Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm
Tóm tắt: Kế toán quản trị (KTQT) là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho các nhà quản trị
doanh nghiệp (DN) trong quá trình ra quyết định. Trên thế giới, KTQT đã có lịch sử hình
thành và phát triển hơn 100 năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam KTQT trong các DN, KTQT còn
tương đối sơ khai, nhiều kỹ thuật KTQT hiện đại chưa được áp dụng. Bài viết cũng nghiên
cứu ảnh hưởng của một số yếu tố ngẫu nhiên đến mức độ áp dụng KTQT. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, mức độ phân quyền, mức độ áp dụng CNTT và trình độ nhân viên có ảnh hưởng
đáng kể đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 183 MỨC ĐỘ ÁP DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM - KẾT QUẢ TỪ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ADOPTION OF MANAGEMENT ACCOUNTING PRACTICES: AN VIETNAMESE STUDY #Thái Anh Tuấn Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh Tóm tắt: Kế toán quản trị (KTQT) là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho các nhà quản trị doanh nghiệp (DN) trong quá trình ra quyết định. Trên thế giới, KTQT đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn 100 năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam KTQT trong các DN, KTQT còn tương đối sơ khai, nhiều kỹ thuật KTQT hiện đại chưa được áp dụng. Bài viết cũng nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố ngẫu nhiên đến mức độ áp dụng KTQT. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ phân quyền, mức độ áp dụng CNTT và trình độ nhân viên có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN. Từ khóa: CNTT, KTQT, mức độ áp dụng, phân quyền, trình độ kế toán Abstract: Management accounting is critical information for decision making. In the developed countries, the management accounting has been developing and adopting for more than 100 years. In Vietnam, however, management accounting is rarely. Many management accounting practices aren’t adopted. Researcher also indicated affect of some contingency factors to adoption of management accounting practices. Level of decentralized, IT and knowledge of accountants has significant affect to the adoption, others are not. Keywords: Adoption, IT, management accounting, decentralized, knowledge of accountants 1. Giới thiệu Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các DN Việt Nam đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các DN trong và ngoài nước. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các DN cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đem lại nhiều giá trị gia tăng cho khách hàng với các chi phí thấp. Để thực hiện được điều này, các DN cần có hệ thống thông tin trợ giúp cho các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định. KTQT là nguồn thông tin quan trọng giúp các nhà quản trị phân tích để đưa ra các quyết định đúng đắn góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. Trên thế giới, KTQT đã được các DN Mỹ áp dụng từ cuối thế kỷ thứ XIX và hiện nay ở các cường quốc kinh tế, KTQT rất được coi trọng và được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn. Tại Việt Nam, mặc dù nền kinh tế đã chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường từ hơn 30 năm nay nhưng hệ thống KTQT trong các DN vẫn còn sơ khai và chưa được quan tâm đúng mức. Thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản trị DN nói riêng và khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam trên thị trường nói chung. Bài viết này giới thiệu kết quả nghiên cứu bằng một khảo sát thực nghiệm tương đối toàn diện về mức độ áp dụng KTQT và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. Nghiên cứu sẽ trả lời hai câu hỏi sau: (i) Các phương pháp và kỹ thuật KTQT được các DN Việt Nam n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 184 áp dụng ở mức độ nào? (ii) Các yếu tố ngẫu nhiên có ảnh hưởng như thế nào đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN Việt Nam? Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung lý luận về tổ chức áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam và cơ sở cho các khuyến nghị và biện pháp, nhằm thúc đẩy việc áp dụng KTQT trên thực tế trong các DN Việt Nam. Sau phần mở đầu, phần hai của bài viết sẽ là tổng quan nghiên cứu về KTQT trong và ngoài nước. Phần ba là phương pháp nghiên cứu. Phần bốn là kết quả khảo sát và phân tích kết quả. Phần cuối cùng là các phát hiện, khuyến nghị và hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai. 2. Tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu Trong khoảng 30 năm trở lại đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về KTQT, các công trình nghiên cứu tập trung vào các chủ đề như mức độ áp dụng KTQT trong các DN, so sánh mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở một số nước và các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng KTQT trong các DN. Tiêu biểu cho các công trình nghiên cứu này là công trình nghiên cứu của Chenhall và Langfield-Smith (1998) nghiên cứu mức độ áp dụng các phương pháp KTQT tại 140 DN lớn trong ngành công nghiệp chế biến của Úc. Mô hình nghiên cứu của Chenhall & Langfield-Smith sau này được nhiều công trình nghiên cứu khác áp dụng để nghiên cứu mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở các nước hoặc trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau như Abdel- Kader và Luther (2006), Pierce&O’Dea(1998), Shields (1998), Wijewardena & Zoysa(1999), Ahmad(2012), Yalcin (2012); NuatipSumkaew (2012), v.v Bên cạnh các công trình nghiên cứu về mức độ áp dụng KTQT trong các DN, nhiều công trình nghiên cứu tập trung lý giải nguyên nhân và ảnh hưởng của các yếu tố đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN. Nổi bật trong các công trình này là các nghiên cứu của các tác giả Joshi (2001), Haldma&Laats (2002), Szychta (2002), Sulaimanetal. (2004), Pierce và O’Dea (1998), Karanja và cộng sự (2013), Abdel- Kader và Luther (2006), Abdel- Kaderetal., (2008), Ahmad, K. (2012), Doan Ngoc Phi Anh (2012), Pollanen và Abdel- Maksoud (2010), Ahmad &Leftesi, 2014; Doan, 2016; James, 2013; Maelah & Ibrahim, 2007; Subasinghe & Fonseka, 2009. Hầu hết các công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN đều dựa trên lý thuyết ngẫu nhiên để xác định các yếu tố ảnh hưởng. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng được mỗi công trình nghiên cứu không hoàn toàn giống nhau. Yếu tố đầu tiên được nhiều tác giả nghiên cứu là mức độ cạnh tranh trên thị trường. Sulaimanetal. (2004), Halma và Laats (2002), Karanja và cộng sự (2014), Sulaimanetal. (2015), Ahmad, K. (2012), Doan Ngoc Phi Anh (2012), Ahmad, K. etal. (2015), (Leite, 2015), Kariuki, S. N. (2016) đều cho rằng cạnh tranh ngày càng tăng dẫn đến các DN phải sử dụng nguồn lực và ra quyết định hiệu quả hơn từ đó làm phát sinh nhu cầu thông tin phục vụ quản trị DN. Yếu tố thứ hai được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu là quy mô DN. Quy mô DN thường xuyên được coi là một yếu tố trong mô hình ngẫu nhiên (Chenhall, 2007). Các công trình nghiên cứu của các tác giả Joshi (2001), Haldma&Laats (2002), Szychta (2002), Alattaretal. (2009), Sulaimanetal. (2004), Pierce và O’Dea (1998), Karanja và cộng sự (2013), Abdel- Kader và Luther (2006), Abdel- Kaderetal (2008), Ahmad, K. (2012), Doan Ngoc Phi n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 185 Anh (2012), Albu, N. etal., (2012), Pollanen và Abdel- Maksoud (2010) đều coi quy mô là một yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN. Yếu tố thứ ba được nghiên cứu là mối quan hệ giữa phân quyền và việc áp dụng KTQT được Abdel- Kader (2008), Doan (2012) và Leite (2015) nghiên cứu và cho kết quả giống nhau là việc phân quyền trong quản trị có tác động tích cực đến việc áp dụng các phương pháp KTQT hiện đại (Chia, (1995), Abdel- Kader (2008). Ngoài các yếu tố trên, ảnh hưởng của việc áp dụng CNTT, sự quan tâm của nhà quản trị đến KTQT và trình độ nhân viên kế toán đến mức độ áp dụng KTQT cũng được nhiều tác giả nghiên cứu. Tại Việt Nam, mặc dù KTQT đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học từ gần 30 năm qua. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về KTQT vẫn còn khiêm tốn. Cho đến nay ngoài các công trình nghiên cứu về khả năng áp dụng các kỹ thuật KTQT của phương Tây vào các DN Việt Nam của Đoàn Ngọc Phi Anh (2012) và nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Dung (2014) nhằm mục đích xác định KTQT trong các DN Việt Nam đang ở trong giai đoạn nào trong quá trình phát triển của KTQT. Như vậy, có thể nói, cho đến nay chưa có công trình nào tại Việt Nam nghiên cứu đầy đủ về mức độ áp dụng KTQT và ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Đây chính là khoảng trống cho nghiên cứu này. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Thu thập dữ liệu Bảng hỏi được thiết kế và phát triển dựa trên các câu hỏi khảo sát đã được một số tác giả sử dụng trước đây như: Chenhall và Langfield- Smith (1998), Wijewardena (1999), Joshi (2001), Hyvonen (2005), Ahmad (2012), Yalcin (2012) và có sự chỉnh sửa cho phù hợp với văn hóa, ngôn ngữ và thực tiễn của DN Việt Nam trên cơ sở thông tin phản hồi từ 4 chuyên gia là giảng viên dạy kế toán trong các trường đại học tại Vinh và Hà nội và 6 chuyên gia là phụ trách kế toán trong các DN tại Vinh và Hà nội. Bảng câu hỏi gồm 30 câu, gồm các phần sau: Phần giới thiệu: Trình bày mục đích, ý nghĩa nghiên cứu, mời tham gia khảo sát và cam kết về mục đích sử dụng và bảo mật thông tin đối với người trả lời. Phần 1. Thông tin chung về DN và người trả lời (từ câu hỏi 1 đến câu hỏi 8): Các câu hỏi về DN, bao gồm các thông tin phục vụ cho phân loại và đánh giá quy mô DN như số lượng lao động sử dụng, doanh thu hàng năm, quy mô tài sản. Thông tin về thời gian thành lập hoặc số năm hoạt động được sử dụng để xác định tuổi của DN. Thông tin về người trả lời bao gồm các thông tin về vị trí công việc mà người trả lời đảm nhận và số năm công tác tại DN để đánh giá mức độ hiểu biết của họ về hệ thống KTQT của công ty. Phần 2. Khảo sát mức độ áp dụng KTQT trong DN (từ câu hỏi 9 đến câu hỏi 21): Phần này bao gồm các câu hỏi được thiết kế phục vụ cho việc đánh giá mức độ áp dụng KTQT trong các DN để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ nhất.Câu hỏi sử dụng cho mục này là “Công ty của anh/chị đang áp dụng các phương pháp KTQT dưới đây ở mức độ nào?”. Thang đo Likert 5 mức độ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi này với 1 = chưa bao giờ n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 186 và 5 = rất thường xuyên. Phần 3. Khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến KTQT trong DN (từ câu 21 đến câu 30): Phần này gồm các câu hỏi thu thập thông tin để đánh giá mức độ của một số yếu tố ngẫu nhiên trong mô hình nghiên cứu. Các yếu tố ngẫu nhiên được lựa chọn dựa trên các mô hình nghiên cứu trước đây gồm: Cạnh tranh, phân quyền, mức độ áp dụng CNTT trong DN, Sự quan tâm của nhà quản trị đến KTQT và Trình độ nhân viên kế toán. Thang đo Likert 5 mức độ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi này. Bảng hỏi điều tra được phát trực tiếp thông qua các mối quan hệ cá nhân và đồng thời được gửi qua thư điện tử (emai) nhờ công cụ Google Docs. Tổng cộng có hơn 1.000 bảng hỏi được phát ra cho các đối tượng là nhà quản lý, phụ trách kế toán và kế toán viên trong các DN được lựa chọn trong phạm vi nghiên cứu. Khảo sát được thực hiện từ tháng 4/2017 đến tháng 12/2017. Số phiếu nhận được là 483 phiếu, sau khi làm sạch, loại bỏ các phiếu trả lời trùng, các phiếu bỏ trống quá nhiều câu hỏi không sử dụng được và các phiếu trả lời không phù hợp, có nhiều mâu thuẫn.... còn lại 437 phiếu. Đặc điểm của các DN trả lời khảo sát thể hiện ở bảng sau: Bảng 1. Đặc điểm các DN trả lời khảo sát Các đặc điểm Số lượng Tỷ lệ Dịch vụ 26 5,9 Đa ngành 60 13,7 Sản xuất 76 17,4 Thương mại 97 22,2 Xây dựng 178 40,7 Lĩnh vực kinh doanh Tổng 437 100,0 Dưới 100 người 252 57,7 Từ 100 đến 300 người 90 20,6 Từ 301 đến 500 người 39 8,9 Từ 501 đến 1000 người 28 6,4 Trên 1000 người 28 6,4 Số lao động Tổng 437 100,0 Lĩnh vực kinh doanh: Các DN trả lời khảo sát được chia thành 5 lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất, xây dựng, thương mại, dịch vụ và đa ngành. Trong đó, các DN đa ngành là những DN có hoạt động chính từ 2 ngành nghề trở lên như sản xuất và xây dựng, thương mại và dịch vụ hoặc xây dựng và thương mại, v.v Bảng 1 cho thấy trong số các DN trả lời khảo sát, DN xây dựng chiếm tỷ lệ cao nhất (40%), tiếp theo là DN thương mại (22,2%) và thấp nhất là các DN dịch vụ (26 DN, chiếm 5,9%). n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 187 Quy mô DN: Nghiên cứu sử dụng tiêu chí số lao động để phân loại quy mô DN, đây là cách phân loại được một số tác giả như Szychta (2002), Halbouni(2014) sử dụng. Theo cách phân loại này, các DN có quy mô nhỏ dưới 100 người chiếm tỷ lệ cao nhất (57,7%), tiếp đến là các DN có số lượng lao động từ trên 100 người đến 300 người (20,6%). Các DN có từ 501 đến 1.000 người và trên 1.000 người chiếm tỷ lệ như nhau (6,4%). Địa phương đóng trụ sở của DN: Các DN trả lời khảo sát nằm rải rác tại 26 tỉnh trên cả nước, đông nhất là Hà Nội, chiếm 69,6%, ít nhất là các tỉnh Cao Bằng, Đà Nẵng, Đồng Nai, Hà Tĩnh, Kon Tum và Lạng Sơn, mỗi tỉnh chỉ có 1 DN trả lời khảo sát. 3.2. Kỹ thuật xử lý dữ liệu Dữ liệu thu được từ khảo sát chính thức sẽ được làm sạch sau đó dùng cho phân tích nhân tố khám phá EFA. Các nhân tố thu được rút trích từ phân tích EFA sẽ được đánh giá độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s alpha trước khi phân tích tương quan và phân tích hồi quy để kiểm định các giả thuyết. 4. Kết quả và bàn luận 4.1. Mức độ áp dụng các kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam 4.1.1. Kỹ thuật hạch toán chi phí Xét chung tổng số các DN trả lời khảo sát, tỷ lệ các DN áp dụng hạch toán chi phí theo sản phẩm ở mức thường xuyên và rất thường xuyên chiếm 66,1% số DN trả lời khảo sát. Số còn lại không áp dụng hoặc áp dụng ở mức thấp. Tỷ lệ các DN hạch toán chi phí theo bộ phận (phân xưởng, đội sản xuất, đội xây lắp, phòng ban, v.v ) ở mức thường xuyên và rất thường xuyên chỉ chiếm 30,9%. Tỷ lệ áp dụng hạch toán chi phí toàn DN đạt 59,3% và tính giá thành theo chi phí biến đổi đạt tỷ lệ 26,1%. Điều này có thể do các DN khảo sát phần lớn là các DN có quy mô vừa và nhỏ nên thường hạch toán chi phí trên quy mô toàn DN. Về mức độ áp dụng các kỹ thuật hạch toán chi phí. Mức độ hạch toán theo sản phẩm cũng giảm dần giữa các DN. Đứng đầu là các DN xây dựng có mức độ hạch toán chi phí theo sản phẩm đạt điểm trung bình là 4,46/5 điểm. Đứng thứ hai về mức độ áp dụng hạch toán chi phí theo sản phẩm là các DN sản xuất, với điểm trung bình là 4,30 điểm. Các DN thương mại và dịch vụ có mức áp dụng rất thấp, lần lượt là 2,18 và 1,96 điểm. Các DN đa ngành áp dụng ở mức trung bình, 3,03 điểm. Mức độ hạch toán chi phí theo bộ phận trong các DN còn thấp hơn so với hạch toán chi phí theo sản phẩm. Ngoài các DN xây dựng áp dụng hạch toán theo bộ phận đạt mức trung bình, các DN còn lại đều dưới 3 điểm. Thấp nhất là các DN thương mại với điểm trung bình là 1,57 điểm. Mức độ áp dụng hạch toán chi phí toàn DN cao nhất là các DN dịch vụ với điểm trung bình đạt 4,24 điểm. Trong các DN khác mức áp dụng phương pháp này đều đạt ở mức trung bình. Mức độ áp dụng tính giá thành theo chi phí biến đổi trong các DN Việt Nam nhìn chung khá thấp. Ngoài các DN dịch vụ đạt điểm trung bình là 3,04, các DN còn lại có điểm trung bình đều dưới 3. Điều này chứng tỏ phương pháp hạch toán chi phí này còn chưa phổ biến ở Việt Nam. 4.1.2. Sử dụng dự toán Dự toán là công cụ được sử dụng để lập kế hoạch, kiểm soát và đánh giá hoạt động trong các DN. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ và mức độ dự toán khá cao trong các DN xây n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 188 dựng và sản xuất. Ngược lại, trong các DN thương mại và dịch vụ tỷ lệ sử dụng dự toán khá thấp. Cụ thể trong các DN xây dựng, tỷ lệ lập dự toán đạt từ 46,1 trở lên. Tỷ lệ lập dự toán sản xuất đạt cao nhất (100,0%), thấp nhất là báo cáo tài chính dự toán (46,1%). Các dự toán tiêu thụ, dự toán mua vật tư và dự toán tiền lần lượt đạt tỷ lệ 52,8; 65,2 và 57,3%. Các DN sản xuất có tỷ lệ sử dụng dự toán đứng thứ hai sau các DN xây dựng. Tỷ lệ áp dụng cao nhất đối với dự toán mua vật tư (52,6%), thấp nhất vẫn là áp dụng báo cáo tài chính dự toán (43,4%). Các dự toán sản xuất, tiêu thụ, và dự toán tiền lần lượt đạt tỷ lệ 51,3; 44,7 và 51,3%. Đứng thứ ba về tỷ lệ lập dự toán là các DN đa ngành. Trong các DN này, dự toán mua vật tư có tỷ lệ áp dụng cao nhất (58,3%), báo cáo tài chính (BCTC) dự toán có tỷ lệ sử dụng thấp nhất (31,7%). Dự toán tiêu thụ đạt tỷ lệ 53,3%. Cả hai dự toán sản xuất và dự toán tiền đều đạt tỷ lệ 41,7%. Các DN dịch vụ có tỷ lệ sử dụng dự toán tiền đạt tỷ lệ cao nhất (65,4%). Dự toán sản xuất đạt tỷ lệ thấp nhất (15,4%). Các dự toán khác đạt tỷ lệ trên dưới 40% (38,5% đối với dự toán tiêu thụ, dự toán mua đạt 46,2% và BCTC dự toán đạt 42,3%) . Trong các DN thương mại, tỷ lệ sử dụng các loại dự toán khá thấp. Thấp nhất là tỷ lệ sử dụng dự toán sản xuất (6,2%). Các dự toán còn lại đạt tỷ lệ từ 38,1 (báo cáo tài chính dự toán) đến 48,5% (dự toán tiền). Các dự toán tiêu thụ và mua hàng hóa đạt tỷ lệ tương đương nhau (45,4 và 46,4%). Mức độ sử dụng các loại dự toán trong các DN đạt mức trung bình từ 3,12 đến 3,44 điểm. Dự toán mua hàng có mức sử dụng cao nhất là 3,44 điểm. báo cáo tài chính dự toán có mức sử dụng thấp nhất (3,12). Xét theo lĩnh vực hoạt động, các DN xây dựng có mức độ sử dụng dự toán cao nhất. Điểm trung bình sử dụng dự toán trong các DN này đạt từ 3,35 đến 4,37 điểm. Mức độ sử dụng dự toán trong các DN thương mại thấp hơn trung bình. Ngoài dự toán sản xuất ít được sử dụng, các dự toán khác cũng chỉ đạt mức trung bình xung quanh 3 điểm (từ 2,78 đến 3,09 điểm). 4.1.3. Sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động Ngoài chỉ tiêu lợi nhuận ròng được hầu hết các DN sử dụng, chỉ tiêu có tỷ lệ sử dụng trên 50% là chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng doanh thu. Chỉ tiêu doanh thu trên một lao động có tỷ lệ sử dụng thấp nhất (từ 7,2% trong các DN thương mại đến 25% trong DN sản xuất). Các chỉ tiêu khác có tỷ lệ sử dụng trên dưới 40%. Mức độ áp dụng các chỉ tiêu tài chính đánh giá hoạt động Ngoài việc sử dụng thường xuyên chỉ tiêu lợi nhuận ròng, các chỉ tiêu tài chính đánh giá hoạt động được các DN sử dụng ở mức trung bình (trên 3,0). Chỉ tiêu doanh thu trên một lao động được sử dụng ở mức thấp nhất (2,6). Mức độ sử dụng các chỉ tiêu trong DN thương mại thấp hơn mức độ sử dụng chung của các DN được nghiên cứu. Tỷ lệ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính Nhìn chung, việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính trong các DN đều ở tỷ lệ thấp. Chỉ tiêu tỷ lệ hài lòng của khách hàng được sử dụng với tỷ lệ cao nhất 46,2% trong các DN dịch vụ. Các chỉ tiêu thời gian giao hàng đúng hạn và thời gian sản xuất/thi n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 189 công được sử dụng ở tỷ lệ 45,0% và 41% trong các DN đa ngành và DN xây dựng. Các chỉ tiêu còn lại đều có tỷ lệ sử dụng dưới 40%. Mức độ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá phi tài chính cũng khá thấp. Các chỉ tiêu đều có giá trị trung bình (mean) xung quanh 3,0. 4.1.4. Sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định ngắn hạn Hai kỹ thuật phân tích thông tin được sử dụng phổ biến nhất là phân tích CVP và phân tích lợi nhuận sản phẩm, với tỷ lệ sử dụng đạt trên 53%. Các kỹ thuật còn lại đều có tỷ lệ sử dụng thấp trong khoảng từ 20 đến 50%. Tương ứng với tỷ lệ sử dụng, mức độ sử dụng hai kỹ thuật phân tích CVP và phân tích lợi nhuận sản phẩm cũng đạt mức trên trung bình (3,4). Các kỹ thuật còn lại đều xung quanh 3,0. 4.1.5. Các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn Trong số các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn, tỷ lệ hoàn vốn nội bộ được sử dụng nhiều nhất trong các DN thương mại (88,7%), tiếp theo là thời gian hoàn vốn trong các DN xây dựng (51,7%). Các chỉ tiêu còn lại đều có tỷ lệ sử dụng dưới 50%. Mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn trong các DN xây dựng cao hơn các DN khác nhưng cũng chỉ đạt từ 3,4 đến 3,6. 4.1.6. Các kỹ thuật KTQT chiến lược KTQT chiến lược là các kỹ thuật mới không chỉ ở Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, kỹ thuật được sử dụng nhiều nhất là chi phí mục tiêu cũng chỉ đạt tỷ lệ 24,7% trong các DN xây dựng. Trong số các DN trả lời khảo sát chưa có DN nào sử dụng bảng điểm cân bằng. Các kỹ thuật còn lại có tỷ lệ sử dụng đều dưới 20%. Từ tỷ lệ sử dụng thấp làm cho mức độ áp dụng trung bình các kỹ thuật KTQT chiến lược trong các DN cũng thấp. Ngoài chi phí mục tiêu đạt giá trị trung bình trên 3,2 các kỹ thuật còn lại đều có giá trị trung bình dưới 3,0. Đặc biệt, chưa có DN nào trong số các DN được khảo sát áp dụng bảng điểm cân bằng. Mười kỹ thuật KTQT được sử dụng nhiều nhất trong các DN so với tỷ lệ áp dụng và xếp hạng trong các DN Ấn Độ và Australia trong nghiên cứu của Joshi (2001) như sau: Bảng 2. Mười kỹ thuật KTQT được áp dụng phổ biến trong các DN Việt Nam Việt Nam Ấn Độ Australia TT Tỷ lệ (%) Thứ hạng Tỷ lệ (%) Thứ hạng Tỷ lệ (%) Thứ hạng 1 Lợi nhuận ròng 100,0 1 n/a n/a n/a n/a 2 Hạch toán chi phí sản phẩm 66,1 2 n/a n/a n/a n/a 3 Dự toán sản xuất 57,7 3 100 1 100 2 4 Dự toán mua 56,8 4 n/a n/a n/a n/a 5 Dự toán tiền 52,6 5 95 2 99 2 6 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu 52,4 6 n/a n/a n/a n/a 7 Dự toán tiêu thụ 49,0 7 n/a n/a n/a n/a 8 Dòng tiền 43,9 8 80 9 84 14 9 Hiệu quả vốn đầu tư (ROI) 43,5 9 100 1 96 3 10 Thời gian hoàn vốn 43,5 10 n/a n/a n/a n/a n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 190 4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT được nghiên cứu gồm 5 biến độc lập: (1) Áp lực cạnh tranh (cạnh tranh), (2) Dự phân quyền quản trị trong DN (phân quyền), (3) Mức độ áp dụng thông tin (công nghệ thông tin), (4) Sự quan tâm của nhà quản trị đến KTQT và (5) Trình độ nhân viên kế toán. Biến phụ thuộc trong mô hình là một thang đo đa hướng gồm các thành phần sau: (a) Hệ thống hạch toán chi phí, (b) Hạch toán dự toán, (c) Các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định, (d) Hệ thống đánh giá hoạt động và (e) Các kỹ thuật KTQT chiến lược. Kết quả phân tích tương quan Spearman và kiểm định hồi quy tuyến tính cho thấy: Mức độ phân quyền, Mức độ áp dụng CNTT và Trình độ nhân viên kế toán có tác động đến mức độ sử dụng một số kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam. Cụ thể: Mức độ phân quyền trong DN có ảnh hưởng đến mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định. YHTPT = 0,169 + 0,321PQ Mức độ phân quyền và trình độ nhân viên kế toán có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động trong DN. YHTĐG = -0,226 + 0,162PQ + 0,147TĐKT Mức độ phân quyền và mức độ áp dụng CNTT có ảnh hưởng đến mức độ áp dụng các kỹ thuật KTQT chiến lược trong các DN. YKTQTCL = - 0,180 + 0,143PQ + 0,183CNTT Trong đó: PQ: Mức độ phân quyền trong DN CNTT: Mức độ áp dụng công nghệ thông tin TĐKT: Trình độ nhân viên kế toán Chưa có bằng chứng về mối quan hệ giữa Áp lực cạnh tranh và Sự quan tâm của nhà quản trị cấp cao đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. 5. Kết luận và các khuyến nghị Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam vẫn còn tương đối thấp, nhiều DN chưa quan tâm đến KTQT. Các phương pháp KTQT truyền thống được áp dụng là chủ yếu. Các phương pháp KTQT hiện đại như hạch toán chi phí theo hoạt động, bảng điểm cân bằng vẫn còn ít được áp dụng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: Chưa có bằng chứng về mối quan hệ giữa Áp lực cạnh tranh và Sự quan tâm của nhà quản trị cấp cao đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. Tuy nhiên, Mức độ phân quyền, Mức độ áp dụng CNTT và Trình độ nhân viên kế toán có tác động đến mức độ sử dụng một số kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam. Trong đó, Mức độ phân quyền có tác động đáng kể đến mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định, hệ thống đánh giá hoạt động và các kỹ thuật KTQT chiến lược. Từ kết quả nghiên cứu, có thể thấy để gia tăng mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở Việt Nam, cần thực hiện các khuyến nghị sau: n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 191 - Các DN cần tăng cường phân quyền quản trị trong DN cho các nhà quản trị. Phân quyền thường gắn với trách nhiệm của các nhà quản trị do vậy nó làm phát sinh nhu cầu thông tin để sử dụng hiệu quả các nguồn lực cũng như sử dụng các chỉ tiêu đánh giá để khuyến khích nhân viên trong DN. - Trong điều kiện hiện nay, các DN cần tăng cường áp dụng CNTT nhằm tự động hóa các công đoạn trong quá trình thu thập, xử lý dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc áp dụng các kỹ thuật KTQT tiên tiến. - Nâng cao trình độ kế toán, cập nhật các kiến thức KTQT hiện đại là điều kiện cần thiết để các kỹ thuật KTQT có thể được áp dụng trong các DN. ---------------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Abdel-Kader, M. (2006). "Management accounting practices in the British food and drinks industry." British Food Journal Vol. 108 No. 5, 2006 pp. 336-357 Emerald Group Publishing Limited 0007-070X DOI 10.1108/00070700610661321. 2. Ahmad, K. (2012). The use of management accounting practices in Malaysian SMEs, University of Exeter. Doctor thesis. 3. Ahmad, N. S. M., &Leftesi, A. (2014). An Exploratory Study of the Level of Sophistication of Management Accounting Practices in Libyan Manufacturing Companies. International Journal of Business and Management Vol. II (2). 4. Anh, D. N. P. (2016). Factors Affecting the Use and Consequences of Management Accounting Practices in A Transitional Economy: The Case of Vietnam. Journal of Economics and Development, 18(1), 54-73. 5. Chenhall, R. H. and K. Langfield-Smith (1998). "Adoption and benefits of management accounting practices: an Australian study." Management Accounting Research9(1): 1-19. 6. Doan, N. P. A. (2012). The adoption of western management accounting practices in Vietnamese enterprises during economic transition. (PhD), Griffith University. 7. Dung, N. T. P., &Aoki, M. (2014). The EvolutionofManagementAccountingPractices in Vietnam: a SurveyResearchonVietnameseFoodandBeverageEnterprises. The KeizaiGaku, AnnualReportof the EconomicSociety,TohokuUniversity, Nhật Bản, Tập 74- Số 4, Tháng 3/2014., 74(4), 167-183. 8. Haldma, T., &Lääts, K. (2002). Influencing contingencies on management accounting practices in Estonian manufacturing companies. University of Tartu - Economics and Business Administration Working Paper No. 13. Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=419863 or 9. James, P. C. (2013). An Analysis of the Factors Influencing the Adoption of Activity Based Costing (ABC) in the Financial Sector in Jamaica. International Journal of Business and Social Research (IJBSR), 3(7). 10. Joshi, P. L. (2001). The international diffusion of new management accounting practices: the case of India. Journal of International Accounting, Auditing & Taxation 10 (2001) 85–109. 11. Karanja, J. C. N., Mwangi, E., &Nyaanga, P. (2014). Adoption of Modern Management Accounting Techniques in Small and Medium (SMEs) in Developing Countries: A Case Study of SMEs in Kenya. 12. Kariuki, S. N., &Kamau, C. G. (2016). Organizational contingencies influencing the adoption of strategic management accounting practices among manufacturing firms in Kenya. International Journal of Advanced Research in Management and Social Sciences, 4(5), 16. 13. Leite, A. A., Fernandes, P. O., &Leite, J. M. (2015). Contingent factors that influence the use of management accounting practices in the Portuguese textile and clothing sector. The International Journal of Management Science and Information Technology, Special Issue: 2015 Spanish-Portuguese Scientific Management Conference (59 - 78). 14. Maelah, R., & Ibrahim, D. N. (2007). Factors influencing activity based costing (abc) adoption in manufacturing industry. Investment Management and Financial Innovations, Volume 4, Issue 2, 2007, 113-124. 15. Pierce, B., & O’Dea, T. (1998). Management Accounting Practices in Ireland – The Preparers’ Perspective. Research paper series. Paper No. 34. October 1998. 16. Pollanen, R. M., &Abdel-Maksoud, A. B. (2010). The deploymentofcontemporarymanagementaccountingpractices in Canadianfirms: a contingencyapproach. InternationalJournalofManagerialandFinancialAccounting, 2(2), 134-152. 17. Shields, M. D. (1998). Management accounting practices in Europe: a perspective from the States. Management Accounting Research, 1998, 9, 50 1-5 13. 18. Subasinghe, J., &Fonseka, A. T. (2009). Factors Affecting the Low Adoption of Management Accounting Practices in Sri Lankan Business Organizations. Sri Lankan Journal of Management. Volume 14, Number 2, 95-114. 19. Sulaiman, M. b., Ahmad, N. N. N., &Alwi, N. (2004). Management accounting practices in selected Asian countries: A review of the literature. Managerial Auditing Journal, Vol. 19 Iss 4 pp. 493 - 508. doi: 10.1108/02686900410530501 n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 192 20. Sulaiman, S., Ramli, A., &Zainuddin, Z. N. (2015). Factors Driving Change in Management Accounting Practices: Malaysian Survey Evidence. In R. Hashim& A. B. A. Majeed (Eds.), Proceedings of the Colloquium on Administrative Science and Technology: CoAST 2013: Springer Singapore. 21. Sumkaew, N., Liu, L. Y. J., & McLaren, J. (2012). Management Accounting Practices in Thailand. Paper presented at the A Paper Presented at Asia-pacific Management Accounting Association Conference,, Xiamen University, China, November 2012. 22. Szychta, A. (2002). "The scope of application of management accounting methods in Polish enterprises." Management Accounting Research13(4): 401-418. 23. Wijewardena, H., &Zoysa, A. D. (1999). Comparative Analysis of Management Accounting Practices in Australia and Japan: An Empirical Investigation. The International Journal of Accounting, 34(1), 1999, 49-70. 24. Yalcin, S. (2012). Adoption and Benefits of Management Accounting Practices: An Inter-country Comparison. Accounting in Europe, 9(1), 95-110. doi: 10.1080/17449480.2012.664394 ----------------------------------
File đính kèm:
- muc_do_ap_dung_ke_toan_quan_tri_trong_cac_doanh_nghiep_viet.pdf