Nghệ thuật cải lương Nam Bộ: Thực trạng và định hướng phát huy giá trị di sản văn hóa

Tóm tắt – Cải Lương là loại hình nghệ thuật

sân khấu độc đáo của Nam Bộ, là sản phẩm văn

hóa nghệ thuật đặc sắc của dân tộc. Trải qua gần

một trăm năm tồn tại và phát triển, Cải Lương

ngày hôm nay đang đứng trước thế vận mới của

xu thế hội nhập. Bài viết thực hiện phân tích,

đánh giá dựa trên những dữ liệu đã thu thập,

ghi chép trong quá trình điền dã tại các đơn vị

hoạt động Cải Lương ở Nam Bộ (từ 2014 đến

nay). Kết quả nghiên cứu là câu chuyện phản

ánh bức tranh đời thực của sân khấu Cải Lương

ở Nam Bộ và những giải pháp. Cụ thể, từ nhận

diện những trở lực phát triển: đội ngũ tác giả,

đạo diễn, khán giả Cải Lương, chúng tôi đề xuất

một số giải pháp có ý nghĩa thiết thực, khả thi

trên hai bình diện: quản lí văn hóa – nghệ thuật

và vận dụng hướng nghiên cứu liên ngành để

nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy loại hình Cải

Lương đối với một số ngành học như văn học,

văn hóa học, nghệ thuật học nhằm bảo tồn và

phát huy giá trị di sản văn hóa Cải Lương trong

bối cảnh đương đại

pdf 10 trang yennguyen 2601
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật cải lương Nam Bộ: Thực trạng và định hướng phát huy giá trị di sản văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật cải lương Nam Bộ: Thực trạng và định hướng phát huy giá trị di sản văn hóa

Nghệ thuật cải lương Nam Bộ: Thực trạng và định hướng phát huy giá trị di sản văn hóa
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018
NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG NAM BỘ: THỰC TRẠNG VÀ
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA
Nguyễn Thị Trúc Bạch1
SOUTHERN CAI LUONG: CURRENT SITUATION AND ORIENTATION TO
PROMOTION OF ITS VALUES OF CULTURAL HERITAGE
Nguyen Thi Truc Bach1
Tóm tắt – Cải Lương là loại hình nghệ thuật
sân khấu độc đáo của Nam Bộ, là sản phẩm văn
hóa nghệ thuật đặc sắc của dân tộc. Trải qua gần
một trăm năm tồn tại và phát triển, Cải Lương
ngày hôm nay đang đứng trước thế vận mới của
xu thế hội nhập. Bài viết thực hiện phân tích,
đánh giá dựa trên những dữ liệu đã thu thập,
ghi chép trong quá trình điền dã tại các đơn vị
hoạt động Cải Lương ở Nam Bộ (từ 2014 đến
nay). Kết quả nghiên cứu là câu chuyện phản
ánh bức tranh đời thực của sân khấu Cải Lương
ở Nam Bộ và những giải pháp. Cụ thể, từ nhận
diện những trở lực phát triển: đội ngũ tác giả,
đạo diễn, khán giả Cải Lương, chúng tôi đề xuất
một số giải pháp có ý nghĩa thiết thực, khả thi
trên hai bình diện: quản lí văn hóa – nghệ thuật
và vận dụng hướng nghiên cứu liên ngành để
nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy loại hình Cải
Lương đối với một số ngành học như văn học,
văn hóa học, nghệ thuật học nhằm bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa Cải Lương trong
bối cảnh đương đại.
Từ khóa: Cải Lương, Cải Lương Nam Bộ,
giá trị di sản văn hóa.
Abstract – Cai Luong is a unique stage
art of Southern Vietnam and original cultural
and artistic product of the nation. Over 100
1Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ
Ngày nhận bài: 07/11/2018; Ngày nhận kết quả bình
duyệt: 30/11/2018; Ngày chấp nhận đăng: 23/12/2018
Email: binbin121005@gmail.com
1Southern Institute of Social Sciences
Received date: 07th November 2018 ; Revised date:
30th November 2018; Accepted date: 23rd December 2018
years of existence and development, today’s Cai
Luong is a new trend in the era of international
integration. Within the scope of this paper, the
writer analyses and evaluates this type of art
based on data collected and recorded during
the field trips in the Southern Vietnam region
(since 2014 up to present). This research finding
reflects the real life of Cai Luong in the South
and proposes the solutions. Specifically, from dif-
ficulties and challenges identified by the authors,
directors, audiences of Cai Luong, this paper
proposes the practical solutions in two aspects:
cultural and artistic management and application
of interdisciplinary studies into subjects such
as Literature, Cultural studies and Arts studies
toward preserving and developing the values of
cultural heritage of the Cai Luong stage in the
contemporary context.
Keywords: Cai Luong, Southern Vietnam
Cai Luong, values of cultural heritage.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cải Lương là loại hình ca kịch sân khấu truyền
thống, sản phẩm văn hóa nghệ thuật hình thành
và phát triển trên mảnh đất Nam Bộ. Buổi đầu,
Cải Lương ra đời dần thay thế vị trí của Hát bội
trên sân khấu Nam Bộ. Từ khi ra đời đến nay,
nghệ thuật Cải Lương trải qua chặng đường gần
một trăm năm gắn bó với công chúng Nam Bộ
nói riêng, Việt Nam nói chung. Trong quá khứ,
Cải Lương từng chiếm giữ vị trí độc tôn, được
công chúng yêu thích. Tuy nhiên, hơn hai mươi
năm qua, Cải Lương đã và đang đối diện với sức
ép cạnh tranh từ nhiều loại hình nghệ thuật, giải
29
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
trí mới xuất hiện, lượng khán giả Cải Lương ngày
càng thu hẹp.
Cải Lương là loại hình nghệ thuật sân khấu
đặc sắc của Nam Bộ, là di sản văn hóa phi vật
thể quốc gia. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể và Chương trình nghị sự vì phát triển
bền vững đến năm 2030 ghi nhận tầm quan trọng
của di sản văn hóa phi vật thể như là động lực
chính của đa dạng văn hóa và là một sự đảm bảo
cho sự phát triển bền vững. Di sản văn hóa có
thể đóng góp hiệu quả vào sự phát triển bền vững
trên từng phương diện [1]. Trên tinh thần đó, Cải
Lương với tư cách là di sản văn hóa phi vật thể
quốc gia cần được khẳng định vị trí và phát huy
giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập và phát
triển bền vững. Bài viết thực hiện phân tích, đánh
giá dựa trên những dữ liệu đã thu thập, ghi chép
trong quá trình điền dã tại các đơn vị hoạt động
Cải Lương ở Nam Bộ (từ 2014 đến nay). Với nội
dung nhận diện thực trạng sân khấu Cải Lương
(nhìn từ đội ngũ sáng tác, đạo diễn, khán giả),
chúng tôi đề xuất một số giải pháp hướng đến
vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
Cải Lương trong bối cảnh đương đại.
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Cải Lương của người Việt ở Nam Bộ là một
trong những chủ đề nghiên cứu tạo nhiều cảm
hứng và sự quan tâm của các học giả trong nước.
Mỗi tác giả có cách tiếp cận và luận giải vấn đề
nghiên cứu theo những chiều kích riêng như tiếp
cận theo hướng lịch sử, nghệ thuật, văn hóa... Ở
đây, chúng tôi chỉ điểm luận những công trình
thuộc nhóm tiếp cận theo hướng văn hóa. Nhóm
công trình nghiên cứu Cải Lương từ góc nhìn
văn hóa nhận diện Cải Lương trong mối quan
hệ tương tác với môi trường văn hóa, xã hội
Nam Bộ.
Cải Lương gắn bó với con người Nam Bộ.
Sơn Nam là một trong những học giả Nam Bộ
dành nhiều tình cảm với nghệ thuật Cải Lương.
Trong hai công trình Cá tính của miền Nam [2]
và Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa
[3], ông cho rằng sự ra đời của sân khấu Cải
Lương có đóng góp lớn cho văn hóa dân tộc.
Những vùng đất như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa
Đéc, Long Xuyên là mảnh đất ươm mầm cho
Cải Lương phát triển. Các tác giả tiên phong
của buổi đầu Cải Lương là Trương Duy Toản,
Nguyễn Trọng Quyền, Đặng Thúc Liêng và Hồ
Biểu Chánh. Viết về Cải Lương, Sơn Nam không
đi sâu vào vấn đề nguồn gốc hình thành mà ông
quan tâm đến ý nghĩa ra đời của Cải Lương trong
bối cảnh văn hóa đương thời: “Sách đặt ra, in bán
nhằm vào thời trang, phản ánh những vấn đề mới
trong xã hội đang biến đổi. Nhưng đóng góp lớn
về văn hóa vẫn là sân khấu Cải Lương. . . Sanh
hoạt hàng ngày đã đổi, người dân bình thường
đã thấy tàu thủy, đèn điện, đèn măng-sông, xe
ô tô. Sân khấu phải linh hoạt hơn mới thích ứng
với cảm quan của người xem”. Cải Lương thật sự
thu hút nhiều thành phần của xã hội từ trí thức
Tây học đến người bình dân; Cải Lương trình
diễn mang ý nghĩa vận động xã hội: “Nhạc tài
tử, tuồng Cải Lương thu hút đa số đồng bào, luôn
cả trí thức Tây học, nhiều người mê Cải Lương,
ghiền Cải Lương. . . Tuồng Cải Lương trở thành
sang trọng, nhiều dạ hội lớn (soire1e de gala) tổ
chức tại nhà hát Tây, bán với giá cao một số vé
danh dự để giúp quỹ tương tế, giúp nạn nhơn bão
lụt, gây quỹ hội đá banh” [3, tr.30-131].
Tác giả Trần Ngọc Thêm trong công trình Tìm
về bản sắc văn hóa Việt Nam đưa ra những gợi
ý trong việc nhận diện văn hóa Việt Nam qua
các đặc trưng nghệ thuật thanh sắc. Cải Lương
là loại hình nghệ thuật thanh sắc độc đáo của văn
hóa Nam Bộ [4]. Ngô Đức Thịnh trong công trình
Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
xem Cải Lương như một sản phẩm văn hóa của
Nam Bộ. Ông cho rằng nói đến đời sống nghệ
thuật dân gian Nam Bộ, không thể không nói đến
sân khấu Cải Lương của người Việt. “Người Nam
Bộ thích kết thân bạn bè cùng nhau chè chén, ăn
chơi xả láng ồn ào, nhưng sẵn trong họ một cái
gì đó mang nặng âm điệu sầu tư. Nên trong cuộc
vui, họ ham mê ca xướng, Hát Bội, Cải Lương,
nhất là âm điệu vọng cổ chứa chất sầu vọng”
[5, tr.290]. Luận văn Thạc sĩ “Cải Lương trong
văn hóa Nam Bộ” của Nguyễn Thị Trúc Bạch [6]
sưu tầm và hệ thống các dữ liệu, dữ kiện của Cải
Lương thể hiện trên báo chí, văn học và qua các
hoạt động xã hội; mục tiêu nghiên cứu chính của
đề tài là phân tích tiến trình của Cải Lương từ
khi ra đời đến thập niên đầu thế kỉ XXI, nhận
diện vị trí và vai trò của Cải Lương trong lịch sử
văn hóa Nam Bộ.
30
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
Cải Lương trong bối cảnh văn hóa từ cuối thế
kỉ XX. Xuất phát từ nhận thức Cải Lương đã
và đang có những chuyển biến trong bối cảnh
văn hóa xã hội, một số công trình đã quan tâm
nghiên cứu. Tác giả Trần Trọng Đăng Đàn trong
23 năm cuối của 300 năm văn hóa, nghệ thuật Sài
Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh [7], ghi nhận và
bình luận các hoạt động biểu diễn của sân khấu
Cải Lương. Những bài viết của tác giả phần lớn
cho thấy Cải Lương đang đứng trước những khó
khăn về sáng tác kịch bản, đội ngũ diễn viên,
công chúng. . . Cải Lương cần được nâng cấp và
đổi mới để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khán giả
thời hiện đại.
Một số công trình đã đưa ra những chỉ báo
về tình trạng “khủng hoảng” của sân khấu Cải
Lương như luận án “Nghệ thuật sân khấu Cải
Lương Nam Bộ qua tác động của phương thức
quản lí” của Võ Thị Yến [8], tìm hiểu tác động
của các phương thức quản lí đối với sự hình thành
và phát triển sân khấu Cải Lương Nam Bộ. Tác
giả quan niệm mỗi phương thức quản lí đều có
tác động đến nội dung và hình thức nghệ thuật,
từ đó tạo nên sự biến đổi và mang lại chất lượng
nghệ thuật tương ứng. Vấn đề bảo tồn và phát huy
giá trị Cải Lương trong bối cảnh hiện đại cần có
những phương thức quản lí linh hoạt mang tính
ứng dụng thực tiễn cao. Phạm Trí Thành trong
Nghệ thuật sân khấu Cải Lương kế thừa và biến
đổi [9] và luận văn của Nguyễn Trần Ngọc Tuyết
“Sân khấu Cải Lương Thành phố Hồ Chí Minh
trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế - xã hội từ
năm 1975 đến nay” [10] đặt Cải Lương vào một
thời gian lịch sử, các yếu tố chính trị, kinh tế, xã
hội có tác động rất lớn đến quá trình tồn tại và
phát triển của nghệ thuật sân khấu Cải Lương. Từ
đó, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm “phục
hưng” Cải Lương Nam Bộ. Hầu hết các giải pháp
đưa ra đều hướng đến các chính sách nhà nước
cần có những ưu đãi để đầu tư và phát triển Cải
Lương, xây dựng và đào tạo đội ngũ diễn viên
chuyện nghiệp, kịch bản Cải Lương cần hướng
đến nhu cầu thẩm mĩ, mong đợi của công chúng,
nâng cấp cơ sở hạ tầng để phục vụ khán giả
tốt hơn. . . Tuy nhiên, thực chất đây cũng chỉ là
những đề xuất mang tính gợi ý, muốn bắt tay
vào hiện thực hóa, chúng ta cần có chiến lược và
chương trình hành động rõ ràng và cụ thể hơn.
Công trình Văn hóa Cải Lương Nam Bộ từ
Đờn ca tài tử đến sân khấu Cải Lương, từ lí luận
đến thực tiễn [11], tập hợp 24 tham luận của các
nhà khoa học, nhà nghiên cứu, soạn giả tham
dự hội thảo khoa học quốc gia về văn hóa Cải
Lương Nam Bộ. Các bài viết tập trung nghiên
cứu trên bốn hệ vấn đề chính: tiến trình sân khấu
Cải Lương, đặc trưng văn hóa Cải Lương, tác
giả - tác phẩm và phong trào Cải Lương ở các
địa phương.
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu
quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, trong đó có
sân khấu Cải Lương Nam Bộ. Có thể kể đến,
năm 2010, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật
Thành phố Hồ Chí Minh, chủ nhiệm đề tài Huỳnh
Quốc Thắng thực hiện đề tài cấp trường “Điều
tra, phát huy sân khấu truyền thống tại Thành phố
Hồ Chí Minh” [12]. Năm 2014, Viện Khoa học
Xã hội vùng Nam Bộ, chủ nhiệm đề tài Nguyễn
Thị Trúc Bạch thực hiện đề tài cấp cơ sở “Cải
Lương trong đời sống văn hóa xã hội Nam Bộ”
[13]. Cả hai đề tài vận dụng phương pháp điều
tra xã hội học, nhằm nhận diện thực trạng, kết
quả điều tra cho thấy những chỉ báo về tình hình
khó khăn của sân khấu Cải Lương ở Nam Bộ.
Cả hai kết quả khảo sát thực tế, ở hai thời điểm
không trùng lắp đều cho thấy, vẫn còn một số
lượng công chúng yêu thích, đến với Cải Lương
bằng những hình thức và trình độ cảm thụ khác
nhau. Có thể nói, điểm mạnh của hai đề tài là
vận dụng phương pháp điều tra xã hội học để
nhận diện thực trạng sân khấu Cải Lương Nam
Bộ ngày càng thưa vắng khán giả. Tuy nhiên, các
giải pháp của hai đề tài đề xuất chưa được cụ thể,
chủ yếu hướng đến kêu gọi các sở ban ngành văn
hóa quan tâm hơn đến loại hình nghệ thuật này.
Qua phần điểm luận, chúng tôi nhận thấy các
công trình nghiên cứu về Cải Lương từ các góc
nhìn văn hóa đi trước đều có những đóng góp
quý báu cần được ghi nhận. Phần lớn, các tác
giả đều thống nhất cho rằng Cải Lương là loại
hình sân khấu độc đáo, sản sinh từ vùng đất
Nam Bộ. Sự ra đời của Cải Lương xuất phát từ
điều kiện xã hội và nhu cầu thưởng ngoạn của
công chúng Nam Bộ đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên,
ngày nay, Cải Lương không còn phát triển rực
rỡ, không thu hút phần đông công chúng trong
31
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
xã hội. Vì vậy, những tán dương, ca ngợi thái
quá về loại hình này trở nên bất cập với thời
đại. Những tác giả quan tâm đến Cải Lương thời
hiện đại đều báo động Cải Lương đang đứng
trước những khó khăn. Loại hình này đang chịu
sức ép cạnh tranh với nhiều hình thức giải trí
khác. Những ai tâm huyết với Cải Lương đều
đồng thanh kêu gọi sự quan tâm sâu sát của nhà
nước, các đơn vị chức năng, nghệ sĩ. . . nhằm
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc nói chung, Nam Bộ nói riêng. Các
công trình cũng đã gợi ý một số giải pháp nhằm
“phục hưng”, “làm mới” Cải Lương. Tuy nhiên,
cho đến nay không phải giải pháp nào cũng được
hiện thực hóa và thành công. Chúng tôi ghi nhận
và tiếp tục bổ sung bằng nghiên cứu tiếp theo
mang tính thời sự và toàn diện hơn. Ở nghiên
cứu này, chúng tôi vừa kết nối nguồn dữ liệu
khảo sát vừa vận dụng phương pháp nghiên cứu
định tính (phỏng vấn sâu đối tượng có chọn lựa
mẫu). Kết quả nghiên cứu hướng đến việc nhận
diện những trở lực phát triển Cải Lương Nam Bộ,
đề xuất những giải pháp khả thi phát huy giá trị
di sản văn hóa loại hình nghệ thuật này.
III. NHẬN DIỆN NHỮNG TRỞ LỰC PHÁT
TRIỂN CẢI LƯƠNG NAM BỘ HIỆN NAY
A. Đội ngũ tác giả, đạo diễn Cải Lương
Lịch sử nghiên cứu Cải Lương Nam Bộ từng
ghi nhận hơn 50 chân dung tác giả có đóng góp
xây dựng kịch bản, phản ánh đội ngũ sáng tác
tương đối hùng hậu. Những tác giả đầu tiên có
thể kể đến như Trương Duy Toản, Nguyễn Trọng
Quyền, Trần Phong Sắc, Trần Tấn Chức, Lâm
Hoài nghĩa, Nguyễn Quốc Biểu, Nguyễn Công
Mạnh, Đào Châu, Đặng Công Danh. . . Thế hệ tác
giả kế cận như: Tư Chơi, Năm Châu, Tư Trang
(Trần Hữu Trang), Nguyễn An Khương, Ba Phát,
Bảy Nhiêu... Đội ngũ tác giả đông đảo đã xây
dựng khối lượng kịch bản Cải Lương phong phú,
thể tài đa dạng, góp phần khẳng định vị trí loại
hình này trong văn hóa nghệ thuật Nam Bộ.
Với loại hình Cải Lương, kịch bản được xem
là điều kiện cơ bản, quan trọng xây dựng tác
phẩm sân khấu. Ngày nay, Cải Lương đang phải
đối mặt với vấn đề “khủng hoảng” kịch bản,
nguyên nhân chính là do lực lượng tác giả ngày
càng giảm và thưa dần so với các thời kì trước.
Mặt khác, các tác giả đang thiếu sự kích thích
sáng tạo. Có thể thấy, phần lớn người sáng tác
kịch bản Cải Lương phục vụ chủ yếu cho các
hội thi, hội diễn, liên hoan Cải Lương toàn quốc.
Cho nên, hiện nay, một số tác giả chuyển sang
viết kịch bản cho Cải Lương truyền hình, kịch
nói, phim truyện.
Khi đặt vấn đề về đội ngũ sáng tác Cải Lương
hiện nay, soạn giả Hoàng Song Việt cho biết:
“Lực lượng tác giả cùng trang lứa và trẻ hơn tôi
hiện nay không thiếu. Hiện nay, cả Thành phố
Hồ Chí Minh chỉ có nhà hát Cải Lương Trần
Hữu Trang chuyên về Cải Lương. Cả nhà hát có
ba đơn vị nhỏ, một năm  ... óa,
hoạt động nghệ thuật và sự quan tâm, hưởng ứng
của công chúng khán giả.
A. Từ bình diện quản lí văn hóa – nghệ thuật
Xây dựng và khai thác kịch bản hiệu quả hơn:
Đầu tư trọng điểm cho khâu sáng tác kịch bản,
mỗi đơn vị Cải Lương nên có tác giả cơ hữu,
đầu tư và khuyến khích năng lực sáng tạo của
tác giả. Tác giả không cần thiết phải viết theo
yêu cầu (đặt hàng) hay kiếm thêm thu nhập bằng
nghề tay trái mà toàn tâm toàn ý sáng tác kịch
bản. Muốn thực hiện được điều này, chúng ta cần
phải có chế độ tiền lương và đãi ngộ đối với tác
giả. Đồng thời, chúng ta cần tổ chức các cuộc thi
sáng tác, trại sáng tác, viết kịch bản Cải Lương
nhằm tìm kiếm những kịch bản đặc sắc, sau đó
dàn dựng trình diễn sân khấu và giới thiệu rộng
rãi đến công chúng.
Mỗi kì liên hoan, hội diễn, các đoàn Cải Lương
đều có kịch bản mới, không ít vở diễn được trao
giải thưởng. Tuy nhiên, sau đó, không nhiều vở
được phổ biến phục vụ đông đảo công chúng.
Đây là sự lãng phí lớn về tiền bạc lẫn công sức
của người làm nghề. Với các tác phẩm chất lượng,
nếu chú trọng quảng bá, tiếp thị, có cách tiếp cận
khán giả hợp lí thì các đoàn hoàn toàn có thể đạt
doanh thu tốt.
Đào tạo đội ngũ sáng tác, diễn viên chuyên
nghiệp: Đào tạo và xây dựng đội ngũ sáng tác,
diễn viên Cải Lương là một trong những vấn đề
cần được quan tâm hàng đầu. Cải Lương trên mỗi
chặng đường lịch sử đều được đánh dấu bằng
những tên tuổi sáng chói tài năng như Phùng Há,
Ba Vân, Năm Châu, Trần Hữu Trang. . . Vì thế,
các nhà quản lí văn hóa, giới hoạt động nghệ
thuật Cải Lương cần có kế hoạch đào tạo lực
lượng sáng tác, diễn viên Cải Lương cho giai
đoạn hiện nay và tương lai. Những người làm
nghệ thuật cần có sự tinh nhạy trong việc phát
hiện và bồi dưỡng tài năng. Đào tạo đội ngũ sáng
tác và diễn viên có năng lực, bản lĩnh nghề nghiệp
thực sự.
Các đơn vị hoạt động nghệ thuật cần quan tâm
và thực hiện thường xuyên, liên tục các chính
sách ươm mầm và phát triển tài năng Cải Lương;
chủ động tìm kiếm tài năng Cải Lương dưới nhiều
hình thức (tổ chức các cuộc thi mở rộng, chú ý
việc giới thiệu tài năng ở cấp cơ sở, đặc biệt từ
mạng lưới các câu lạc bộ Đờn ca tài tử - Cải
Lương địa phương. . . ); xây dựng kế hoạch bồi
dưỡng, đào luyện nhân tố triển vọng; đảm bảo
cho họ cơ hội làm nghề và phát triển nghề nghiệp.
Đầu tư trọng điểm cho công tác đào tạo nguồn
nhân lực kế thừa, xây dựng chương trình đào tạo
phù hợp với đặc thù loại hình sân khấu Cải Lương
(mở rộng đối tượng tuyển sinh, nhất là giọng
ca, sắc vóc. . . ). Nhà nước, đơn vị quản lí văn
hóa, hoạt động nghệ thuật cần chú trọng phương
pháp “nghề truyền nghề” với sự tham gia giảng
dạy, truyền đạt kinh nghiệm của những người làm
nghề gạo cội; có chính sách cụ thể khuyến khích
người học (cấp học bổng, hỗ trợ học phí, tạo
cơ hội làm nghề. . . ). Nghệ nhân Tấn Thành bộc
bạch: “Lâu nay ở địa phương người học ca/học
đờn thường ít có cơ hội học theo hướng chuyên
nghiệp, chủ yếu đi học “ngón nghề”, học theo lối
gần gũi thầy trò. Theo tui, đối tượng này rất cần
được quan tâm và chú ý phát triển” [17]. Tinh
thần này cũng được Nghệ nhân Ưu tú của tỉnh
Trà Vinh là ông Nguyễn Văn Dấu chia sẻ: “Việc
đào tạo và nuôi dưỡng tài năng Đờn ca tài tử hay
35
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
Cải Lương ở địa phương rất quan trọng, lâu nay
người học chủ yếu vì đam mê, nhưng đôi lúc vì
quá khó khăn họ thường bỏ ngang. Vì thế, nếu
được quan tâm hỗ trợ kinh tế người học sẽ theo
đuổi lâu dài” [18].
Duy trì và phát triển phương thức Cải Lương
truyền hình, phát thanh: Truyền hình, phát thanh
là những phương tiện thực hiện chiến lược bảo
tồn và phát huy giá trị nghệ thuật Cải Lương. Cải
Lương muốn phổ biến rộng rãi, cần được truyền
hình, phát thanh hỗ trợ phát sóng nhiều hơn.
Ở Tây Nam Bộ hiện nay, những vở Cải Lương
truyền hình, phát thanh vẫn được đông đảo quần
chúng yêu mến, chờ đón. Đây là kênh kết nối
những tấm lòng mộ điệu Cải Lương. Riêng Cải
Lương truyền hình cần chăm chút về nội dung
lẫn hình thức nhằm lôi cuốn lòng yêu thích Cải
Lương của thế hệ trẻ, thế hệ lớn hơn vốn đã yêu
quý Cải Lương với tinh thần tri âm tri kỉ. Kịch
bản Cải Lương truyền hình cần có nội dung hay
mang tính hiện thực, đưa ra những vấn đề có
tính xã hội đương đại. Có thể nói, nếu Cải Lương
truyền hình, phát thanh thực hiện tốt, sẽ góp phần
hiệu quả trong việc tìm lại chỗ đứng của nghệ
thuật Cải Lương trong lòng khán giả.
Thông qua du lịch để quảng bá nghệ thuật sân
khấu Cải Lương: Trong chiến lược bảo tồn và
phát huy giá trị nghệ thuật Cải Lương, các tổ
chức/đơn vị văn hóa cần có sự phối hợp hành
động với ngành du lịch. Cần có những bài viết
sắc sảo và súc tích về Cải Lương Nam Bộ in trong
cẩm nang du lịch Việt Nam nói chung, Nam Bộ
nói riêng. Đồng thời, các tổ chức và công ty du
lịch trong nước cần đầu tư thiết kế thời gian -
không gian phù hợp, biểu diễn Cải Lương cho
du khách thưởng ngoạn trong những chuyến du
lịch tại địa bàn Nam Bộ, đặc biệt là tại Thành
phố Hồ Chí Minh và vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Thông qua du lịch, Cải Lương được quảng
bá đến du khách trong nước và quốc tế.
B. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Cải Lương như một trường hợp của nghiên cứu
liên ngành
Trong những năm gần đây, nghiên cứu và giảng
dạy Ngữ văn trong nhà trường vừa phát triển
chuyên ngành, đồng thời quan tâm đến hướng
tiếp cận liên ngành. Điều này nhằm mở rộng các
chủ đề nghiên cứu, phát triển tri thức trong lĩnh
vực giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Trong công trình The Rustle of language
(1986), Roland Barthes cho rằng: “Các nghiên
cứu liên ngành không chỉ đơn thuần là nghiên
cứu và phản bác các kết quả của các ngành, việc
nghiên cứu về một chủ đề (hay một ý tưởng chủ
đạo) và sắp xếp hai ba luận điểm khoa học chung
quanh nó xem ra là chưa đủ. Nghiên cứu liên
ngành bao gồm việc tạo ra hướng/chủ đề nghiên
cứu mới chưa ai phát hiện ra” [19, p.72]. Barthes
nhấn mạnh hướng nghiên cứu liên ngành góp
phần phát hiện những ý tưởng, văn bản nghiên
cứu mới.
Trong công trình Interdisciplinarity (Liên
ngành) [20, p.51-81], tác giả Joe Moran đặc biệt
đề cao đến tính liên kết, mở rộng sự hiểu biết
trong nghiên cứu liên ngành. Trong phần viết
Literature into culture (văn học từ chiều kích văn
hóa), ông quan niệm, văn học và văn hóa là hai
chuyên ngành có thể kết hợp nghiên cứu liên
ngành, phát hiện những chủ đề nghiên cứu thú
vị và hữu ích trong bối cảnh xã hội đương đại.
Các chủ đề nghiên cứu liên ngành có thể liên
quan đến các chiều kích của lí thuyết về tầng lớp
(class), vốn văn hóa (cultural capital), giá trị văn
hóa (cultural value). . .
Có thể nói, xu hướng nghiên cứu liên ngành
được các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong
nước tiếp tục ủng hộ và vận dụng nghiên cứu.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm
đến hướng nghiên cứu liên ngành trong bối cảnh
nghiên cứu và giảng dạy môn Văn học, Văn hóa
học, Nghệ thuật học hiện nay gắn với chủ đề bảo
tồn và phát huy giá trị nghệ thuật sân khấu truyền
thống Nam Bộ - loại hình Cải Lương. Về vấn đề
này, hiện nay, một số trường đại học có nhóm
ngành khoa học xã hội và nhân văn đã và đang
thực hiện. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng một
số bình diện khác mang tính liên ngành cũng rất
cần lưu ý triển khai, thực hiện:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, phát
triển khán giả, tổ chức các cuộc thi viết kịch bản
Cải Lương. Tiến hành thực hiện các đề tài nhằm
tìm kiếm các kết quả nghiên cứu, tư vấn chính
sách phù hợp cho công tác quản lí, giáo dục, khai
thác và phát huy giá trị văn hóa Cải Lương trong
bối cảnh đương đại. Đồng thời, kết quả nghiên
cứu là cơ sở xây dựng các giáo trình, chuyên
36
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
đề, tài liệu giảng dạy về nghệ thuật Cải Lương.
Tiến hành điều tra xã hội học về thị hiếu, tâm lí
thưởng ngoạn của công chúng đương đại (đặc biệt
là công chúng trẻ, đối tượng học sinh, sinh viên),
khán giả Cải Lương hiện nay nhằm định hướng
hoạt động phù hợp cho các đơn vị Cải Lương.
Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy, giáo viên
tổ chức cuộc thi viết kịch bản Cải Lương như một
sân chơi khơi gợi sự hứng thú, sáng tạo của người
học đối với loại hình Cải Lương.
Sân khấu học đường: Để tránh tình trạng công
chúng trẻ tỏ ra thờ ơ, xa lạ với nghệ thuật Cải
Lương, chúng ta cần đưa sân khấu vào trường
học. Chương trình đào tạo (ngành Văn học, Nghệ
thuật học, Văn hóa học) cần thiết kế giảng dạy
về nghệ thuật Cải Lương Nam Bộ, khuyến khích
tái hiện không gian trình diễn trong các tiết học
thực hành, sân khấu hóa tác phẩm Cải Lương.
Tổ chức các cuộc thi với chủ đề văn hóa – nghệ
thuật dân tộc, về nguồn. . . ; tạo điều kiện cho học
sinh, sinh viên khám phá, tìm hiểu về nghệ thuật
sân khấu truyền thống Nam Bộ. Đồng thời, nhà
trường khuyến khích, bồi dưỡng, tạo điều kiện
cho học sinh, sinh viên tham gia các cuộc thi
văn hóa, âm nhạc, sân khấu truyền thống do các
đơn vị truyền thông như đài truyền hình, đài phát
thanh tổ chức.
Nhà trường tích cực mở rộng kết nối với các
nhà hoạt động nghệ thuật, nghệ sĩ Cải Lương để
có những buổi tọa đàm, nói chuyện chuyên đề về
nghệ thuật sân khấu Cải Lương; giới thiệu vở diễn
Cải Lương kinh điển, trình diễn các trích đoạn
Cải Lương trong trường học. Thông qua đó, nhà
trường cung cấp những kiến thức về Cải Lương,
giá trị thẩm mĩ, giới thiệu chân dung các nhà
hoạt động nghệ thuật của sân khấu Cải Lương.
Tìm kiếm, ươm mầm tài năng học đường và
công tác đào tạo: Xây dựng và thực hiện các
chương trình sinh hoạt tập thể hướng đến tìm
kiếm gương mặt, tài năng sân khấu Cải Lương
học đường. Việc tìm kiếm tài năng Cải Lương có
thể thực hiện bằng nhiều hình thức như tổ chức
các cuộc thi biểu diễn, giọng ca Cải Lương. . .
Xây dựng và duy trì câu lạc bộ Đờn ca tài tử -
Cải Lương trong trường học. Câu lạc bộ trường
học có thể kết nối với mạng lưới các câu lạc bộ
Đờn ca tài tử - Cải Lương ở địa phương để sinh
hoạt định kì, giao lưu.
Thông qua các chuyến đi thực tế kết nối thế
hệ trẻ với nghệ thuật Cải Lương: Theo thông lệ,
học sinh, sinh viên đều có những giờ học ngoại
khóa, đi thực tế. Chúng ta nên linh hoạt kết hợp
các chuyến đi thực tế để giới thiệu về loại hình
Cải Lương tại địa bàn Tây Nam Bộ, Đông Nam
Bộ. Tạo điều kiện cho thế hệ trẻ tham quan, tiếp
xúc với nghệ nhân, câu lạc bộ Đờn ca tài tử - Cải
Lương tại địa phương, góp phần cung cấp những
kiến thức thực tế cho sinh viên, từ đó, các em sẽ
hiểu và ý thức hơn về việc bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc.
V. KẾT LUẬN
Cải Lương là loại hình nghệ thuật sân khấu
độc đáo của Nam Bộ, là sản phẩm văn hóa nghệ
thuật đặc sắc của dân tộc. Trải qua gần một trăm
năm tồn tại và phát triển, Cải Lương ngày hôm
nay đang đứng trước bối cảnh hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh văn hóa xã hội đương đại, việc
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân
tộc, trong đó có loại hình nghệ thuật Cải Lương
trở nên cấp bách. Cải Lương với tư cách là di
sản văn hóa quốc gia cần được khẳng định, bồi
đắp giá trị nghệ thuật và quan tâm nhiều hơn nữa
trong chiến lược giữ gìn, phát huy nguồn lực văn
hóa dân tộc.
Với định hướng khẳng định và phát huy giá trị
văn hóa nghệ thuật Cải Lương – loại hình kịch hát
truyền thống của Nam Bộ, từ thực trạng chúng tôi
gợi ý một số giải pháp trong giai đoạn hiện nay:
từ cấp độ quản lí văn hóa, nghệ thuật: đào tạo
đội ngũ sáng tác và diễn viên Cải Lương chuyên
nghiệp, phát huy vai trò thể loại Cải Lương truyền
hình, phát thanh, kết hợp với du lịch đưa khán giả
đến với sân khấu Cải Lương; vận dụng phương
pháp nghiên cứu liên ngành để phát huy giá trị
văn hóa nghệ thuật Cải Lương trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo một số ngành
học thuộc khoa học xã hội và nhân văn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] UNESCO. Di sản văn hóa phi vật thể và
phát triển bền vững; 2018. Truy cập từ:
https://ich.unesco.org/doc/src/34299-VI.pdf [Truy cập
ngày: 25/08/2018].
[2] Sơn Nam. Cá tính của miền Nam. Sài Gòn: Đông
Phố xuất bản; 1974.
[3] Sơn Nam. Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh họat
xưa. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản Trẻ;
1997.
37
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 31, THÁNG 9 NĂM 2018 VĂN HÓA - GIÁO DỤC - NGHỆ THUẬT
[4] Trần Ngọc Thêm. Tìm về Bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tái bản lần thứ 4. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà
Xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh; 2004.
[5] Ngô Đức Thịnh. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa
ở Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản
Trẻ; 2004.
[6] Nguyễn Thị Trúc Bạch. Cải Lương trong văn hóa
Nam Bộ [Luận văn Thạc sĩ]; 2011. Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
[7] Trần Trọng Đăng Đàn. 23 năm cuối của 300 năm Văn
hóa Nghệ thuật Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản Văn nghệ
- Sở Văn hóa Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh;
1998.
[8] Võ Thị Yến. Nghệ thuật sân khấu Cải Lương Nam Bộ
qua tác động của các phương thức quản lý [Luận án
Tiến sĩ]. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam; 2013.
[9] Phạm Trí Thành. Nghệ thuật sân khấu Cải Lương kế
thừa và biến đổi. Hà Nội: Nhà Xuất bản Văn học –
Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội; 2011.
[10] Nguyễn Trần Ngọc Tuyết. Sân khấu Cải Lương thành
phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế
- xã hội từ năm 1975 đến nay [Luận văn Thạc sĩ];
2013. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
[11] Huỳnh Công Tín (chủ biên). Văn hóa Cải Lương Nam
Bộ - Từ đờn ca tài tử đến sân khấu Cải Lương, từ
lý luận đến thực tiễn. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà
Xuất bản Văn hóa – Văn nghệ; 2016.
[12] Huỳnh Quốc Thắng. Báo cáo tổng hợp đề tài cấp
trường “Điều tra, phát huy sân khấu truyền thống tại
Thành phố Hồ Chí Minh”. Trường Cao đẳng Văn hóa
Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh; 2010.
[13] Nguyễn Thị Trúc Bạch. Báo cáo tổng hợp đề tài cấp
Cơ sở “Cải Lương trong đời sống văn hóa xã hội
Nam Bộ”. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ;
2014.
[14] Châu Mỹ. Hoàng Song Việt - Ai dũng cảm mới
theo đuổi Cải Lương thời nay; 2014. Truy cập
từ: 
thuat/san-khau/hoang-song-viet-ai-dung-cam-moi-
theo-duoi-cai-luong-thoi-nay-3094840.html 2014
[Ngày truy cập 18/5/2016].
[15] Mai Linh. Liên hoan Cải Lương toàn quốc
2018: Trống vắng những vở mới; 2018.
Truy cập từ: 
Ngh%E1%BB%87/lien-hoan-cai-luong-toan-quoc-
2018-trong-vang-nhung-vo-moi [Ngày truy cập
2/10/2018].
[16] Trần Trọng Đăng Đàn. Kịch Việt Nam: Thưởng thức
– Bình luận. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản
Văn hóa – Văn nghệ; 2011.
[17] Nguyễn Tấn Thành. Đờn ca tài tử - Cải Lương; 2016.
Phỏng vấn Nghệ nhân Đờn cò, Hội viên Hội Văn học
– Nghệ thuật Trà Vinh. Người phỏng vấn: Nguyễn Thị
Trúc Bạch. Câu lạc bộ Đờn ca tài tử - Cải Lương thị
trấn Càng Long, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.
[18] Nguyễn Văn Dấu (Tám Dấu). Đờn ca tài tử - Cải
Lương; 2016. Phỏng vấn Nghệ nhân Ưu tú Đờn ca
Tài tử tỉnh Trà Vinh. Người phỏng vấn: Nguyễn Thị
Trúc Bạch. Câu lạc bộ Đờn ca tài tử - Cải Lương thị
trấn Càng Long, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.
[19] Barthes, Roland. The rustle of language. Richard
Haward, Oxford: Basil Blackwell; 1986.
[20] Joe Moran. Interdisciplinarity. London and New
York, Routledge; 2002.
38

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_cai_luong_nam_bo_thuc_trang_va_dinh_huong_phat_hu.pdf