng Khmer 
cho người cộng đồng người Khmer phải được đặc 
biệt chú ý. Chúng ta biết rằng trong chính sách 
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống 
của các dân tộc, vai trò của tiếng mẹ đẻ người dân 
tộc giữ một vị trí đặc biệt. Trong những năm qua, 
hệ thống nhà chùa của người Khmer Nam Bộ nói 
chung và, chẳng hạn, ở Trà Vinh nói riêng đã có 
những đóng góp không nhỏ vào việc duy trì tiếng 
Khmer, chữ Khmer ở đồng bằng Nam Bộ. Nhưng 
như vậy là chưa đủ. Ngày nay, tiếng Khmer và chữ 
Khmer đã được giảng dạy trong trường phổ thông, 
ở ngành học chuyên nghiệp (như ở Trường Đại 
học Trà Vinh). Đó là một hướng đi đúng với thực 
tế xã hội và chính sách của Nhà nước Việt Nam. 
 Như vậy, khi nào mà trong cộng đồng người 
dân Khmer Nam Bộ là một cộng đồng song ngữ 
(tiếng quốc gia - tiếng mẹ đẻ) hoàn chỉnh, thì khi 
đó chúng ta mới có điều kiện tốt để tuyển chọn 
được đội ngũ diễn viên đáp ứng yêu cầu ngày càng 
phát triển của sân khấu Dù kê. Bản chất chức năng 
của ngôn ngữ là phương tiện trong giao tiếp cộng 
đồng. Cho nên, muốn có đội ngũ diễn viên đáp ứng 
tốt yêu cầu ngôn ngữ mẹ đẻ cho sân khấu Dù kê, 
không cách nào tốt hơn cách tôi luyện đội ngũ ấy 
trong môi trường ngôn ngữ của toàn xã hội. Vì thế, 
xây dựng cộng đồng người dân Khmer Nam Bộ 
trở thành một cộng đồng song ngữ hoàn chỉnh là 
một trong những cách thức tốt nhất để duy trì, bảo 
tồn và phát triển sân khấu Dù kê. Chúng tôi nghĩ 
rằng cách làm như thế mới thực sự là cách làm bền 
vững cho sự phát triển văn hóa dân tộc Khmer nói 
chung và sân khấu Dù kê nói riêng.
2.3.2. Môi trường phát triển phải được gắn chặt 
với công chúng
 Vấn đề thứ hai trong nhiệm vụ duy trì, bảo tồn 
và phát triển sân khấu Dù kê ở cộng đồng người 
Khmer Nam Bộ là vấn đề đảm bảo môi trường biểu 
diễn của loại hình sân khấu này phải được gắn chặt 
với công chúng người Khmer. Muốn vậy, việc xây 
dựng và phát triển loại sân khấu Dù kê phải luôn 
luôn tôn trọng đặc trưng bản địa của nó. Nói một 
cách khác, những đặc điểm làm nên đặc trưng của 
sân khấu Dù kê như trang phục, âm nhạc, sân khấu 
nơi biểu diễn phải luôn được chú ý lưu giữ. Có 
như vậy, người Khmer Nam Bộ mới cảm nhận sân 
khấu Dù kê là bản sắc của mình. Đó là cách thức 
để đảm bảo môi trường biểu diễn của loại hình sân 
khấu này gắn chặt với công chúng.
Với cách nhìn như vậy, chúng tôi thấy rằng 
cách làm ở tỉnh Trà Vinh hiện nay là một ví dụ tốt 
trong việc duy trì, bảo tồn và phát triển sân khấu 
Dù kê. Theo đó, các chùa Khmer trong tỉnh đều 
thành lập đội văn nghệ, lấy loại hình nghệ thuật 
sân khấu ca kịch Dù kê làm nền tảng trong hoạt 
động. Cách làm đó, về bản chất đang là cách làm 
khoa học để đảm bảo môi trường biểu diễn của 
loại hình sân khấu này đúng như nó vốn có. Từ 
môi trường dân gian đó, những đoàn nghệ thuật 
sân khấu lấy ca kịch Dù kê làm nền tảng sẽ có điều 
kiện tuyển chọn được một đội ngũ diễn viên có 
giọng hát và khả năng diễn xuất rất tốt. Đó là một 
cách làm đúng hướng để cho sân khấu Dù kê được 
duy trì, bảo tồn và phát triển.
3. Kết luận
Cộng đồng người Khmer Nam Bộ là một cộng 
đồng góp phần làm nên đặc trưng đa văn hóa của 
dân tộc Việt Nam. Trong số 53 dân tộc thiểu số, có 
thể nói, người Khmer Nam Bộ là một cộng đồng 
song ngữ hoàn chỉnh. Ở đó, việc sử dụng ngôn ngữ 
quốc gia cũng như tiếng mẹ đẻ về cơ bản đều quan 
trọng như nhau. Chính nhờ đặc điểm đó chúng ta 
mới thấy hết giá trị văn hóa của tiếng mẹ đẻ (tiếng 
Khmer) trong biểu diễn sân khấu Dù kê ở Nam Bộ.
Cho nên, chúng tôi cho rằng để luôn duy trì 
sự hấp dẫn của sân khấu Dù kê, chúng ta phải tạo 
điều kiện tốt để sân khấu này “đắm mình” trong 
môi trường tiếng mẹ đẻ của người Khmer. Đó là 
cách để từ đó có thể lựa chọn được đội ngũ diễn 
viên đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của sân 
khấu Dù kê; đó cũng là cách để chúng ta luôn nuôi 
dưỡng “tính dân gian” của sân khấu Dù kê. Bởi vì, 
ngôn ngữ chỉ có sức sống mãnh liệt khi nó đích 
thực là phương tiện trong giao tiếp cộng đồng dân 
cư là chủ thể của ngôn ngữ đó.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Mạnh Cường. 2002. Vài nét về người Khmer Nam Bộ. NXB Khoa học xã hội. Tr.451.
Nhiều tác giả. Về sân kháu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng. 
Tr.174.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. 
Tr.371.
Sơn Phước Hoan (chủ biên). 2002. Các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ. NXB 
Giáo dục. Tr.143.
Trần Minh Thương. Tiếng Việt gốc Khmer trong ngôn ngữ bình dân ở miền tây Nam Bộ - nhìn từ 
góc độ ca dao. Nguồn sáng (Tạp chí của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam). số 3-2011.
Trần Trí Dõi. 1999 (Tái bản năm 2000). Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. NXB 
Đại học Quốc gia Hà Nội. Tr.301.

File đính kèm:

  • pdftinh_ban_dia_dac_trung_quan_trong_lam_nen_su_hap_dan_cho_san.pdf