Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế

TÓM TẮT: Trong khi các nước trong khu vực và các nước phương Tây đã có nhiều thập

kỷ phát triển kinh tế và du lịch theo hướng chuyên nghiệp và cạnh tranh thì du lịch Việt

Nam mới bắt đầu bước vào kinh tế thị trường (tức cạnh tranh kinh tế). Cho dù là mới chập

chững bước vào kinh tế thị trường nhưng có thể thấy từ khi Đổi mới (1986) và hội nhập, du

lịch Việt Nam đang từng bước phát triển đáng khích lệ. Ngành Du lịch ngày càng đóng

góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát

huy giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,. Bước vào thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế ngày càng sâu rộng, du lịch Việt Nam càng cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết với

các nước trong khu vực và quốc tế. Có thể thấy, năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam

là một vấn đề mang tính chiến lược quyết định sự phát triển của du lịch Việt Nam. Trong

bài viết này, chúng tôi bàn đến vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam

thời kỳ hội nhập quốc tế.

pdf 14 trang yennguyen 2480
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế

Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
20 
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH 
CỦA DU LỊCH VIỆT NAM THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 
ENHANCING THE COMPETITIVE CAPACITY OF VIETNAMESE TOURISM 
IN THE INTERNATIONAL INTEGRATION PERIOD 
PHAN HUY XU
 và VÕ VĂN THÀNH 
 PGS.TS.GVCC. Trường Đại học Văn Lang, Email: xuphanhuy@gmail.com 
 ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Email: 
vonhanchi@gmail.com. 
TÓM TẮT: Trong khi các nước trong khu vực và các nước phương Tây đã có nhiều thập 
kỷ phát triển kinh tế và du lịch theo hướng chuyên nghiệp và cạnh tranh thì du lịch Việt 
Nam mới bắt đầu bước vào kinh tế thị trường (tức cạnh tranh kinh tế). Cho dù là mới chập 
chững bước vào kinh tế thị trường nhưng có thể thấy từ khi Đổi mới (1986) và hội nhập, du 
lịch Việt Nam đang từng bước phát triển đáng khích lệ. Ngành Du lịch ngày càng đóng 
góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát 
huy giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,... Bước vào thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập 
quốc tế ngày càng sâu rộng, du lịch Việt Nam càng cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết với 
các nước trong khu vực và quốc tế. Có thể thấy, năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam 
là một vấn đề mang tính chiến lược quyết định sự phát triển của du lịch Việt Nam. Trong 
bài viết này, chúng tôi bàn đến vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam 
thời kỳ hội nhập quốc tế. 
Từ khóa: năng lực cạnh tranh, thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, ngành kinh tế mũi 
nhọn. 
ABSTRACTS: While many Regional and Western countries have had decades of economic 
and tourism development in the direction of professionalism and competition, Vietnam's 
tourism has just started to enter the market economy (can understand as competitive 
economy). Although it is a first step entering to the market economy, it can be seen that 
since Innovation period (1986) and international integration, Vietnam tourism has been 
gradually significant developing. Tourism is increasingly contributing to economic growth, 
job creation, poverty reduction, promoting Vietnam traditional cultural values , etc... In 
the era of globalization and international integration, Vietnam tourism industry faces more 
challenges and competition with other countries in the region and in the world. It can be 
seen that the competitiveness of Vietnam tourism is a strategic issue that determines the 
development of tourism in Vietnam. In this article, we discuss the enhancement of 
competitiveness of Vietnam tourism in the period of international integration. 
Key words: competitiveness, globalization period, international integration, spearhead 
economy sector. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 06/2017 
21 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Với nhận thức mới: “Du lịch là ngành 
kinh tế dịch vụ mang nội dung văn hóa sâu 
sắc, có tính tổng hợp liên ngành, liên vùng 
và xã hội hóa cao. Phát triển du lịch liên 
quan và phụ thuộc vào tất cả các ngành, 
lĩnh vực đời sống xã hội” [5]. Liên tục các 
kỳ Đại hội Đảng đã xác định phát triển du 
lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn như 
Đại hội Đảng lần thứ IX (2001): “Phát 
triển nhanh du lịch thật sự trở thành ngành 
kinh tế mũi nhọn,...”. Đại hội Đảng lần thứ 
X (2006): “Phát triển du lịch, một ngành 
kinh tế mũi nhọn, Việt Nam được xếp vào 
nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển 
trong khu vực,...”. Đại hội Đảng lần thứ XI 
(2011): “Tập trung phát triển một số ngành 
dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và 
công nghệ cao như du lịch, hàng hải,... 
Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du 
lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Đa dạng 
hóa sản phẩm và loại hình du lịch, nâng 
cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế. 
Du lịch đóng góp ngày càng nhiều cho 
GDP quốc gia”. Đại hội Đảng lần thứ XII 
(2016): “Có chính sách phát triển du lịch 
thành ngành kinh tế mũi nhọn,...”. Bộ 
Chính trị đã cụ thể hóa quyết tâm phát triển 
du lịch trở thành ngành “kinh tế mũi nhọn” 
bằng Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 
16/01/2017 và mục tiêu nâng tầm du lịch 
Việt Nam trong khu vực và thế giới. Ngành 
Du lịch Việt Nam đã và đang chịu sự cạnh 
tranh gay gắt với các nước láng giềng có 
kinh nghiệm. Trong bài viết này, chúng tôi 
bàn đến nâng cao năng lực cạnh tranh của 
du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế 
với với mong muốn du lịch Việt Nam phát 
triển xứng tầm với tiềm năng, tiềm lực vốn 
có và thực sự trở thành ngành kinh tế mũi 
nhọn. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Một số khái niệm liên quan 
Cạnh tranh (kinh tế) là sự ganh đua 
giữa các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, 
thương nhân) nhằm dành những vị thế, tạo 
nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu 
thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay 
thương mại để thu được nhiều lợi ích nhất 
cho mình. Cạnh tranh còn xảy ra giữa các 
doanh nghiệp trong nước với ngoài nước, 
nhà sản xuất muốn buôn bán dịch vụ giá 
cao, người tiêu dùng muốn mua được sản 
phẩm với giá thấp. Cạnh tranh của một 
doanh nghiệp là chiến lược của một doanh 
nghiệp với các đối thủ cùng một ngành. 
Thuật ngữ cạnh tranh (tự do) do nhà kinh 
tế học Adam Smith đề xuất từ lâu. Về sau, 
thuật ngữ này được sử dụng ở nhiều lĩnh 
vực khác như: chính trị, pháp luật, quân sự, 
sinh thái,... Ngoài ra, cạnh tranh có thể 
được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. 
Từ góc độ kinh tế, pháp lý, cạnh tranh được 
hiểu là một sự chạy đua (ganh đua) giữa 
các thành viên cùng một thị trường nhằm 
mục đích lôi kéo khách hàng và gia tăng thị 
phần của một thị trường hàng hóa, dịch vụ 
cụ thể [11]. Theo nhà kinh tế học Michael 
E. Porter, cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy 
thị phần và bản chất của cạnh tranh là tìm 
kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn 
mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp 
đang có. Ngoài ra, cạnh tranh còn là tiền đề 
của hệ thống free-interprise vì càng nhiều 
doanh nghiệp cạnh tranh nhau thì sản phẩm 
hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng càng 
có chất lượng tốt hơn. Tóm lại, cạnh tranh 
sẽ mang đến cho khách hàng sự lựa chọn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
22 
tối ưu, xứng đáng với đồng tiền và công 
sức của họ. 
Có một số loại cạnh tranh cần tìm hiểu 
như: Cạnh tranh lành mạnh là loại cạnh 
tranh đúng quy định pháp luật, đạo đức xã 
hội, đạo đức kinh doanh, là cạnh tranh dựa 
vào năng lực chính mình (nội lực) không 
dùng “thủ đoạn” triệt hạ đối thủ. Phương 
châm của cạnh tranh lành mạnh là “không 
cần phải thổi tắt ngọn nến của người khác 
để mình tỏa sáng”. Làm sao các doanh 
nghiệp đều thành công (sự cộng sinh hai 
bên), tất cả cùng thắng. Cạnh tranh không 
lành mạnh là sự cạnh tranh khốc liệt “thị 
trường là chiến trường”, các đối thủ cạnh 
tranh có thể sử dụng thủ đoạn để triệt hạ 
nhau (trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, 
đạo đức kinh doanh) và sẽ cùng thua. Nhà 
văn Gore Vidal viết: “Chỉ thành công thôi 
chưa đủ. Phải làm cho kẻ khác thất bại 
nữa” là một khía cạnh của cạnh tranh 
không lành mạnh. Cạnh tranh tự do hay 
cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh theo các 
quy luật thị trường ít chịu sự can thiệp của 
các chủ thể khác. Giá cả của sản phẩm 
được quyết định bởi quy luật cung - cầu 
của thị trường. Cạnh tranh có nhiều mặt 
tích cực nhưng nó cũng mang lại sự thay 
đổi cấu trúc xã hội, phân hóa giàu nghèo rất 
mạnh, đặc biệt là cạnh tranh không lành 
mạnh (có những thủ đoạn vi phạm pháp 
luật) chính vì vậy cạnh tranh (kinh tế) bao 
giờ cũng được điều chỉnh bởi các định chế 
xã hội, sự can thiệp của nhà nước. 
Bản chất của cạnh tranh là tăng thị 
phần của mình trên thị trường và tìm kiếm 
lợi nhuận tối đa. Cạnh tranh buộc con 
người phải năng động, nhạy bén, nắm bắt 
tốt nhu cầu người tiêu dùng, tích cực nâng 
cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng tiến 
bộ khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, 
nâng cao sản xuất, chất lượng, hiệu quả 
kinh tế là những mặt tích cực của nó. Nếu 
thiếu cạnh tranh sẽ sinh ra tình trạng độc 
quyền, trì trệ, kém phát triển. Trong bài viết 
này, chúng tôi đề cập đến tính cạnh tranh 
của du lịch Việt Nam trong thời kỳ hội 
nhập buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải 
cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoài 
nước (trong và ngoài khối ASEAN) như 
một điểm đến. Thế nhưng, muốn có cạnh 
tranh thì cần phải có điều kiện nhất định. 
Một trong những điều kiện tiên quyết của 
cạnh tranh là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế 
cạnh tranh có liên quan đến những giá trị 
đặc thù có thể sử dụng để “nắm bắt cơ hội”, 
kinh doanh có lãi. Lợi thế cạnh tranh là nói 
đến một doanh nghiệp hay một quốc gia 
đang có và có thể có, so với các đối thủ 
cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là một khái 
niệm vừa có tính vi mô (doanh nghiệp) vừa 
có tính vĩ mô (cấp quốc gia). Muốn có 
được lợi thế cạnh tranh lâu dài (tính bền 
vững), doanh nghiệp phải liên tục cung cấp 
cho thị trường một giá trị đặc biệt mà 
không có đối thủ cạnh tranh nào có thể 
cung cấp. 
Mục tiêu của cạnh tranh nhằm chiếm 
được sự chấp thuận và lòng trung thành của 
khách hàng. Trong xã hội, mỗi con người, 
xét về tổng thể, vừa là người sản xuất vừa 
là người tiêu dùng, do vậy, cạnh tranh 
thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho mọi 
người, cho cộng đồng xã hội. 
Tính tất yếu của cạnh tranh: Cạnh 
tranh như là một xu thế tất yếu trong quy 
luật kinh tế thị trường với cấp độ vi mô 
(giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp), cấp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 06/2017 
23 
độ vĩ mô (giữa quốc gia với quốc gia). 
Theo nhà kinh tế người Mỹ Paul A. 
London: “Cần buộc ai không muốn cũng 
phải cạnh tranh”. Ngoài ra, cạnh tranh còn 
có vai trò quan trọng trong nền sản xuất 
hàng hóa nói riêng, trong nền kinh tế thị 
trường nói chung, đó là động lực thúc đẩy 
sản xuất và phát triển kinh tế. Chính vì thế, 
Chính phủ Việt Nam khuyến khích nền 
kinh tế thị trường phát triển (theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa). 
Năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh 
tranh của một doanh nghiệp là sự thể hiện 
thực lực và lợi thế của mình so với đối thủ 
cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các 
đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận 
ngày càng cao bằng việc sử dụng thực lực 
và lợi thế bên trong và bên ngoài nhằm tạo 
ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người 
tiêu dùng với mục tiêu tồn tại và phát triển, 
thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải 
thiện vị trí so với các đối thủ cạnh tranh 
trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của 
doanh nghiệp được tạo ra từ thực lực của 
doanh nghiệp và là các yếu tố của doanh 
nghiệp. Năng lực cạnh tranh không chỉ 
được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, 
tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh 
nghiệp, mà năng lực cạnh tranh của 
doanh nghiệp còn gắn liền với ưu thế của 
sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị 
trường. Năng lực cạnh tranh của doanh 
nghiệp gắn với thị phần mà nó nắm giữ và 
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Năng lực 
cạnh tranh còn có thể được hiểu là khả 
năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được 
một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi 
nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng sản 
phẩm đồng thời khai thác các cơ hội trên 
thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị 
trường mới (thị trường tiềm năng). Năng 
lực cạnh tranh cũng đồng nghĩa với sức 
cạnh tranh. Về sức cạnh tranh chính là lợi 
thế và nội lực ở cấp quốc gia (tầm vĩ mô) 
hoặc cấp doanh nghiệp (ở tầm vi mô). 
Hội nhập quốc tế: chính thức được nêu 
trong văn kiện Đại hội VIII (phần Định 
hướng mở rộng kinh tế đối ngoại) và đến 
Đại hội IX, trở thành chủ trương đối ngoại 
quan trọng của Việt Nam. Hội nhập quốc tế 
là một xu hướng tất yếu mà các quốc gia 
đều phải tham gia “để khỏi bị gạt ra ngoài 
lề của sự phát triển, và tăng cường sức 
mạnh cạnh tranh kinh tế” [1]. Theo Thứ 
trưởng Bộ ngoại giao Đặng Đình Quý: 
“Hội nhập quốc tế là hình thức phát triển 
cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ 
động chấp nhận, áp dụng và tham gia xây 
dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế 
nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân 
tộc” [2]. Năm 2006, Việt Nam chính thức 
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức 
Thương mại thế giới (WTO), trong đó Việt 
Nam chỉ cam kết đối với các phân ngành 
dịch vụ đại lý và kinh doanh lữ hành dịch 
vụ. Ngày cuối cùng của năm 2015 đánh dấu 
sự hội nhập sâu hơn của kinh tế Việt Nam 
vào Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC: 
ASEAN Economic Community). Theo các 
nguyên tắc thỏa thuận với các nước thuộc 
AEC, có 8 ngành nghề được luân chuyển 
trong khối ASEAN, trong đó có các nghề 
thuộc ngành du lịch. 
2.2. Tình hình cạnh tranh của du lịch 
Việt Nam trong khu vực và quốc tế 
2.2.1. Nhận thức về năng lực cạnh tranh 
của du lịch Việt Nam 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
24 
Cạnh tranh trong du lịch Việt Nam còn 
nhiều mới mẻ (về lợi thế và nội lực), nổi 
bật là vấn đề với các nhóm đối tượng tham 
gia vào hoạt động du lịch: nhà cung ứng 
dịch vụ du lịch (doanh nghiệp du lịch), 
cộng đồng dân cư, quản lý nhà nước, nguồn 
nhân lực cũng như là những điều kiện cần 
thiết để cạnh tranh du lịch. 
Về phía các doanh nghiệp du lịch: 
Nhiều doanh nghiệp du lịch Việt Nam chưa 
hiểu sâu, chưa có khái niệm cạnh tranh du 
lịch và phát triển, nâng tầm chính mình 
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Nhiều 
doanh nghiệp còn làm du lịch theo kiểu “ăn 
xổi, ở thì”, không quan tâm đến lợi ích lâu 
dài (tính bền vững) hoặc chưa thực sự tham 
gia vào phát triển du lịch bền vững. Chưa 
có kinh nghiệm về cạnh tranh để phát triển 
du lịch, đứng ngoài cuộc trong cạnh tranh 
du lịch và chưa thể tham gia vào chuỗi giá 
trị toàn cầu,... đây là một trong số những 
thực trạng đáng lo ngại của các doanh 
nghiệp du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, đã có 
một số doanh nghiệp bước đầu nhận thức 
được hội nhập quốc tế nhưng vẫn chưa tìm 
ra giải pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực 
cạnh tranh. 
Về con người (nguồn nhân lực) ngành 
du lịch: Đào tạo du lịch còn yếu nhiều mặt 
như kiến thức, kỹ năng, thái độ, ngoại ngữ 
(qua số nhân viên trình độ đại học, cao 
đẳng, trung cấp nghề). Chưa đủ sức cạnh 
tranh về nguồn nhân lực du lịch trong 
ASEAN là nhận định của một số chuyên 
gia du lịch Việt Nam [6]. Năm 2016, Thái 
Lan có dân số khoảng 65 triệu người nhưng 
đã đón tiếp trên 30 triệu lượt khách du lịch 
quốc tế đến thăm. Trong khi dân số lên đến 
92 triệu người, nhưng Việt Nam mới đón 
được hơn 10 triệu lượt khách du lịch quốc 
tế. Các trường đào tạo nhân lực du lịch 
chưa xác lập được chương trình (về lý 
thuyết, thực hành, thực tập) ngang tầm với 
thời kỳ hội nhập quốc tế. Bộ tiêu chuẩn 
nghề Du lịch (VTOS: Vietnam Tourism 
Occupational Standards) được các trường 
đào tạo du lịch triển khai khá chậm. Theo 
kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực du 
lịch của các nước EU (Liên minh Châu Âu) 
cơ cấu theo trình độ đào tạo của nguồn 
nhân lực ngành Du lịch Việt Nam đang mất 
cân đối vì tỷ lệ “thầy/thợ” hiện nay là 1:3, 
trong khi đó tỷ hệ hợp lý phải là 1:6. Cơ 
cấu nguồn nhân lực theo trình độ đào tạo 
được xác định theo tỷ lệ: Lao động quản lý 
ngành là 5%, được đào tạo ở các trường đại 
học. Lao động kỹ thuật và giám sát là 10%, 
được đào tạo ở các trường cao đẳng và các 
khoa chuyên ngành khách sạn và du lịch  ... ên kết, phối hợp đồng bộ 
của tất cả các bên có liên quan để phát triển 
hiệu quả và bền vững; 
Thống nhất và tăng cường hiệu lực 
quản lý nhà nước đối với du lịch, thường 
xuyên kiểm tra các hoạt động của doanh 
nghiệp du lịch; 
Mở rộng sự tham gia của các thành 
phần kinh tế vào lĩnh vực du lịch; 
Đơn giản hóa thủ tục về du lịch (Chính 
phủ đang thí điểm áp dụng thủ tục xuất 
nhập cảnh đơn giản cho khách du lịch) hay 
“Mở cửa bầu trời” cho ngành Du lịch “cất 
cánh”. Đối với các doanh nghiệp du lịch 
vừa và nhỏ, cần tạo điều kiện thuận lợi, 
không gây khó khăn. 
Hướng đến mục tiêu phát triển du lịch 
bền vững. Chúng ta biết rằng hiện nay, các 
tổ chức thế giới như IMF, WB, UNDP, 
WEP, đều có mục tiêu phát triển kinh tế 
bền vững và các quốc gia đều xây dựng 
riêng cho mình chiến lược phát triển kinh tế 
bền vững. 
Phối hợp hoạt động du lịch với các 
ngành kinh tế khác vì “Du lịch là ngành 
kinh tế dịch vụ mang nội dung văn hóa sâu 
sắc, có tính tổng hợp liên ngành, liên vùng 
và xã hội hóa cao. Phát triển du lịch liên 
quan và phụ thuộc vào tất cả các ngành, 
lĩnh vực đời sống xã hội” [5]; 
Cải thiện cơ sở hạ tầng du lịch, hệ 
thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; 
Chiến lược xây dựng phát triển thương 
hiệu du lịch. Chẳng hạn, trước đây, Việt 
Nam tích cực quảng bá cho điểm đến quốc 
gia với slogan: “Việt Nam - Vẻ đẹp tiềm 
ẩn” (Vietnam - The hidden charm). 
Ứng dụng công nghệ thông tin trong 
quản lý du lịch. Chính sách thuận lợi hỗ trợ 
cho ngành du lịch phát triển. Ví dụ, Chính 
phủ đồng ý sẽ tiếp tục áp dụng chính sách 
miễn thị thực cho công dân 5 nước châu 
Âu: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Italia 
đã gỡ bỏ tâm lý lo lắng, lúng túng của hàng 
loạt doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong 
nước. Thống kê của Tổng cục Du lịch cho 
thấy lợi ích kinh tế tổng thể của chính sách 
miễn visa cho khách quốc tế từ 5 nước trên 
là không thể phủ nhận. 
Luật Du lịch (sửa đổi) đã được Quốc 
hội khóa XIV chính thức thông qua và sẽ 
có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, với nhiều 
nội dung mới mang tính đột phá, tính pháp 
lý hết sức quan trọng để du lịch Việt Nam 
phát triển bền vững và nâng cao năng lực 
cạnh tranh trong giai đoạn mới. 
2) Đối với các doanh nghiệp du lịch: 
Đổi mới tư duy về kinh doanh du lịch 
trong thời kỳ hội nhập quốc tế, phải xem 
kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế 
nước ta; 
Xây dựng và thực hiện chiến lược, kế 
hoạch kinh doanh ngắn hạn, trung hạn và 
dài hạn bám sát quan điểm, mục tiêu, định 
hướng chiến lược phát triển du lịch quốc 
gia, chiến lược chuyên biệt hóa sản phẩm 
theo vùng miền; 
Phát huy tính năng động, tự chủ để chủ 
động đột phá thực hiện những mô hình tổ 
chức kinh doanh mới; 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
30 
Mở rộng quy mô phù hợp và thích ứng 
với các chiến lược phát triển du lịch quốc 
gia. Doanh nghiệp cần đầu tư R&D, tiến tới 
thực hiện kinh tế số, xây dựng du lịch 
thông minh và Cách mạng công nghệ 4.0; 
Ứng dụng công nghệ thông tin là giải 
pháp hữu hiệu để phục vụ 4 đối tượng: Du 
khách – Điểm đến – Doanh nghiệp – Cơ 
quan quản lý Nhà nước và các cấp. 
Chủ động tham gia hoạt động trong 
khuôn khổ tổ chức phát triển du lịch vùng 
và các hội nghề nghiệp du lịch; 
 Học tập kinh nghiệm nâng cao năng 
lực cạnh tranh du lịch ở các nước tiên tiến; 
Các doanh nghiệp du lịch trong nước cần 
liên kết với nhau và liên kết với doanh 
nghiệp FDI để tham gia vào chuỗi giá trị 
thế giới và khu vực. 
Ngoài ra, cần chú ý các giải pháp về 
nguồn lực vì nguồn lực chính là chìa khóa 
thành công của kinh doanh, khai thác tài 
nguyên du lịch để biến thành sản phẩm du 
lịch. Nguồn nhân lực du lịch được xây dựng 
trên cơ sở nhu cầu phát triển du lịch (nhu 
cầu của doanh nghiệp, nhu cầu của quốc 
gia). Xây dựng lực lượng lao động trong 
lĩnh vực du lịch đáp ứng yêu cầu về chất 
lượng; Hợp pháp về cơ cấu ngành nghề, 
trình độ đào tạo để đảm bảo tính chuyên 
nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội nhập quốc 
tế; Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo 
chuyên môn hóa trong lĩnh vực du lịch 
mạnh, từng bước chuẩn hóa nhân lực du lịch 
để hợp chuẩn với khu vực và quốc tế. 
3) Về cộng đồng dân cư tại các điểm 
đến: Cộng đồng dân cư tại các điểm đến 
trước đây thường bị lãng quên trong các dự 
án phát triển du lịch. Chính vì vậy, trong 
thời gian qua, cộng đồng địa phương tại các 
điểm đến là điều trăn trở đối với các 
chuyên gia du lịch. Nâng cao nhận thức về 
du lịch cho cộng đồng địa phương như một 
yếu tố then chốt để phát triển du lịch bền 
vững trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập 
quốc tế. Chẳng hạn, ý kiến của bà Bộ 
trưởng Bộ Du lịch và Thể thao Thái Lan 
phát biểu tại Hội nghị Tiểu vùng sông 
Mekong mở rộng tại Thái Lan 2014: “Du 
lịch là sự kết nối giữa con tim với con tim, 
làm du lịch không bao giờ thành công nếu 
chỉ có đào tạo đội ngũ nhân viên du lịch 
chuyên nghiệp mà quan trọng hơn là người 
dân địa phương phải có cái tâm của một 
người chủ hiếu khách”. Song song đó là 
văn hóa du lịch, chú trọng khía cạnh ứng 
xử với du khách với những nét chung và cơ 
bản là: Thân thiện - hiếu khách; trung thực 
- đàng hoàng; tôn trọng - tự trọng; tình cảm 
(du lịch là từ con tim đến con tim) - hữu 
nghị. Thường xuyên giáo dục, tập huấn đối 
với cộng đồng dân cư để nâng cao vai trò 
của họ trong du lịch tại cộng đồng, nơi du 
khách đến thăm. 
Trong công trình Bàn về văn hóa du 
lịch Việt Nam (2016), chúng tôi dành 
trọn chương 4 đề cập đến các giải pháp 
nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch 
Việt Nam. Những giải pháp cụ thể như: 
“Tăng cường quảng bá du lịch Việt Nam 
ra thế giới; tăng cường liên kết giữa nhà 
nước, nhà trường, nhà khoa học và nhà 
doanh nghiệp; đa dạng hóa sản phẩm du 
lịch và xây dựng thương hiệu du lịch Việt 
Nam mang tầm cỡ quốc tế; tăng cường 
đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất 
lượng cao nhằm đáp ứng cho thị trường 
du lịch cao cấp; liên kết vùng; tăng 
cường trao đổi kinh nghiệm phát triển du 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 06/2017 
31 
lịch; đặt mục tiêu phát triển du lịch bền 
vững; du lịch có trách nhiệm”. Suy cho 
cùng, muốn có chất lượng du lịch, cần 
phải có chất lượng vật chất du lịch, đồng 
thời với chất lượng dịch vụ du lịch và 
chất lượng văn hóa du lịch [7]. 
Phát triển du lịch nhanh và bền vững, 
thu hẹp dần khoảng cách với những quốc 
gia có ngành du lịch phát triển trong bối 
cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện là 
yêu cầu cấp bách đặt ra cho ngành du lịch 
Việt Nam. Do đó, việc xác định các yếu tố 
cốt lõi năng lực cạnh tranh làm cơ sở để 
hoạch định chiến lược phát triển du lịch và 
nâng cao vị thế cạnh tranh của ngành du 
lịch là việc làm cần thiết [11]. Ngoài những 
giải pháp nêu trên, chúng tôi đưa vào bài 
viết quan điểm của ông Đoàn Mạnh Cương 
(Vụ Đào tạo, Bộ văn hóa, Thể thao và Du 
lịch) trong bài “Phát triển du lịch bền vững 
ở Việt Nam trong sự cạnh tranh với các 
nước trong khu vực ASEAN”. Tác giả đã 
phân tích khá kỹ năng lực cạnh tranh của 
du lịch Việt Nam trong khu vực ASEAN 
(phần II), đặc biệt tác giả thực hiện so sánh 
du lịch Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh 
và đánh giá năng lực cạnh tranh của du lịch 
Việt Nam theo phân tích SWOT (phần II) 
[tr.138 - 140]. Tác giả rút ra kết luận đáng 
cho chúng ta suy nghĩ: “So với các đối thủ 
cạnh tranh chính trong khu vực, năng lực 
cạnh tranh của du lịch Việt Nam xét về hầu 
hết các chỉ số đều thấp hơn so với Thái Lan, 
Malaysia, Singapore và Trung Quốc, trong 
đó có những chỉ số còn xa mới đuổi kịp 
được các nước này như kết cấu hạ tầng, hệ 
thống chính sách, luật pháp về du lịch. So 
với Indonesia và Philippines, nhiều chỉ số 
năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam 
vẫn thấp hơn các nước này như kết cấu hạ 
tầng đường không, kết cấu hạ tầng du lịch, 
ưu tiên du lịch, sức thu hút du lịch, nguồn 
nhân lực du lịch, nguồn lực văn hóa. Tuy 
nhiên, Việt Nam có nhiều chỉ số năng lực 
cạnh tranh cao hơn Indonesia và 
Philippines như kết cấu hạ tầng bưu chính 
viễn thông, kết cấu hạ tầng mặt đất, an toàn 
và an ninh. Năng lực cạnh tranh của du lịch 
Việt Nam về cơ bản chỉ hơn Campuchia, 
Lào và Myanmar. Tuy nhiên, Campuchia có 
thể vượt Việt Nam về năng lực cạnh tranh 
đến trong thời gian tới vì chính phủ nước 
này đặc biệt quan tâm phát triển du lịch, coi 
đây là hướng chiến lược trong phát triển 
kinh tế của quốc gia này. Vì vậy, đòi hỏi 
ngành Du lịch Việt Nam phải sớm có chiến 
lược và biện pháp đồng bộ nâng cao năng 
lực cạnh tranh đối với từng đối thủ cạnh 
tranh để duy trì vị thế cạnh tranh trên thị 
trường thế giới và khu vực” [3]. 
Tóm lại, để nâng cao năng lực cạnh 
tranh, các doanh nghiệp du lịch Việt Nam 
cần: xây dựng chiến lược kinh doanh, nâng 
cao trình độ khoa học công nghệ, xây dựng 
sản phẩm và dịch vụ du lịch có chất lượng, 
nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi 
phí sản xuất và quản lý, gia tăng đầu tư 
thương hiệu du lịch. 
3. KẾT LUẬN 
Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam 
hiện nay chủ yếu là vừa và nhỏ, do đó, cần 
liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh 
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Cần phải 
xóa bỏ định kiến về kinh tế tư nhân và tạo 
điều kiện cho nó phát triển (lẽ dĩ nhiên Nhà 
nước cần quản lý tốt để kinh tế tư nhân 
phát triển đúng hướng, phát triển bền 
vững). “Hội nhập du lịch là một xu thế tất 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
32 
yếu trong quá trình phát triển các điểm đến 
và phát triển du lịch Việt Nam hiện nay với 
tư cách là một điểm đến trên bản đồ du lịch 
khu vực và thế giới cũng không phải là 
ngoại lệ” [6]. Biểu hiện cụ thể là Thỏa 
thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch 
của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (Mutual 
Recognition Arrangement on Tourism 
Professionals, viết tắt là MRA-TP) chính 
thức có hiệu lực đã đặt ra thách thức mới 
cho ngành Du lịch Việt Nam trong một môi 
trường cạnh tranh về du lịch gay gắt hơn 
bao giờ hết. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế 
cũng mang lại nhiều lợi ích cho du lịch 
Việt Nam như: hình ảnh du lịch quốc gia 
ngày càng được nâng cao, tận dụng được 
những kinh nghiệm, lợi thế của người đi 
sau,... 
Có một số ý kiến cho rằng, sản phẩm 
du lịch Đông Nam Á gần giống nhau nên 
du lịch Việt Nam khó cạnh tranh. Nếu quan 
niệm như vậy thì tại sao 27 nước thuộc 
Liên minh châu Âu vẫn có sản phẩm du 
lịch có tính cạnh tranh mạnh mẽ. Vấn đề ở 
chỗ, chúng ta phải sáng tạo, tìm ra nét độc 
đáo có tính bản sắc văn hóa dân tộc, vùng 
miền trong sản phẩm du lịch. 
Encyclopedia of Tourism (Bách khoa 
toàn thư về Du lịch) do tập thể 352 nhà 
nghiên cứu và học giả về Du lịch học thuộc 
51 quốc gia khác nhau trên thế giới, trong đó, 
học giả Jafar Jafari, giáo sư chuyên ngành Du 
lịch thuộc Trường Đại học Wisconsin-Stout, 
Hoa Kỳ, làm Tổng biên tập với sự giúp sức 
của 24 biên tập viên chuyên ngành Du lịch 
thuộc các quốc gia có ngành công nghiệp du 
lịch nổi tiếng trên thế giới như Hoa Kỳ, 
Canada, Úc, Anh, Ai Cập, Pháp, Tây Ban 
Nha,... Có thể nói, đây là một công trình đồ 
sộ như tên gọi của nó là Bách khoa toàn thư 
về Du lịch được xuất bản năm 2000 tại New 
York, chúng tôi đã rà soát và không thấy 
nhắc đến Việt Nam với tư cách là một điểm 
đến. Qua thời gian, với hệ thống di sản văn 
hóa và thiên nhiên mang tầm cỡ thế giới 
của Việt Nam được UNESCO công nhận 
ngày càng phong phú. Nhiều điểm du lịch 
được các tổ chức uy tín bình chọn là địa chỉ 
yêu thích của đông đảo du khách quốc tế là 
kết quả hội nhập và nâng tầm hình ảnh 
Việt Nam với tư cách là một điểm đến. Có 
thể kể đến những hình ảnh du lịch Việt 
Nam trong mắt bạn bè quốc tế như như 
Vịnh Hạ Long (được trang web BuzzFeed 
bình chọn là 1/25 địa danh có vẻ đẹp khó 
tin nhất trên thế giới). Hà Nội được 
TripAdvisor bình chọn là 1/10 thành phố 
thu hút khách du lịch hàng đầu trên thế giới 
năm 2014. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí 
Minh được Lonely Planet bình chọn là Top 
10 điểm đến “có giá trị” nhất 2016. Việt 
Nam được Tạp chí Du lịch Travel & 
Leisure bình chọn đứng thứ 6/20 điểm đến 
tốt nhất dựa trên độ an toàn và thân thiện 
của người dân dành cho khách du lịch lẻ. 
Hang Sơn Đoòng được Tạp chí Du lịch 
Business Insider bình chọn là 1/12 hang 
động ấn tượng nhất thế giới và Tạp chí 
National Geographic (phiên bản tiếng Nga) 
bình chọn là tour du lịch mạo hiểm đẳng 
cấp nhất thế giới của năm 2014. Tuyến du 
lịch trên sông Mekong (đoạn Việt Nam - 
Campuchia) được báo Telegraph xếp thứ 
4/5 tuyến du lịch trên sông hàng đầu châu 
Á, Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp lữ hành, 
khách sạn của Việt Nam cũng đã được các 
tổ chức, website tiêu dùng vinh danh do 
chất lượng dịch vụ xuất sắc của mình. Điều 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 06/2017 
33 
này cho thấy, chất lượng du lịch Việt Nam 
đang dần tốt lên, đi vào chiều sâu thay vì 
chiều rộng theo đúng định hướng trong 
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, 
“Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế 
mũi nhọn, du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng 
cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc 
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển 
du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện 
đại, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng 
phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất 
lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu 
và khả năng cạnh tranh” [8]. Năm APEC 
2017 tại Việt Nam, đã tổ chức hội nghị với 
chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh, 
sáng tạo của doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ 
và vừa trong kỷ nguyên toàn cầu hóa”. Đây 
là hướng đi đúng mà các doanh nghiệp du 
lịch Việt Nam cần tích cực thực hiện. 
Hy vọng trong thời gian sắp tới, năng 
lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam được 
nâng cao và ngày càng thu hẹp khoảng so 
với các nước có ngành du lịch phát triển 
trong khu vực và quốc tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Ngoại giao (1999), Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam, Nxb. Chính trị 
Quốc gia. 
2. Đặng Đình Quý (2012), Bàn thêm về khái niệm và nội hàm hội nhập quốc tế của Việt 
Nam trong giai đoạn mới, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 4 (91). 
3. Đoàn Mạnh Cương (2017), Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam trong sự cạnh tranh 
với các nước trong khu vực ASEAN, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
4. Hữu Thắng (2016), Ngành Du lịch Việt Nam trước thềm năm mới, 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết 92/NQ-CP về một số giải pháp đẩy mạnh 
phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới. 
6. Phạm Trung Lương (2015), Phát triển du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Nxb. 
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
7. Phan Huy Xu và Võ Văn Thành (2016), Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam, Nxb. Tổng 
hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 
8. Quyết định số 2473/QĐ-TTg (2011), Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 
2020, tầm nhìn đến năm 2030. 
9. T.P (2014), Nhìn nhận về sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam, 
 truy cập 20/8/2017. 
10. Trần Thị Minh Hòa (Chủ biên, 2015), Du lịch Việt Nam thời kỳ hội nhập, Nxb. Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
11. Trần Thị Thùy Trang (2017), Đo lường năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch, Tạp chí 
Du lịch online đăng ngày 17/5/2017. 
12.  
Ngày nhận bài: 12/09/2017. Ngày biên tập xong: 20/09/2017. Duyệt đăng: 18/10/2017 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_nang_luc_canh_tranh_cua_du_lich_viet_nam_thoi_ky_ho.pdf