Tìm hiểu lễ hội Thek Côn (Đạp cồng) của người Khmer Sóc Trăng

Tóm tắt

Người Khmer Sóc Trăng có nhiều lễ hội truyền thống mang giá trị hết sức độc đáo. Đặc biệt, đó là

lễ hội Thek Côn tại ấp An Trạch, xã An Hiệp, huyện Châu Thành. Tìm hiểu lễ hội này cho thấy đây là lễ

hội cầu an, mang tính nhân văn. Mặt khác, thông qua nghiên cứu cũng làm rõ thêm giá trị địa phương

của lễ hội, cũng như sức lan tỏa của nó không chỉ đối vùng đất Sóc Trăng mà còn cả khu vực Nam bộ.

pdf 5 trang yennguyen 1920
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu lễ hội Thek Côn (Đạp cồng) của người Khmer Sóc Trăng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu lễ hội Thek Côn (Đạp cồng) của người Khmer Sóc Trăng

Tìm hiểu lễ hội Thek Côn (Đạp cồng) của người Khmer Sóc Trăng
67
Soá 10, thaùng 9/2013 67
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
TÌM HIỂU LỄ HỘI THEK CÔN (ĐẠP CỒNG) 
CỦA NGƯỜI KHMER SÓC TRĂNG
Tiền Văn Triệu *
Tóm tắt
Người Khmer Sóc Trăng có nhiều lễ hội truyền thống mang giá trị hết sức độc đáo. Đặc biệt, đó là 
lễ hội Thek Côn tại ấp An Trạch, xã An Hiệp, huyện Châu Thành. Tìm hiểu lễ hội này cho thấy đây là lễ 
hội cầu an, mang tính nhân văn. Mặt khác, thông qua nghiên cứu cũng làm rõ thêm giá trị địa phương 
của lễ hội, cũng như sức lan tỏa của nó không chỉ đối vùng đất Sóc Trăng mà còn cả khu vực Nam bộ.
Từ khóa: Lễ hội Thek Côn, cầu an, truyền thống, giá trị địa phương, tính nhân văn.
Abstract
Khmer people in Soc Trang has many valuable and significant traditional festivals, including Thek 
Con festival at An Trach village, An Hiep commune, Chau Thanh district. The study from this festival 
show that this is a festival with full of humanity where Khmer people pray for health and property. 
Otherwise, the research also contributes to clarify the local value of the festival as well as the extention 
of it not only in Soc Trang but also in the South of VietNam. 
Key words: Thek Con Festival, traditional, local value, pray for health and property, humanity.
* Thạc sĩ, Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam 
1. Về tên gọi và nguồn gốc lễ hội
Tên gọi Đạp Cồng - Thek Côn là cách gọi theo 
tiếng Khmer của người dân vùng An Trạch, An 
Hiệp, Châu Thành, Sóc Trăng. Thek là đạp, Côn là 
cồng (vàng), như vậy Thek Côn là lễ hội Đạp Cồng. 
Ngoài tên gọi này, còn có thể gọi là lễ hội cúng dừa 
vì thức cúng chủ yếu là những trái dừa tươi, gọi là 
salathoađôn.
Về nguồn gốc của lễ hội, theo các cụ già và các 
vị achar, đây là lễ hội có hàng trăm năm tuổi. Xuất 
phát từ truyền thuyết về chiếc cồng vàng nổi lên ở 
vùng đất An Trạch xưa kia. Đây là một đặc điểm 
độc đáo của lễ hội này bởi thể hiện tư duy văn hóa 
dân gian hết sức đậm nét. Theo các cụ già thì truyền 
thuyết này có nội dung như sau: “Tích xưa ở An 
Trạch, An Hiệp, Châu Thành, Sóc Trăng có truyền 
thuyết về cái cồng vàng. Thủa trước, ở đất An Trạch 
tự nhiên nổi lên một cái gò đất hình dạng như chiếc 
cồng. Chân người dẫm lên nghe âm vang như tiếng 
cồng, được ít lâu, tiếng cồng trong đất nhỏ dần rồi 
mất hẳn. Nhân gian cho là sự linh thiêng bèn lập một 
ngôi miếu thờ. Hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng 
hai tính theo Phật lịch, dân làng An Trạch lại tổ chức 
lễ hội cầu an ở miếu này và gọi đó là hội Thek Côn. 
Trong tiếng Khmer, Thek Côn có nghĩa Đạp Cồng, 
gợi lại sự tích về tiếng cồng vang lên từ đất. Hội 
Thek Côn có lệ cúng những chiếc bình bông làm 
bằng trái dừa”. Theo truyền thuyết trên đây phản ánh 
thì nội dung của nó đã nói lên nguồn gốc, xuất xứ 
của lễ hội này. Đồng thời, nội dung truyền thuyết 
cũng phản ảnh rõ quá trình chinh phục và khám 
phá, tụ cư của cư dân Khmer trong buổi đầu đến 
vùng đất này thành lập phum, sóc. Đồng thời, 
truyền thuyết còn chỉ rõ văn hóa định cư truyền 
thống của người Khmer là ở những vùng đất cao 
- đất giồng như gò đất nổi lên ở vùng An Trạch 
mà truyền thuyết đã đề cập. 
Bên cạnh truyền thuyết trên, còn có truyền 
thuyết khác với cách kể như sau: Thuở xưa, vùng 
đất An Trạch là xứ đường trâu (ý chỉ vùng đất 
hoang vu, ít người lui tới, chỉ có trâu đi thành 
đường). Người dân ở đây thấy có một gò đất nổi 
lên (nay là chỗ xây sala để dừa trong lễ này). Ban 
đầu những người đàn ông đi chăn trâu qua đường 
này lấy chân đạp thử thì nghe âm thanh phát ra 
thành tiếng “côn”, “côn” (trong tiếng Khmer 
côn có nghĩa là cồng - cồng vàng). Một hôm, có 
người phụ nữ chăn trâu đang mang thai, lấy chân 
đạp lên gò đất thì âm thanh không còn phát ra 
nữa và gò đất lặn dần”, phần kết thúc truyền 
thuyết giống truyền thuyết đã nêu trên. Tuy vậy, 
qua truyền thuyết này ta thấy không chỉ phản ảnh 
quá trình khai phá vùng đất giồng - đất gò của 
người Khmer mà còn cho thấy những tín ngưỡng 
cổ sơ có giá trị tâm linh như gò đất cao (chỉ cồng 
vàng) kị người phụ nữ có thai mang tính thiêng 
68
Soá 10, thaùng 9/2013 68
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
rõ nét. Điều này giải thích vì sao trong nghi thức của 
lễ này có vai trò rất lớn của người phụ nữ (sẽ nói rõ 
ở phần sau). Phải chăng truyền thuyết còn phản ánh 
cả quá trình chuyển đổi từ xã hội mẫu hệ sang phụ 
hệ với việc đề cao vai trò của người đàn ông (đạp 
lên cồng thì phát ra tiếng kêu) hơn người phụ nữ có 
thai thì cồng không kêu nữa và gò đất lặn dần. Tại 
gò đất ấy, người dân lập miếu thờ.
Hai truyền thuyết trên đây cho ta lý giải về nguồn 
gốc lễ hội, về tên gọi và cả một phần nghi thức có 
liên quan như thức cúng và vai trò của người phụ nữ 
trong lễ hội này.
Biểu tượng chiếc cồng vàng được thờ trong salatel 
(Ảnh- Văn Triệu)
Lễ hội Thek Côn hằng năm được tổ chức tại ấp 
An Trạch, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc 
Trăng trong vòng ba ngày, từ ngày 25 đến ngày 27 
tháng 4 Dương lịch. Theo lịch Khmer, đó là các 
ngày 15, 16, 17 tháng 2 Âm lịch Khmer (nhằm các 
ngày 16, 17, 18 tháng 3 Âm lịch của người Việt). 
Tại địa điểm này, người dân An Trạch đã xây 
dựng một ngôi salatel để thờ ông Thek Côn. Về cấu 
tạo, đây là ngôi salatel có vòng ngoài bốn hướng 
đông, tây, nam, bắc đều trang trí biểu tượng chiếc 
cồng vàng gắn với các hoa văn mang đậm dấu ấn 
phong cách Phật giáo Nam tông. Bên trong thờ biểu 
tượng chiếc cồng vàng để gợi nhắc về sự hình thành 
vùng đất và lễ hội. Bên dưới chiếc cồng vàng thờ 
bà Bọng (bà ở ngoài Bọng, gần địa điểm diễn ra lễ 
hội), là người nhập xác ông Thek Côn. Xưa kia, lễ 
hội có phần nhập xác ông Côn nhưng từ khi bà Bọng 
qua đời (Bà Bọng tên thật là Suôl, mất lúc 87 tuổi) 
đến nay không còn nữa, phần khác do chính quyền 
không cho phép tiến hành nghi thức nhập xác này.
Ngoài ngôi miếu này, phía trái và sau lưng 
ngôi miếu là hai ngôi nhà thờ Phật được trang 
trí khá đẹp theo đúng cách bày trí của Phật giáo 
Nam tông. Hai ngôi nhà này dùng để sư sãi đọc 
kinh cầu siêu, cầu an, thuyết pháp.
 Riêng phía trước ngôi nhà thờ Phật có bàn 
thờ trời đất theo đúng nghi thức của lễ cầu an.
Người dân nơi đây gọi lễ hội Thek Côn là 
hội ông Thek Côn với ý nghĩa tôn chiếc cồng 
vàng là Ông, thể hiện sự tôn kính, linh thiêng. 
Với niềm tin thuần phác, cổ xưa, người dân cho 
rằng, chỉ cần cầu ông Côn vấn đề gì thì đều linh 
nghiệm cả. 
Salathođôn được dâng lên cúng ông Côn trong lễ 
Thek Côn (Ảnh- Văn Triệu)
Từ trước các ngày lễ chính, đông đảo bà con 
trong vùng An Trạch đã đến ngôi miếu thờ ông 
Côn rất sớm để cầu xin, cúng bái mong được phù 
hộ như ý nguyện. Theo ý nghĩa đấy, ông Côn 
chính là một vị thần bảo hộ của cư dân Khmer 
làng An Trạch, nhưng vai trò rất khác xa so 
với tín ngưỡng Neak Tà và Arak trong văn hóa 
truyền thống của họ. 
2. Các nghi thức của lễ hội Thek Côn
Qua tìm hiểu thực tế, lễ hội Thek Côn diễn 
ra trong ba ngày với các nghi thức chính mang 
nội dung Phật giáo nhưng suy đến cùng và ngọn 
nguồn ý nghĩa của lễ hội Thek Côn là một lễ cầu 
an của riêng người Khmer vùng An Trạch. Đây 
là điều hết sức đặc biệt trong văn hóa lễ hội của 
người Khmer, không chỉ ở Sóc Trăng mà còn cả 
ở Nam bộ. Vì lễ cầu an của người Khmer Nam 
bộ hầu hết đều được tổ chức trong tháng 2 âm 
69
Soá 10, thaùng 9/2013 69
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
lịch, nghĩa là trước tết Chol Chnam Thmây, trong 
khi đó lễ hội Thek Côn với ý nghĩa là một lễ hội cầu 
an lại được tổ chức vào thời điểm sau tết mừng năm 
mới của họ. Đây có lẽ là tính chất đặc thù, là giá trị 
địa phương rõ nét của lễ hội Thek Côn. 
Theo đó, trong ba ngày diễn ra lễ hội thì các 
nghi thức chính cúng giống như lễ cầu an, gồm: 
sáng dâng cơm cho sư, tối thỉnh sư đọc kinh cầu 
siêu, làm phước để cầu an cho dân trong phum, sóc 
và sau cùng là thuyết pháp để dạy các phật tử giáo 
lý nhà Phật. Cụ thể: từ chiều đến 7 giờ tối tập trung 
Phật tử làm lễ lạy Phật, từ sau 8 giờ tối thỉnh sư 
tụng kinh cầu chúc cho bá tánh, từ 9 giờ về sau sư 
sãi thuyết pháp cho Phật tử nghe. Các nghi thức 
này diễn ra trong ba ngày nhưng sau phần sư thuyết 
pháp là phần hội của lễ hội Thek Côn. Phần hội này 
là phần thể hiện nghệ thuật sân khấu Rô băm và 
Dù kê truyền thống của họ cũng giống như trong 
lễ cầu an. 
Theo quan sát thì bên trong và ý nghĩa sâu xa 
của hội Thek Côn bắt nguồn từ lễ vật cúng như: 
dừa tươi (vạt hai mặt), cắm vào đó slatho (tức bông 
hoa làm bằng nhang kết hợp giấy màu cắt và kết 
lại thành nhiều tầng rất đẹp mắt), phía trên trái dừa 
cắm 5 cây tre vót nhỏ hay dùng 5 cây nhang rồi 
xỏ vào 5 lá trầu, dùng các loại hoa như cúc, vạn 
thọ cắm vào 5 cây chân nhang hay 5 nhánh tre 
nhỏ rồi cắm lên phần trên của quả dừa tạo thành lễ 
vật salathoađôn (đôn là dừa) rất đặc trưng cho lễ hội 
này. Salathoađôn này do người dân tự làm đến cúng 
ông Côn tại Salatel (nơi thờ Cồng vàng). Người dân 
ở đây tin rằng, cúng dừa và các thứ khác như nhang, 
đèn, bánh nhưng không cúng mặn sẽ được ông Côn 
đón nhận, vì ông không ăn mặn bao giờ. Lí giải việc 
này, ông Thao Tô Dê (63 tuổi, là chủ lễ của hội Thek 
Côn) cho rằng nước dừa và cả các thứ khác trang trí 
trên Salathoađôn thể hiện sự tinh khiết, thanh sạch 
nhưng hết sức trang nghiêm của ông Côn (chỉ cần 
sự nhơ bẩn và cả phụ nữ có thai đụng vào là không 
hiển linh nữa - như truyền thuyết đã nêu). Vì thế 
ông không bao giờ thể hiện hiển linh cho những ai 
lười biếng muốn hưởng của trời cho như cầu số đề, 
cờ bạc và người dân ở đây cũng không cầu ông về 
chuyện này mà chỉ cầu làm ăn, lợi lộc. Cũng xuất 
phát từ tính trang nghiêm đó nên việc chọn người 
đứng ra làm nghi lễ trong lễ hội cũng phải là người 
ngay thẳng, thật thà, có uy tín được nhiều người 
tin tưởng. Hiện nay, có hiện tượng chia bảng (A, 
B,) để giao công việc trong lễ hội này. Theo đó, 
những người được xếp vào bảng A là những người 
làm công việc có liên quan đến nghi lễ, họ không 
chỉ là người rành các nghi thức mà còn là người 
được nhân dân trong vùng tin tưởng, tín nhiệm. 
Còn những người ở các bảng khác thì làm các 
công việc còn lại của lễ hội. 
Hằng tháng vào các ngày mùng 8, 15, 23, 30 
đều có người đến miếu ông Côn thắp nhang, cầu 
xin. Điều này chứng tỏ giá trị về mặt tâm linh 
hết sức quan trọng của tín ngưỡng ông Côn trong 
tâm thức người dân Khmer ở Sóc Trăng.
Cũng chính vì sự trang nghiêm ấy nên 
thường mỗi người dân Khmer mang theo một 
cặp Salathoađôn tự làm và nhang, đèn cầy, hoa 
sen, một ít tiền cúng tùy ý đến cúng. Sau khi 
để lễ vật cúng lên tại bàn thờ ông Côn thì bắt 
đầu thắp nhang khấn vái. Nội dung chủ yếu xoay 
quanh vấn đề làm ăn, cày cấy mùa màng trong 
năm, cầu an cho gia đạo, cầu hạnh phúc, mua 
may bán đắt. Sau khi cúng xong, người ta xin lộc 
đem về, với lễ vật Salathoađôn: phần dừa thì lấy 
nước uống mong hết bệnh tật, lá trầu cũng đem 
về nhà ăn mong ma quỷ không làm hại tới mình, 
phần bông hoa thì để lại trang hoàng trên bàn 
thờ ông Côn hoặc đem về nhà trưng lên bàn Phật 
Thích ca. Nói chung nghi thức xin lộc về nhà thể 
hiện rõ giá trị nhân văn độc đáo của lễ Thek Côn. 
Nó phản ánh niềm tin cổ sơ của văn hóa Khmer, 
đồng thời thể hiện niềm khát vọng bình an, gia 
đình hạnh phúc của tộc người này. Điều này rất 
giống với ý nghĩa của lễ cầu an của người Khmer 
Nam bộ.
Sala nơi xưa kia theo truyền thuyết là nơi 
cồng vàng nổi lên (Ảnh- Văn Triệu)
70
Soá 10, thaùng 9/2013 70
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
Phần Salathoađôn với hàng nghìn trái dừa sau 
khi cúng trong ba ngày lễ thì đem vào ngôi miếu - 
sala đầu tiên nơi có gò đất nổi lên mà người Khmer 
gọi là truyền thuyết cồng vàng rồi chất thành từng 
đống. Sau lễ hội dừa được dùng làm nguyên liệu 
nấu nướng cho người dân cư trú trong vùng.
Bên cạnh đó, còn có nghi thức hỏi vay tiền ông 
Côn để làm ăn. Số tiền vay này chính là một phần 
tiền của Phật tử cúng. Chẳng hạn cúng 10 đồng thì 
sau khi cúng hỏi vay 5 đồng đem về mong muốn 
tiền sinh lãi để làm ăn thuận lợi, phát tài. Năm sau 
đến với lễ hội lại tiếp tục vay để làm ăn. Điều này 
phản ánh khát vọng phồn thực của cư dân nông 
nghiệp lúa nước là mong muốn sự thịnh vượng nối 
tiếp nhau trong đời sống của họ.
Tuy nhiên, có một nghi thức hết sức quan trọng 
trong lễ Thek Côn phản ánh rõ nét đây là lễ hội 
đậm chất văn hóa cư dân nông nghiệp. Đó là nghi 
thức, Phật tử khi đến hội này đem theo những hạt 
lúa giống để lên bệ thờ trong miếu ông Côn suốt 
những ngày lễ để cầu mong mùa màng trúng vụ, 
bội thu. Và ngày cuối cùng của lễ hội này, các bà 
lão và các thiếu nữ Khmer lấy những hạt lúa giống 
này cùng với một ít tro, chân nhang cháy không 
hết trong ngôi miếu và các thức cúng nhang, đèn, 
bánh đặt vào cái mâm bạc đựng thức cúng rồi đem 
ra ruộng để cúng đất đai, cúng hồn lúa mong các 
vị thần bảo hộ cho ruộng, vườn được tươi tốt. Qua 
đó, họ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với trời 
đất đã đem lại cuộc sống no ấm cho mình. Điều 
đáng quan tâm là các nghi thức này lại được thực 
hiện bởi những người phụ nữ, phải chăng đây lại 
là một biểu hiện nữa của vai trò người phụ nữ gắn 
liền với tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông 
nghiệp lúa nước? Những người phụ nữ này thực 
hiện nghi thức rải các hạt lúa giống cùng với phần 
tro, nhang còn lại xuống các mẫu ruộng đã thu 
hoạch xong. Và không quên khấn vái những hạt 
lúa này sẽ mang mong ước, hy vọng của họ vào 
vụ mùa tới bội thu. Đồng thời, hành vi văn hóa 
đó cũng là sự trả lại tự nhiên một chu kì, một quá 
trình sản sinh và kết thúc của vụ mùa nhưng mang 
ý nghĩa của sự bắt đầu một vụ mới khi mùa mưa 
giáp hạt gần kề.
Riêng đối với những người làm nghề nuôi trồng 
thủy sản thì lấy chân nhang hoặc tro tàn đem về rải 
hoặc cắm trên bờ ao cầu ông Côn phù hộ cá tôm 
không bị chết. Tất cả những nghi thức này phản ánh 
một niềm tin tuyệt đối của cư dân vùng đất có chiếc 
cồng vàng trong truyền thuyết đối với một biểu 
tượng văn hóa độc nhất là chiếc cồng, một vật có 
giá trị tập hợp cố kết cộng đồng, cũng vừa là một 
sản phẩm của văn hóa tinh thần, nhất là khi mỗi 
dịp những lễ hội truyền thống về những chiếc 
cồng lại vang lên trong từng phum, sóc Khmer. 
Chính tiếng cồng vang lên đó đã nhắc nhở cháu 
con Khmer về tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ 
lẫn nhau và trên hết là tinh thần yêu lao động, 
làm ra của cải vật chất như mong ước của tất cả 
người dân Khmer không chỉ ở Sóc Trăng mà các 
tỉnh khác đến đây cũng vậy. 
Ngoài ra, đến với lễ hội này, chúng ta còn 
thấy hình thức xin xăm, xin quẻ mang tính chất 
mê tín dị đoạn. Ngay bên trong phía sau ngôi 
miếu thờ ông Thek Côn là ngôi miếu nhỏ theo tín 
ngưỡng của người Hoa có cả sách giải từng quẻ 
một. Đây có thể coi là một hình thức dung hợp 
tín ngưỡng của người Khmer, Việt, Hoa trong 
cùng địa bàn cư trú. Qua đây, chúng ta cũng thấy 
được mong ước cầu may mắn trong đời sống của 
người Khmer bên cạnh việc cầu an được toát lên 
từ ý nghĩa của lễ hội này. 
Theo quan sát, hằng năm vào các ngày chính 
của lễ hội số khách thập phương có thể lên đến 
chục nghìn người từ các tỉnh bạn lân cận đổ về 
để nghe tiếng ông Côn nhắc nhở, cầu nguyện và 
mang về ít lộc để có thêm động lực làm ăn trong 
năm tới. 
3. Thay lời kết luận
Như vậy, lễ hội Thek Côn là một trường hợp 
rất đặc biệt của lễ hội cầu an của người Khmer 
Sóc Trăng nói riêng và Nam bộ nói chung. Thời 
gian diễn ra lễ hội này sau tết mừng năm mới 
- Chol Chnam Thmây không bao lâu nhưng lại 
mang ý nghĩa cầu an rõ nét. Trong khi đó, lễ hội 
cầu an theo thông lệ lại được tổ chức phải trước 
tết mừng năm mới truyền thống của họ. Với đặc 
điểm này, lễ hội Thek Côn – cúng Salathoađôn 
đã bổ sung thêm một hình thức cúng cầu an 
trong hệ thống lễ hội của người Khmer Nam bộ.
Lễ hội Thek Côn từ vị trí là một lễ hội có tính 
địa phương đã nâng lên thành lễ hội cấp vùng 
khi ngày càng có nhiều khách thập phương đến 
tham dự. Giá trị đó ngày càng được khẳng định 
khi văn hóa Khmer vẫn gìn giữ trang nghiêm 
trong ngôi miếu thờ ông Côn ở làng An Trạch, 
như mỗi người dân Khmer mỗi năm lại tổ chức 
71
Soá 10, thaùng 9/2013 71
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên
lễ cầu an cầu cho mưa thuận, gió hòa, làm ăn thuận 
lợi, như niềm tin của họ đã gửi gắm tuyệt đối vào 
ông Thek Côn hàng trăm năm nay.
Hướng tới để phát huy và giữ gìn những giá trị 
cao đẹp của lễ hội này, các cấp chính quyền, nhất là 
các ngành văn hóa cần có chủ trương, biện pháp để 
không chỉ phát huy mà còn nâng cấp lễ hội này 
lên thành lễ hội cấp vùng như tiềm năng vốn có 
của nó. Theo đó, dần loại bỏ những biểu hiện xin 
xăm, bói toán có tính chất mê tín dị đoan và đề 
cao những nghi thức thể hiện rõ tính nhân văn 
của lễ hội này.
Tài liệu tham khảo
Chu Xuân Diên (chủ biên). 2002. Văn học dân gian Sóc Trăng. NXB.TP HCM.
Đặng Vũ Thị Thảo.1993. Lễ hội của người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. (Về văn hóa của 
đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long). NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội.
Huỳnh Ngọc Trảng.1993.Văn học Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tài liệu về văn hóa của 
đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội.
Huỳnh Lứa. 1987. Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ. NXB.TP HCM.
Lê Hương. 1969. Người Việt gốc Miên. Nhà sách Khai Trí. Sài Gòn. 
Nguyễn Xuân Nghĩa.1987. Lễ hội Nông nghiệp cổ truyền của người Khmer vùng Đồng bằng sông 
Cửu Long. Tạp chí văn học dân gian số 04. 
Phan An, Nguyễn Xuân Nghĩa. 1984. Dân tộc Khmer trong các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh 
phía Nam). NXB Khoa học xã hội. Hà Nội.
Sơn Phước Hoan (chủ biên). 1998. Lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ. NXB Giáo 
dục. Hà Nội. 
Tài liệu phỏng vấn cụ Thao Tô Dê (chủ lễ Thek Côn) ngày 22 tháng 4 năm 2013.
Trường Lưu.1993. Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Lời nói đầu). Nxb Văn 
hóa Đông Tây, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_le_hoi_thek_con_dap_cong_cua_nguoi_khmer_soc_trang.pdf