Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

TÓM TẮT

Bài viết này đo lường mức độ tập trung (CR3, CR5, HI) và mức độ cạnh tranh (giá trị thống kê H)

và phân tích mối quan hệ hại đại lượng này các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Kết quả

nghiên cứu cho thấy mức độ tập trung của các NHTM Việt Nam gần mức trung bình của các nước

trong khu vực. Đồng thời, giá trị thống kê H trong giai đoạn 2002-2014 (H=0,415) cho thấy cấu trúc

thị trường NHTM Việt Nam gần với mô hình cạnh tranh độc quyền. Biến động của giá trị H trong

giai đoạn 2002-2008, 2009-2011, và 2012-2014 cho thấy mức độ cạnh tranh của các NHTM Việt

Nam gia tăng theo thời gian nhưng vẫn còn thấp hơn so với mức trung bình của các nước trong

khu vực. Trong khi đó, biến động của giá trị H theo nhóm ngân hàng chỉ ra rằng các NHTM cổ

phần có chỉ số cạnh tranh cao hơn nhóm NHTM nhà nước. Kết quả từ mô hình OLS xác nhận mối

tương quan nghịch giữa mức độ tập trung và cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Theo đó, ngân

hàng Nhà nước cần tăng cường quản lý hoạt động của các NHTM thông qua các quy định và các

chỉ số thay cho những can thiệp trực tiếp giúp tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.

pdf 12 trang yennguyen 6240
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Mức độ tập trung và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 
45 
MỨC ĐỘ TẬP TRUNG VÀ CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 
CONCENTRATION AND COMPETITION OF VIETNAMESE COMMERCIAL BANKS 
Ngày nhận bài: 25/09/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 09/10/2018 
Huỳnh Việt Khải, Phan Đình Khôi, Cao Văn Tài 
TÓM TẮT 
Bài viết này đo lường mức độ tập trung (CR3, CR5, HI) và mức độ cạnh tranh (giá trị thống kê H) 
và phân tích mối quan hệ hại đại lượng này các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy mức độ tập trung của các NHTM Việt Nam gần mức trung bình của các nước 
trong khu vực. Đồng thời, giá trị thống kê H trong giai đoạn 2002-2014 (H=0,415) cho thấy cấu trúc 
thị trường NHTM Việt Nam gần với mô hình cạnh tranh độc quyền. Biến động của giá trị H trong 
giai đoạn 2002-2008, 2009-2011, và 2012-2014 cho thấy mức độ cạnh tranh của các NHTM Việt 
Nam gia tăng theo thời gian nhưng vẫn còn thấp hơn so với mức trung bình của các nước trong 
khu vực. Trong khi đó, biến động của giá trị H theo nhóm ngân hàng chỉ ra rằng các NHTM cổ 
phần có chỉ số cạnh tranh cao hơn nhóm NHTM nhà nước. Kết quả từ mô hình OLS xác nhận mối 
tương quan nghịch giữa mức độ tập trung và cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Theo đó, ngân 
hàng Nhà nước cần tăng cường quản lý hoạt động của các NHTM thông qua các quy định và các 
chỉ số thay cho những can thiệp trực tiếp giúp tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. 
Từ khóa: Mức độ cạnh tranh, Mức độ tập trung, Cấu trúc ngân hàng, Việt Nam. 
ABSTRACT 
This paper measures the degree of concentration (CR3, CR5, and HI) and competition (statistical 
value of H) and estimates the relationship between the level of concentration and competition of 
Vietnamese commercial banks. The results showed that the level of concentration of commercial 
banks in Vietnam closed to the average level of the region. The statistical values of H in the period 
2002-2014 (H = 0.415) indicated that the marker structure of Vietnamese commercial bank system 
closely followed the monopolistic competition market. The average level of the H-statistical value in 
three periods 2002-2008, 2009-2011 and 2012-2014 showed an ascending pattern of competitive 
level of Vietnamese commercial banks although the competition level was slightly lower than the 
region’s average. Particularly, the H-statistical value indicated that the competitive level of the joint-
stock commercial bankswas higher than those of the state-owed banks. The result from OLS 
model confirmed the negative relationship between the level of concentration and competition in 
Vietnamese banking system. Based on the results, strengthening bank regulations and 
superivision commercial banks’ operations by using economic indicators from the State Bank while 
reducing direct intervetions from the government helps improve Vietnamese commerical banks’ 
competition. 
Keywords: Concentration;Competition;Banking structure; Vietnam. 
1. Giới thiệu 
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay 
phát triển đáng kể so với thời điểm mới 
chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp 
sang hai cấp năm 1990. Từ hệ thống ngân 
hàng gồm có Ngân hàng Nhà nước và 4 ngân 
hàng thương mại (NHTM) nhà nước chi phối 
gần như toàn bộ thị trường cho vay lẫn thị 
trường tiền gửi, hệ thống ngân hàng hiện 
tạicó hơn 40 NHTM trên cả nước. Mặc dù có 
sự gia tăng số ngân hàng trong hệ thống 
nhưng một số NHTM nhà nước vẫn còn khả 
năng chi phối mạnh trong hệ thống ngân 
hàng. Đến năm 2013, bốn ngân hàng lớn 
Huỳnh Việt Khải, Phan Đình Khôi, Cao Văn Tài, 
Khoa Kinh tế - Trường Đại học Cần Thơ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
46 
(Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank) 
chiếm hơn 38,37% tổng tài sản, 56,35% tổng 
cho vay và 47,38% tổng tiền gửi trong toàn 
hệ thống. 
Hệ thống ngân hàng Việt Nam thay đổi 
cấu trúc hoạt động theo từng giai đoạn của 
nền kinh tế, đặc biệt là cuộc khủng hoảng 
kinh tế toàn cầu năm 2008. Cụ thể, quy mô 
hệ thống ngân hàng giảm từ 45 NHTM 
xuống còn 38 NHTM từ sau năm 2011. Đồng 
thời, các NHTM nhà nước cũng dần được cổ 
phần hóa nhằm cải thiện sức cạnh tranh cho 
các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Thêm 
vào đó, mức độ cạnh tranh cũng bị ảnh 
hưởng mạnh bởi mức độ tham gia vốn của 
nhà nước tại các ngân hàng thương mại có 
quy mô lớn. Mặc dù cổ phần hóa từ nhiều 
năm trước nhưng tính đến thời điểm 2016, 
Nhà nước vẫn nắm giữ 65% vốn cổ phần tại 
Vietinbank và 95% tại BIDV (Thời báo kinh 
tế Sài Gòn, 2016). Ngoài ra, quá trình tái cấu 
trúc ngân hàng còn làm tăng vốn điều lệ của 
các ngân hàng lên đáng kể. Đặc biệt là chính 
sách tái cơ cấu một số ngân hàng yếu kém 
nhằm làm giảm nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân 
hàng. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với 
các NHTM Việt Nam chính là nội lực của 
các ngân hàng, quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân 
lực hạn chế, trình độ cập nhật công nghệ so 
với một số nước trong khu vực. 
Quá trình tái cấu trúc ngân hàng còn thể 
hiện ở mức độ tập trung thị phần theo tài sản, 
tiền gửi và cho vay. Điều này dẫn đến những 
lo ngại về khả năng chi phối thị trường của 
một số ngân hàng lớn trong hệ thống sau khi 
tái cấu trúc, vì vậy các biện pháp kiểm soát 
cấu trúc thị trường ngân hàng cần được quan 
tâm. Thực trạng trên đặt ra vấn đối với hệ 
thống ngân hàng như là tái cấu trúc ngân 
hàng có thực sự cải thiện năng lực cạnh tranh 
cho các NHTM; và mức độ tập trung tập 
trung vốn vào một số ngân hàng lớn trong hệ 
thống có thể làm tăng tính độc quyền trong 
lĩnh vực ngân hàng, ảnh hưởng đến nguồn 
cung vốn cho nền kinh tế và làm giảm phúc 
lợi xã hội. Câu hỏi đặt ra là “mức độ tập 
trung và mức độ cạnh tranh giữa các ngân 
hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam 
hiện nay diễn ra như thế nào?” cần được trả 
lời. Hiểu biết về cấu trúc thị trường ngân 
hàng Việt Nam hiện tại giúp nhà quản trị 
ngân hàng có chiến lược phát triển hệ thống 
ngân hàng phù hợp nhằm nâng cao sức cạnh 
cạnh của hệ thống ngân hàng trong quá trình 
hội nhập. 
Mục tiêu của bài viết này nhằm phân tích 
mức độ tập trung và cạnh tranh của các 
NHTM trong trong hệ thống ngân hàng ở 
Việt Nam. Các mục tiêu cụ thể bao gồm: (i) 
đo lường mức độ cạnh tranh và mức độ tập 
trung của các NHTM trong hệ thống ngân 
hàng; (ii) ước lượng mối tương quan giữa 
mức độ cạnh tranh và tập trung trong hệ 
thống ngân hàng; (iii) đề xuất một số khuyến 
nghị giúp nâng cao sức cạnh tranh của hệ 
thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian 
tới. Phần còn lại của bài viết bao gồm 4 nội 
dung: Mục 2 trình bày lược khảo tài liệu về 
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mức độ tập 
trung và cạnh tranh, Mục 3 trình bày mô hình 
phân tích và số liệu, Mục 4 thảo luận kết quả, 
và Mục 5 kết luận và đề xuất khuyến nghị. 
2. Lược khảo tài liệu 
Nghiên cứu về mức độ tập trung và cạnh 
tranh của hệ thống ngân hàng được thành hai 
cách tiếp cận cơ bản là tiếp cận cấu trúc và 
tiếp cận phi cấu trúc (Berger cùng cộng sự, 
2004). Theo đó, các nghiên cứu theo hướng 
tiếp cận phi cấu trúc thường vận dụng mô 
hình nghiên cứu thực nghiệm của Bresnahan 
(1989) và mô hình nghiên cứu của Panzar và 
Rosse (1987). Trong khi đó, hướng tiếp cận 
cấu trúc tập trung vào các tham số cấu trúc 
thị trường (SCP) dựa theo các mô hình 
nghiên cứu trong thập niên 1950 của Mason 
(1939) và Bain (1951). Điển hình, Hannan 
(1991) vận dụng chỉ số thể hiện thị phần của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 
47 
k ngân hàng lớn nhất (CRk) và chỉ số 
Herfindahl-Hirschman (HI) ở Mỹ. 
Mặc dù tương đồng phương pháp phân 
tích trong phương pháp tiếp cân cấu trúc, 
những gợi ý chính sách quản lý hệ thống 
ngân hàng lại trái ngược nhau do cơ sở lập 
luận khác nhau. Bain (1951) đề xuất quan 
điểm về năng lực thị trường theo đó các công 
ty trong một thị trường có mức độ tập trung 
cao có thể hoạt động cấu kết (thông đồng) 
với nhau và vì vậy thu được lợi nhuận cao 
hơn. Do đó, để kích thích cạnh tranh, chính 
phủ nên kiểm soát số lượng và quy mô của 
các ngân hàng. Tuy nhiên, Stigler (1964) và 
Demsetz (1973) đưa lập luận tương phản 
bằng giả thuyết hiệu quả theo đó mức độ tập 
trung cao có thể là kết quả của siêu hiệu quả 
của những ngân hàng có quy mô lớn tạo ra 
bởi hành vi cấu kết. Ngoài ra, Baumol và 
cộng sự (1983), Spence (1983),Cetorelli 
(2002) đề xuất giả thuyết tổ hợp cho rằng nếu 
điều kiện xuất nhập ngành trong thị trường 
tương đối tự do, các nhà độc quyền sẽ muốn 
ngăn chặn sự nhập ngành bằng cách áp đặt 
mức giá cạnh tranh. Kết quả là để giải quyết 
vấn đề cạnh tranh trên thị trường, Bain 
(1959) đề xuất sự lựa chọn tốt nhất cho chính 
phủ lập rào cản đối với hoạt động xuất nhập 
ngành của các ngân hàng trên thị trường. 
Trong khi đó, cách tiếp cận tổ hợp (Stigler, 
1964; và Demsetz, 1973) lại cho rằng rào cản 
xuất nhập ngành nên bị hạn chế nhiều hơn để 
nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trên 
thị trường. 
Cách tiếp cận phi cấu trúc tập trung ước 
lượng mối quan hệ giữa đầu ra – chi phí đầu 
vào của doanh nghiệp. Bresnahan (1989) sử 
dụng số liệu thời gian để ước lượng mối quan 
hệ giữa cầu và chi phí thị trường. Hệ số ước 
lượng mức độ tập trung nhận giá trị trong 
khoảng [0,1] tương ứng với thị trường cạnh 
tranh hoàn hảo và độc quyền. Tiếp cận tương 
tự, Panzar và Rosse (1987) lập luận rằng tác 
động của giá đến sự thay đổi chi phí khác 
nhau phụ thuộc vào việc có tồn tại của sức 
mạnh độc quyền. Theo đó, chỉ số thống kê H 
từ phương trình doanh thu dạng rút gọn để đo 
lường độ co giãn của tổng doanh thu theo các 
chi phí đầu vào của các ngân hàng. Giá trị H 
nằm trong khoảng [0,1] và thay đổi cùng với 
mức độ cạnh tranh của thị trường (Shaffer, 
1982). Theo đó, H nhận bằng 1 tương ứng 
với thị trường cạnh tranh hoàn hảo và H bé 
hơn hoặc bằng 0 khi có sự hiện diện của độc 
quyền (bao gồm cả độc quyền nhóm hoặc ít 
nhất là hoạt động ngầm của độc quyền nhóm 
trong ngắn hạn). Một cách tổng quát, nếu 0 
<H< 1, thị trường đang ở mức độ cạnh tranh 
độc quyền. 
Nhìn chung, nghiên cứu về mức độ tập 
trung và cạnh tranh đã thu hút nhiều nghiên 
cứu lý thuyết và thực nghiệm ở các lĩnh vực 
trong đó có hệ thống ngân hàng. Mô hình 
thông dụng nhất được sử dụng để kiểm tra 
mức độ cạnh tranh sử dụng số liệu cấp độ 
ngân hàng gồm Bresnahan (1989) và Panza 
và Rosse (1987). Mô hình Bresnahan (1989) 
sử dụng điều kiện thị trường cân bằng chung 
và phần còn lại là các ngân hàng tối đa hóa 
lợi nhuận tại điểm cân bằng bằng theo 
nguyên tắc chọn mức giá và sản lượng mà tại 
đó chi phí biên bằng với doanh thu biên. Mức 
giá trong thị trường phụ thuộc vào hành vi 
cấu kết hoặc thông đồng của các ngân hàng. 
Trong khi đó, Mô hình Panzar và Rosse 
(1987) đo lường mức độ cạnh tranh trong 
lĩnh vực ngân hàng được Nathan và Neave 
(1989) vận dụng để phân tích hệ thống ngân 
hàng Canada; và Gelos và Roldos (2002) 
phân tích hệ thống các ngân hàng các ở thị 
trường mới nổi; và Bikker và Goeneveld 
(1998) phân tích hệ thống ngân hàng của 
Liên minh Châu Âu và từng quốc gia trong 
khối. Nhìn chung, các nghiên cứu này cho 
thấy rằng hầu hết các thị trường trong lĩnh 
vực ngân hàng đều là thị trường cạnh tranh 
độc quyền. Ở Việt Nam, mức độ tập trung và 
sức mạnh độc quyền được Le Hai Trung 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
48 
(2015) kết luận. Tuy nhiên, ngoài nghiên cứu 
của Le Hai Trung (2015), có ít nghiên cứu 
tiếp nối vận dụng mô hình của Panzar và 
Rosse (1987) để giải thích cho mức độ tập 
trung và mức độ cạnh tranh trong hệ thống 
ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn sau tái 
cấu trúc. 
3. Mô hình phân tích và số liệu 
3.1. Mô hình phân tích 
3.1.1. Mức độ tập trung 
Chi số đo lường mức độ tập trung là số 
lượng các ngân hàng theo Marfels (1971) và 
Dickson (1981) có dạng: 
(1) 
Trong đó, si là thị phần của ngân hàng thứ 
i, wi là tỷ trọng theo kèm thị phần, n là số các 
ngân hàng trong thị trường đang xem xét. Tỷ 
trọng wi của từng ngân hàng riêng lẻ xác định 
độ nhạy của các chỉ số hướng về thay đổi ở 
phần đuôi của phân phối. Tổng thị phần của k 
ngân hàng lớn nhất trong thị trường, tỷ số 
mức độ tập trung của k ngân hàng lớn nhất 
(the k-bank concentration ratio) là: 
 
n
i ik
sCR
1
với n = k (2) 
Chỉ số CRk nhấn mạnh đến k ngân hàng 
đứng đầu trong ngành, nhưng lại không chú ý 
đến nhiều ngân hàng nhỏ khác trên thị 
trường. Không có quy tắc cụ thể để xác định 
giá trị tối ưu của k; chỉ số CRk nằm trong 
khoảng 0 và 1. Chỉ số CRk tiến về 0 khi số 
lượng ít các ngân hàng nhỏ hiện diện trong 
thị trường và tiến về 1 khi có một ngân hàng 
thâu tóm toàn bộ ngành. Theo đó, CR đo 
lường mức độ tập trung của k ngân hàng 
trong ngành. Ngoài ra, sự thay đổi của chỉ số 
CRk còn cho thấy sự nhập ngành của các 
ngân hàng được thêm vào phụ thuộc vào các 
ngân hàng đang hiện hữu chia sẻ thị phần với 
các ngân hàng mới nhập ngành. Tuy nhiên, 
chỉ số này chỉ cung cấp thông tin về sự 
chuyển thị phần trên thị trường giữa k ngân 
hàng đứng đầu ngành và phần còn lại của thị 
trường, không nắm bắt được sự thay đổi 
trong phân phối của hai nhóm. Dựa vào các 
nghiên cứu ở phần lược khảo, chỉ số CR3 và 
CR5 được sử dụng để phân tích mức độ tập 
trung của 3 và 5 ngân hàng lớn trong thị 
trường ngân hàng của Việt Nam. 
Bên cạnh chỉ số CRk, chỉ số HI 
(Herfindahl Index) được xem như là chỉ số 
thay thế hoàn hảo hơn để đo lường mức độ 
tập trung, bởi vì HI được tính toán dựa vào 
các khoản chiếm giữ thị phần của tất cả n 
ngân hàng trong hệ thống. Vì vậy, chỉ số HI 
còn được gọi là chỉ số thông tin đầy đủ (full-
information index). Ở Mỹ, chỉ số HI đóng vai 
trò quan trọng trong quá trình thực thi của Bộ 
luật chống độc quyền trong hoạt động ngân 
hàng. Một trong những quy định quan trọng 
của luật chống độc quyền Mỹ là chỉ số HI thị 
trường sau sáp nhập không vượt quá 0,18; và 
mức tăng của HI sau khi sáp nhập phải nhỏ 
hơn 0.02 (Cetorelli, 1999). Chỉ số HI được 
viết theo công thức (3) như sau: 
(3) 
Nếu so với CI, chỉ số HI nhấn mạnh tầm 
quan trọng của các ngân hàng dẫn đầu bởi vì 
các ngân hàng có tỷ trọng lớn có tầm ảnh 
hưởng lớn hơn nhiều lần so với các ngân 
hàng nhỏ. Chỉ số HI nằm trong khoảng từ 1/n 
và 1; và HI tiến đến giá trị thấp nhất khi tất 
cả các ngân hàng trên thị trường có quy mô 
như nhau, và tiến đến 1 trong trường hợp độc 
quyền. 
3.1.2. Mức độ cạnh tranh 
Mô hình Panza và Rosse (1987) được vận 
dụng để phân tích ảnh hưởng của giá của các 
yếu tố đầu vào và lợi nhuận cân bằng của các 
ngân hàng theo mô hình cạnh tranh độc 
quyền. Xem xét mối quan hệ giữa hàm cầu 
và hàm chi phí của ngân hàng i: 
Ri = Ri(yi, n, zi) (4) 
n
i ii
CI s w 
2
1
n
i
i
HI s
 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 
49 
Ci = Ci(yi, pi, xi) (5) 
Trong đó, R là tổng doanh thu; C là tổng 
chi phí; y là đầu ra; n là số doanh nghiệp; z là 
các yếu tố ngoại sinh ảnh hưởng đến lợi 
nhuận; p là giá đầu vào; x là các yếu tố kiểm 
soát khác, tất cả các biến ở dạng logratit tự 
nhiên. 
Lợi nhuận được xác định theo phương 
trình: πi = Ri(yi, n, zi) - Ci(yi, pi, xi). Hàm lợi 
nhuận hàm ý rằng các ngân hàng tối đa hóa 
lợi ... 
sự hỗ trợ vốn từ Nhà nước (Bergeret al., 
2004). Thông thường, các NHTM nhà nước 
tận dụng lợi thế về quy mô nên lãi suất cho 
vay thường thấp hơn so với NHTM cổ phần. 
Mặc khác, khi lãi suất huy động tăng cao 
(nền kinh tế gặp khó khăn), các NHTM nhà 
nước thực hiện các chính sách cho vay hỗ trợ 
của Nhà nước. Ngược lại, các NHTM cổ 
phần lại không đảm nhiệm vai trò này, cùng 
với quy trình cho vay dễ dàng hơn nên các 
NHTM cổ phần có lợi thế hơn khi chi phí lãi 
tăng. Kết quả hồi quy cho thấy, hệ số hồi quy 
của biến chi phí lãi mang dấu âm (-) đối với 
các NHTM nhà nước và dương (+) đối với 
nhóm NHTM tư nhân. 
Hệ số hồi quy của biến cho vay trên tổng 
tài sản của nhóm NHTM tư nhân mang dấu (-
) và của nhóm NHTM nhà nước mang dấu 
(+). Kết quả này cho thấy nhóm NHTM nhà 
nước chiếm lợi thế hơn về quy mô nguồn vốn 
và lãi suất cho vay đầu ra nên thu nhập phụ 
thuộc rất nhiều vào cho vay, các sản phẩm 
dịch vụ khác phát triển chậm. Với nguồn vốn 
nhỏ và cho vay đầu ra cao hơn, nhóm NHTM 
nhân gặp phải nhiều rủi ro hơn. Vì vậy, nhóm 
NHTM tư nhân phát triển nhiều dịch vụ tiện 
ích cho khách hàng nhằm đa dạng hóa đầu 
tư, giảm phụ thuộc vào nghiệp vụ cho vay. 
4.2. Kết quả phân tích mức độ tập trung 
Bảng 3 tổng hợp chỉ số HI, CR3, vàCR5 dựa 
theo thị phần tổng tài sản, tổng cho vay và tổng 
tiền gửi qua bốn năm. Nhìn chung, các chỉ số 
HI, CR3, và CR5 điều giảm liên tục qua các 
năm. Cụ thể, ba ngân hàng lớn nhất: về tài sản 
chiếm 50% tổng tài sản, về cho vay chiếm 57% 
tổng cho vay và về tiền gửi chiếm 50% tổng 
tiền gửi của hệ thống trong năm 2007 đã giảm 
xuống chỉ còn nắm giữ 39% tổng tài sản, 46% 
tổng cho vay và 37% tổng tiền gửi trong năm 
2013. Năm ngân hàng lớn nhất: về tài sản 
chiếm 68% tổng tài sản, về cho vay chiếm 72% 
tổng cho vay và về tiền gửi chiếm 66% tổng 
tiền gửi của hệ thống trong năm 2007 đã giảm 
xuống trong năm 2013 chỉ còn nắm giữ 48% 
tổng tài sản, 56% tổng cho vay và 47% tổng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 
53 
tiền gửi. Chỉ số HI cũng giảm dần đã cho thấy 
sự chuyển biến tích cực trong hệ thống. 
Nguyên nhân của xu hướng trên có thể là do từ 
năm 2008 các NHTM nhà nước bắt đầu cổ 
phần hóa và giảm dần sự chi phối, hỗ trợ nguồn 
vốn cho các ngân hàng trụ cột này. Thêm vào 
đó, trong giai đoạn 2008-2014, ngân hàng Nhà 
nước đã hai lần tăng nguồn vốn pháp định cho 
các ngân hàng. Chính điều này đòi hỏi các 
ngân hàng có vốn điều lệ thấp phải tăng nguồn 
vốn lên nếu không muốn bị giải thể hoặc sáp 
nhập. Quá trình trên đã rút ngắn khoảng cách 
chênh lệch về tài sản giữa các ngân hàng và 
làm tăng nhanh chóng tổng tài sản của toàn hệ 
thống. Kết quả là chỉ số CR3 và CR5 trên thị 
phần tài sản giảm xuống đáng kể. 
Bảng 3: Chỉ số HI, CR3, và CR5 qua bốn năm 
2007-2013 
Năm Thị phần CR3 CR5 HI 
2007 
Tổng tài sản 0,50 0,68 0,11 
Tổng cho vay 0,57 0,72 0,14 
Tổng tiền gửi 0,50 0,66 0,11 
2009 
Tổng tài sản 0,48 0,61 0,10 
Tổng cho vay 0,56 0,66 0,13 
Tổng tiền gửi 0,49 0,60 0,10 
2011 
Tổng tài sản 0,39 0,56 0,08 
Tổng cho vay 0,50 0,66 0,11 
Tổng tiền gửi 0,36 0,54 0,08 
2013 
Tổng tài sản 0,39 0,48 0,07 
Tổng cho vay 0,46 0,56 0,09 
Tổng tiền gửi 0,37 0,47 0,07 
Nguồn: Số liệu tính toán của tác giả 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng 
mức độ tập trung giảm qua các giai đoạn. 
Như vậy, có sự cạnh tranh giữa các ngân 
hàng nhỏ với các ngân hàng lớn để giành lấy 
khách hàng. Đây là dấu hiệu tích cực cho 
thấy các ngân hàng nhỏ đang nâng cao chất 
lượng phục vụ. Đối với thị phần tiền gửi, các 
ngân hàng nhỏ cạnh tranh mạnh mẽ với các 
ngân hàng lớn về chất lượng phục vụ đã góp 
phần làm giảm khả năng tập trung tiền gửi ở 
những ngân hàng lớn. Các ngân hàng lớn có 
nguồn vốn nhiều nên việc thiếu hụt vốn là 
khó xảy ra, kể cả trong giai đoạn khủng 
hoảng tài chính 2008. Trong khi đó, các ngân 
hàng nhỏ lại rất dễ bị đói vốn khi nền kinh 
tế bất ổn. 
4.3. Mối quan hệ giữa mức độ tập trung và 
mức độ cạnh tranh 
Bảng 4 mô tả các biến trong mô hình hồi 
quy mối tương quan giữa giữa mức độ cạnh 
tranh và mức độ tập trung trong hệ thống 
ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo lý 
thuyết, khi số lượng càng lớn các ngân hàng 
trong hệ thống thì mức độ cạnh tranh giữa 
các ngân hàng sẽ tăng lên. Trong khi đó, thay 
đổi của chỉ số mức độ cạnh tranh tăng lên khi 
mức độ tập trung sụt giảm. Chính vì vậy, mối 
quan hệ nghịch biến giữa hai đại lượng được 
kỳ vọng, hệ số ước lượng mang dấu âm (-). 
Bảng 4: Tổng hợp các biến được sử dụng 
Biến Giải thích 
Giá trị trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
H Giá trị thống kê H từ mô hình hồi quy 0,741 0,216 
TA_CR3 Giá trị CR3 tính theo thị phần tổng tài sản 0,409 0,088 
TCV_CR3 Giá trị CR3 tính theo thị phần tổng cho vay 0,490 0,091 
TTG_CR3 Giá trị CR3 tính theo thị phần tổng tiền gửi 0,397 0,089 
TA_CR5 Giá trị CR3 tính theo thị phần tổng tài sản 0,559 0,099 
TCV_CR5 Giá trị CR3 tính theo thị phần tổng cho vay 0,630 0,095 
TTG_CR5 Giá trị CR3 tính theo thị phần tổng tiền gửi 0,545 0,099 
TA_HI Giá trị HI tính theo thị phần tổng tài sản 0,083 0,027 
TCV_HI Giá trị HI tính theo thị phần tổng cho vay 0,106 0,030 
TTG_HI Giá trị HI tính theo thị phần tổng tiền gửi 0,081 0,026 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
54 
Bảng 5 tổng hợp kết quả ước lượng mô 
hình mối tương quan giữa giữa mức độ cạnh 
tranh và mức độ tập trung trong hệ thống 
ngân hàng Việt Nam. Kết quả hồi quy chỉ ra 
rằng hệ số mức độ cạnh tranh H có mối 
tương quan nghịch với mức độ tập trung. Cả 
các hệ số ước lượng đều có giá trị âm và có ý 
nghĩa ở mức 1%. 
Bảng 5: Mối tương quan giữa mức độ cạnh tranh và mức độ tập trung 
 Hằng số Hệ số hồi quy Giá trị t R2 
TA_CR3 0,138 -1,553*** -6,45 0,398 
TCV_CR3 0,138 -1,306*** -5,20 0,301 
TTG_CR3 0,137 -1,578*** -6,76 0,420 
TA_CR5 0,150 -1,348*** -6,24 0,382 
TCV_CR5 0,148 -1,167*** -4,71 0,260 
TTG_CR5 0,149 -1,366*** -6,34 0,389 
TA_HI 0,124 -6,045*** -5,87 0,549 
TCV_HI 0,126 -4,900*** -4,05 0,465 
TTG_HI 0,124 -6,144*** -5.68 0,549 
Ghi chú: *** chỉ mức ý nghĩa 1% 
Nguồn: tính toán của tác giả
Kết quả hồi quy ở bảng 5 cho thấy các hệ 
số ước lượng của CR3 (n = 3) đều lớn hơn 
CR5 (n=5) và đều có dấu âm (-). Kết quả này 
phù hợp với nghiên cứu hệ thống ngân hàng 
ở Châu Âu của Bikker và Groeneveld (1998) 
và tương đồng với kết quả của Le Hai Trung 
(2015) ở Việt Nam. Do đó, để hạn chế khả 
năng chi phối thị trường của các ngân hàng 
lớn, các NHTM có quy mô nhỏ cần rút ngắn 
chênh lệch về thị phần giữa các ngân hàng. 
Như vậy, xu hướng sáp nhập hoặc mua lại 
các ngân hàng nhỏ lẻ trong quá trình tái cấu 
trúc hệ thống ngân hàng hiện nay là giải pháp 
hợp lý cho hệ thống ngân hàng thương mại 
Việt Nam. Thực tế, đây là giải pháp mà ngân 
hàng Nhà nước đã và đang thực hiện để cải 
thiện sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng 
trong quá trình hội nhập. 
5. Kết luận và một số gợi ý chính sách 
Nhìn chung, hệ thống ngân hàng Việt 
Nam trong thời gian qua có nhiều thay đổi 
theo hướng tích cực. Trong giai đoạn 2002-
2014, mức độ cạnh tranh của các NHTM 
tăng lên rõ nét đi kèm với sự giảm xuống của 
mức độ tập trung. Mặc dù có chiều hướng 
phát triển tích cực, hệ thống ngân hàng vẫn 
còn tồn tại nhiều khuyết điểm như là chỉ số 
cạnh tranh của cả hệ thống thấp hơn so với 
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, 
chất lượng dịch vụ tuy có phát triển ở các 
ngân hàng thương mại cổ phần nhưng phần 
nhiều vẫn còn phụ thuộc vào nghiệp vụ ngân 
hàng truyền thống, và mức độ bảo hộ của nhà 
nước quá nhiều làm suy giảm tính cạnh tranh 
trong hệ thống. 
Mức độ cạnh tranh và mức độ tập trung 
có mối liên hệ chặc chẽ với nhau nên việc 
kiểm soát cấu trúc thị trường có thể thực hiện 
được thông qua đo lường mức độ tập trung 
trong hệ thống. Chỉ số HI cần được xem xét 
và vận dụng trong xây dựng pháp luật khi 
nền kinh tế nước ta hội nhập – Nhà nước 
không can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế mà 
chỉ quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, 
để hệ thống vận hành theo quy luật của thị 
trường. Đây cũng là cách để nhà nước bảo vệ 
quyền lợi của người tiêu dùng và các doanh 
nghiệp khi có biểu hiện của độc quyền hiện 
hữu trong hệ thống. 
Từ những phân tích trên, một số chính 
sách gợi ý được đề xuất trong thời gian tới: 
Một là giảm can thiệp trực tiếp của Nhà 
nước vào hệ thống ngân hàng. Kết quả phân 
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019 
55 
tích cho thấy sự tham gia góp vốn của Nhà 
nước đã làm cho sự cạnh tranh trong hệ 
thống ngân hàng giảm xuống. Thêm vào đó, 
thực tế cho thấy rằngnguồn ngân sách được 
sử dụng cho hoạt động can thiệp này không 
hiệu quả. Một giải pháp đưa ra là các NHTM 
nhà nước cần tiếp tục cổ phần hóa. Quá trình 
đa dạng hóa sở hữu các loại hình ngân hàng 
chính là tính chất của nền kinh tế nhiều thành 
phần về sở hữu. Bên cạnh đó, đa dạng hóa 
các hình thức sở hữu, chuyển đổi mạnh sở 
hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân và cộng 
đồng sẽ giảm dần tình trạng các ngân hàng 
thương mại Nhà nước giữ vị thế độc quyền. 
Đây chính là bước tiến mới về hoàn thiện thể 
chế thị trường để đáp ứng các yêu cầu hội 
nhập của Việt Nam. Chính phủ chỉ nên tập 
trung xây dựng một hoặc hai ngân hàng trụ 
cột để làm công cụ quản lý và hạn chế tác 
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường khi 
cần thiết. 
Hai là Nhà nước nên bỏ đi sự phân biệt 
đối xử giữa các loại hình ngân hàng. Thay 
vào đó, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung, hoàn 
thiện Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các 
tổ chức tín dụng tập trung vào xây dựng, 
chỉnh sửa, bổ sung các quy định về cấp phép 
hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, 
quản trị, điều hành của các ngân hàng trong 
và ngoài nước theo nguyên tắc không phân 
biệt đối xử, phù hợp với các cam kết và lộ 
trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Tuân thủ 
nguyên tắc minh bạch hoá và chuẩn xác 
thông tin trong hoạt động ngân hàng. Có như 
vậy, Nhà nước mới có thể tạo ra một môi 
trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng giữa 
các loại hình ngân hàng. 
Ba là trong giai đoạn đầu của quá trình 
hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn 
gặp rất nhiều khó khăn do tổng vốn hệ thống 
nhỏ hơn rất nhiều so với các nước khác. 
Chính vì vậy, Nhà nước cần phát triển một 
hoặc hai ngân hàng thương mại Nhà nước 
hiện đại và chuyên nghiệp đủ sức cạnh tranh 
với các ngân hàng nước ngoài. Đồng thời, 
ngân hàng Nhà nước cũng cần hỗ trợ, nâng 
cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng 
thương mại cổ phần trước khi ngành ngân 
hàng gia nhập hoàn toàn. Một vấn đề nữa là 
ngành ngân hàng trong quá trình cải cách, tái 
cấu trúc phải thực sự nâng cao chất lượng nội 
tại, không phụ thuộc vào mức độ bảo hộ của 
Nhà nước. 
Bốn là kiểm soát sự tập trung kinh tế 
trong ngành ngân hàng. Nhà nước nên áp 
dụng các chỉ số như là HI để kiểm soát mức 
độ tập trung của hệ thống. Chỉ số này được 
tính toán định kỳ mỗi quý. Ở các nước có hệ 
thống ngân hàng phát triển như ở Mỹ, chỉ số 
HI đã được đưa vào luật chống độc quyền để 
kiểm soát, quản lý hiệu quả thị trường. Các 
cơ quan quản lý cạnh tranh có thể không điều 
tra những vụ việc tập trung kinh tế theo chiều 
dọc ngay cả khi mang lại những tác động 
cạnh tranh được kể trên nếu mức độ tập trung 
thị trường thể hiện qua chỉ số HI dưới 0.18. 
Điều đó cho thấy, chỉ số HI là công cụ định 
lượng khá tốt khả năng tập trung kinh tế. 
Trong quá trình xây dựng và phát triển hệ 
thống ngân hàng theo hướng minh bạch hóa 
thông tin chỉ số HI cần được xem xét để kiểm 
soát mức độ tập trung kinh tế và chống độc 
quyền cho ngành ngân hàng. 
Cuối cùng là ngân hàng Nhà nước phải 
đảm bảo an toàn hệ thống khi có doanh 
nghiệp xuất, nhập ngành, nâng cao các tiêu 
chí về vốn điều lệ, năng lực quản lý hoạt 
động xuất nhập ngành để tránh gây ra rủi ro 
cho hệ thống. Chiến lược tái cấu trúc hệ 
thống ngân hàng theo hướng sáp nhập các 
ngân hàng có năng lực tài chính yếu đang 
hiện hữu trong hệ thống giúp giảm thiểu rủi 
ro và đảm bảo hệ thống ngân hàng phát triển 
bền vững. 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
56 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bain, J.S. (1951). Relation of profit rate to industry concentration: American 
manufacturing, 1936–1940. The Quarterly Journal of Economics, 65(3), pp.293-324. 
Baker, J. S. (1951). Relation of profit rates to industry concentration. Quarterly Journal of 
Economics, 55, 293-324. 
Baumol, W. J., Panzar, J. C., & Willig, R. D. (1983). Contestable markets: An uprising in 
the theory of industry structure: Reply. The American Economic Review, 491-496. 
Berger, A. N., Demirguc-Kunt, A., Levine, R., & Haubrich, J. G. (2004). Bank 
concentration and competition: An evolution in the making. Journal of Money, 
Credit, and Banking, 36(3), 433-451. 
Bikker, J. A., & Groeneveld, J. M. (1998). Competition and concentration in the EU 
banking industry (Vol. 8). De Nederlandsche Bank NV. 
Bikker, J. A., & Haaf, K. (2002). Measures of competition and concentration in the 
banking industry: a review of the literature. Economic & Financial Modelling, 9(2), 
53-98. 
Bresnahan, T. F. (1989). Empirical studies of industries with market power.Handbook of 
industrial organization, 2, 1011-1057. 
Bresnahan, T. F. (1989). Empirical studies of industries with market power. Handbook of 
industrial organization, 2, 1011-1057. 
Cetorelli, N. (1999). Competitive analysis in banking: appraisal of the 
methodologies. Economic Perspectives-federal Reserve Bank of Chicago, 23, 2-15. 
Cetorelli, N. (2002). Entry and competition in highly concentrated banking 
markets. Economic Perspectives, fourth quarter. 
Demsetz, H. (1973). Industry structure, market rivalry, and public policy. The Journal of 
Law & Economics, 16(1), 1-9. 
Dickson, V. A. (1981). Conjectural variation elasticities and concentration.Economics 
letters, 7(3), 281-285. 
Efron, B.. The jackknife, the bootstrap and other resampling plans. Society for industrial 
and applied mathematics, 1982. 
Gelos, R. G., & Roldós, J. (2004). Consolidation and market structure in emerging market 
banking systems. Emerging Markets Review, 5(1), 39-59. 
Hannan, T. H. (1991). Foundations of the structure-conduct-performance paradigm in 
banking. Journal of Money, Credit and Banking, 68-84. 
Le, Hai Trung. (2015). Market Concentration and Competition in Vietnamese Banking 
Sector. Review of Business and Economics Studies, (1). 
Mathisen, M. J., & Buchs, T. D. (2005). Competition and efficiency in banking: Behavioral 
evidence from Ghana (No. 5-17). International Monetary Fund. 
Nathan, A., & Neave, E. H. (1989). Competition and contestability in Canada's financial 
system: empirical results. Canadian Journal of Economics, 576-594. 
Panzar, J. C., & Rosse, J. N. (1987). Testing for" monopoly" equilibrium. The journal of 
industrial economics, 443-456. 
Shaffer, S. (1982). A non-structural test for competition in financial markets. 
In Proceedings of a Conference on bank structure and competition, Federal Reserve 
Bank of Chicago (Vol. 225, p. 243). 
Stigler, G. J. (1964). A theory of oligopoly. The Journal of Political Economy, 44-61. 

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_tap_trung_va_canh_tranh_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai.pdf