Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ và biện pháp xử trí trong gây mê hồi sức phẫu thuật u màng não

TÓM TẮT Tác giả trình bày tiền cứu 64 trường hợp u màng não (UMN) được gây mê ở BV Nhân Dân 115 trong thời gian hai năm trong số 164 u não được mổ cùng thời gian, tập trung nhiều nhất vào lứa tuổi 41-60 (tuổi nhỏ nhất là 11 tuổi, lớn nhất là 74 tuổi), tỉ lệ nam nữ là ½. Có 3 trường hợp tử vong (4,6%) ở giai đọan hậu phẫu, nguyên nhân tử vong là phù não. Ba nhóm nguy cơ lớn trong gây mê hồi sức mổ UMN là: Hô hấp, tuần hòan và thần kinh. Hô hấp: tăng áp lực đường thở, gập, tắt, tụt ống nội khí quản là những nguy cơ thường gặp và nó có liên quan với tư thế mổ. Tuần hòan: chậm nhịp tim và tụt huyết áp (HA) là hai nguy cơ hay gặp trong giai đọan bóc u. Thần kinh: phù não là nguy cơ hay gặp, trong mổ nó làm cản trở thao tác của phẫu thuật viên và sau mổ nó là nguyên nhân tử vong. So với các lọai u não khác, u màng não có nhiều nguy cơ về gây mê hồi sức hơn như: thời gian gây mê kéo dài, mất máu nhiều, cần sử dụng nhiều phương tiện theo dõi xâm lấn (CVP, IP) trong mổ hơn và thời gian nằm hậu phẫu lâu hơn. Sau mổ cho bệnh nhân tiếp tục thở máy là biện pháp an tòan để kiểm sóat phù não

pdf 7 trang yennguyen 4020
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ và biện pháp xử trí trong gây mê hồi sức phẫu thuật u màng não", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ và biện pháp xử trí trong gây mê hồi sức phẫu thuật u màng não

Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ và biện pháp xử trí trong gây mê hồi sức phẫu thuật u màng não
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ BIỆN PHÁP XỬ TRÍ 
TRONG GÂY MÊ HỒI SỨC PHẪU THUẬT U MÀNG NÃO 
Nguyễn Văn Chừng*, Nguyễn Ngọc Anh** 
TÓM TẮT 
Tác giả trình bày tiền cứu 64 trường hợp u màng não (UMN) được gây mê ở BV Nhân Dân 115 trong 
thời gian hai năm trong số 164 u não được mổ cùng thời gian, tập trung nhiều nhất vào lứa tuổi 41-60 
(tuổi nhỏ nhất là 11 tuổi, lớn nhất là 74 tuổi), tỉ lệ nam nữ là ½. Có 3 trường hợp tử vong (4,6%) ở giai 
đọan hậu phẫu, nguyên nhân tử vong là phù não. Ba nhóm nguy cơ lớn trong gây mê hồi sức mổ UMN 
là: Hô hấp, tuần hòan và thần kinh. Hô hấp: tăng áp lực đường thở, gập, tắt, tụt ống nội khí quản là 
những nguy cơ thường gặp và nó có liên quan với tư thế mổ. Tuần hòan: chậm nhịp tim và tụt huyết áp 
(HA) là hai nguy cơ hay gặp trong giai đọan bóc u. Thần kinh: phù não là nguy cơ hay gặp, trong mổ nó 
làm cản trở thao tác của phẫu thuật viên và sau mổ nó là nguyên nhân tử vong. So với các lọai u não 
khác, u màng não có nhiều nguy cơ về gây mê hồi sức hơn như: thời gian gây mê kéo dài, mất máu 
nhiều, cần sử dụng nhiều phương tiện theo dõi xâm lấn (CVP, IP) trong mổ hơn và thời gian nằm hậu 
phẫu lâu hơn. Sau mổ cho bệnh nhân tiếp tục thở máy là biện pháp an tòan để kiểm sóat phù não. 
SUMMARY 
STUDY OF RISKS AND MANAGEMENT PROCESSES 
IN ANESTHESIA-REANIMATION FOR MENINGIOMA RESECTION 
Nguyen Van Chung, Nguyen Ngoc Anh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 89 – 95 
The authors report perspective study of 64 intracranial meningiomas anaesthetised at 115 people’s 
Hospital in two years among 164 brain tumor anaesthetised in the same time. This series has mostly 
concentrated at the age of 41-60 (the youngest one was 11, the oldest one was 74), gender rate: 
male/female=1/2. There were 3 death cases in post-operative period due to cerebral edema. Three 
groups of high risk in anesthesia for meningioma resection were: respiratory, circulatory and neurologic 
risks. Respiratory risks: elevated airway pressure, endotracheal tube obstruction or hinking or displacing 
were the most frequent risks associated with peri-operative position. Circulatory risks: bradicardia and 
arteral hypotention were the most common risks during meningioma dissecting period. Neurologic risks: 
cerebral edema was a common risk. In peri-operation, it could limite the gestes of the neurosurgeon.In 
post-operation, it was the main cause of death. Meningioma had more risk than the other brain tumor in 
anesthesia-reanimation: longer operative time, more blood loss, required use invasive monitoring 
measures (CVP, IP) in peri-operative. After operation, the patient should be continued on mechanical 
ventilation that is the safe method to control cerebral edema. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cuối thế kỷ thứ XVIII, người ta quan niệm u thần 
kinh trung ương là bệnh của tử thần, phần lớn các u 
não chỉ được xác định khi mổ tử thi. Cho đến thế kỷ 
thứ XIX thì việc phẫu thuật các khối u của thần kinh 
trung ương cũng có nhiều hạn chế, tỉ lệ di chứng và 
tử vong còn cao(1). 
Hiện nay trên thế giới, ngành phẫu thuật thần 
kinh đã phát triển rất cao. Với những phương tiện 
* BV ĐH Y Dược TPHCM
** ĐH Y Dược TPHCM 
 89
chẩn đoán hiện đại, các khối u nội sọ đã được phát 
hiện và chẩn đoán sớm từ khi còn ở kích thước rất 
nhỏ(1,6). 
U nội sọ là một trong những bệnh lý được quan 
tâm trong ngành nội, ngoại thần kinh, trong đó u 
màng não là loại có kết quả điều trị khích lệ nhất về 
mặt phẫu thuật. Để góp phần vào thành công của 
phẫu thuật u màng não, có sự đóng góp không nhỏ 
của chuyên ngành gây mê hồi sức thần kinh. 
Cùng với sự phát triển của ngành phẫu thuật 
thần kinh thế giới nói chung và của Việt Nam nói 
riêng, khoa ngoại thần kinh của BV Nhân Dân 115 
được thành lập từ năm 1992, một lượng lớn u màng 
não đã được mổ và đạt được kết quả khả quan, chất 
lượng sống của bệnh nhân được cải thiện. 
Đối với chuyên ngành GMHS trong phẫu thuật 
thần kinh của nước ta nói chung và của TPHCM nói 
riêng, hiện nay thật sự chưa có nhiều nghiên cứu về 
vấn đề này. Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng 
điều trị u màng não, chúng tôi tự đặt cho mình 
nhiệm vụ nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ, biến 
động hô hấp tuần hoàn và các biện pháp xử trí trong 
gây mê hồi sức phẫu thuật u màng não. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xây dựng phác đồ chuẩn bị bệnh nhân trước mổ, 
theo dõi, hồi sức trong và sau mổ u màng não với 
điều kiện hiện có ở BV Nhân Dân 115 TPHCM. 
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán u màng 
não dựa trên lâm sàng và hình ảnh học có chỉ định 
phẫu thuật tại BV Nhân Dân 115. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
Mô tả tiền cứu cắt ngang. 
Xử lý số liệu 
Các số liệu thu thập được sẽ được nhập và phân 
tích bằng phần mềm SPSS 10.05. Các mối tương 
quan sẽ được xác định bằng test thống kê chi-square 
hoặc Fissher’s Exact test với p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ 01/01/2002 đến 15/04/2004, 
qua thu thập số liệu chúng tôi ghi nhận được 157 
bệnh nhân u não (trên 164 bệnh nhân được mổ u 
não tại BVND115 trong đó có 1 trường hợp tái phát 1 
lần, 1 trường hợp tái phát 2 lần). Trong đó có 61 
bệnh nhân (trên 64 trường hợp bệnh) có kết quả 
giải phẫu bệnh là u màng não. 
Một số ghi nhận về dịch tễ học bệnh 
nhân u màng não: 
3,3%
6,6% 8,2%
29,5%
34,4%
14,8%
3,3%
0
10
20
30
40
11-20 21-30 31-40 41-50 51-60 61-70 71-80
Tuổi 
Biểu đồ 1: Tỉ lệ % bệnh nhân u màng não phân bố 
theo nhóm tuổi (n = 61) 
34%
66%
Nam
Nữ
Biểu đồ 2: Tỉ lệ bệnh nhân u màng não phân bố theo 
giới tính (n = 61) 
Tình trạng bệnh trước mổ: 
4,6%
39,1%
56,3%
ASA I
ASA II
ASA III
Biểu đồ 3: Tình trạng bệnh nhân theo phân loại ASA 
(n = 64) 
 90 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Bảng 1: Vị trí u màng não 
Vị trí Tần số Tỉ lệ (%) 
Trán 21 34,4 
Bán cầu Đỉnh 13 21,3 
Thái dương 11 18,0 
 Vùng hố yên
Trên lều 
3 4,9 
 Cạnh xương bướm 3 4,9 
 Cạnh đường giữa 2 3,3 
 Hậu nhãn cầu 1 1,6 
 Góc cầu tiểu não 6 9,8 
 Bán cầu tiểu não 
Dưới lều 
1 1,6 
Tổng 61 100 
Bảng 2: Những hội chứng thường gặp (n = 64) 
Hội chứng Tần số Tỉ lệ (%)
Hội chứng tăng áp lực nội sọ 55 85,9 
Hội chứng thần kinh khu trú 28 43,8 
Tăng sinh mạch máu quanh u (*) 15 23,4 
Ghi chú: (*) Chỉ có 16 trường hợp được chụp mạch não đồ 
Bảng 3: Chống phù não trước mổ 
Thuốc Tần số Tỉ lệ (%) 
 Corticoid 33 51,6 
 Mannitol + Corticoid 19 29,7 
 Mannitol + Corticoid + Lasix 3 4,7 
Tổng 55 85,9 
Bảng 4: Tư thế mổ 
Tư thế Tần số Tỉ lệ (%) 
Tư thế nằm ngửa 52 81,3 
Tư thế Mount 9 14,1 
Tư thế nằm sấp 3 4,7 
Tổng 64 100 
0
5
10
15
20
25
Số bệnh nhân (n = 64)
Áp lực 
đường thở 
(cmH2O)
ALĐT trước đặt tư thế
ALĐT trong mổ
Ghi chú: ALĐT trung bình trước đặt tư thế # 13 cmH2O. 
ALĐT trung bình trong mổ # 17 cmH2O 
Biểu đồ 4: Diễn biến áp lực đường thở sau khi đặt tư 
thế mổ. 
Bảng 5: Thời gian gây mê. 
Thời gian (phút) Thời gian 
trung bình 
Trị số 
cao nhất
Trị số 
thấp nhất
Từ dẫn mê đến đặt tư thế 31 80 10 
Từ rạch da đến mở màng cứng 62 140 20 
Từ mở màng cứng đến lấy u 146 440 40 
Đóng vết mổ 46 120 20 
Tổng thời gian gây mê 324 660 160 
0
20
40
60
80
100
120
140
Số bệnh nhân (n = 64)
HAĐMTB 
(mmHg)
HA trước mổ
HA trong mổ
Biểu đồ 5: Diễn biến HA động mạch trung bình trong mổ 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Trong 64 trường hợp được gây mê mổ u màng 
não mà chúng tôi đã thực hiện, tuổi nhỏ nhất là 11 
tuổi và lớn nhất là 74 tuổi (tuổi trung bình: 49,9 ± 
13,8), phần lớn tập trung ở lứa tuổi trung niên(41 - 60 
tuổi) và tỉ lệ nam/nữ là: ½. Kết quả này phù hợp với 
nhiều tác giả(1) 
Bệnh nhân mổ u màng não của chúng tôi có tỉ lệ 
ASA II và ASA III chiếm đa số (95,4%), qua đó cho 
thấy nguy cơ của bệnh nhân mổ u màng não là rất 
cao, vì vậy trước mổ bệnh nhân phải được chuẩn bị 
chu đáo, các rối loạn bệnh lý kèm theo cần được điều 
chỉnh trở về bình thường hoặc gần bình thường (nếu 
có thể). Điều này sẽ giúp cho bệnh nhận chịu đựng 
cuộc mổ được thuận lợi và an toàn hơn. 
Các yếu tố nguy cơ liên quan tới gây 
mê và phẫu thuật 
Tư thế 
Về mặt định khu giải phẫu, trong nghiên cứu của 
chúng tôi u màng não trên lều chiếm 88,6%, điều này 
 91
thuận lợi cho người gây mê, vì bệnh nhân sẽ được mổ 
ở tư thế nằm ngữa, thời gian đặt tư thế ngắn, ít ảnh 
hưởng huyết động, hô hấp và các nguy cơ khác như 
tụt, gập ống nội khí quản (NKQ), chèn ép dây thần 
kinh, các điểm tì (gây thiếu máu) cũng ít hơn(10). Bên 
cạnh đó có 11,4% u màng não ở vị trí dưới lều mà 
trong mổ bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm sấp hoặc 
tư thế Mount, điều này có nhiều bất lợi cho người BS 
gây mê hồi sức như: 
Thời gian đặt tư thế lâu (trung bình 31 phút, 
thậm chí có trường hợp kéo dài 80 phút), khó dẫn lưu 
tư thế do đó dễ phù não.Vì vậy trong trường hợp này, 
phẫu thuật viên thường phải làm một dẫn lưu não 
thất trong (DVI) hoặc ngoài (DVE), hoặc dẫn lưu dịch 
não tuỷ qua ngã ống sống thắt lưng. Điều này có 
nghĩa là bệnh nhân phải chịu thêm một cuộc phẫu 
thuật, đây là điều mà chúng ta ít thấy ở các nước tiên 
tiến(6,8)
Các nguy cơ rối loạn huyết động (huyết áp), tụt 
ống nội khí quản khi chuyển tư thế, chèn ép thần 
kinh và các mạch máu lớn cần phải chú ý. Đặc biệt là 
nếu cần cấp cứu ngừng tim trong mổ thì vô cùng khó 
khăn: vì phải đặt bệnh nhân trở lại tư thế nằm ngữa, 
trong khi bệnh nhân đã được cố định rất chắc bằng 
phương tiện giữ đầu[10). 
Đối với phẫu thuật viên thì trường mổ rất hẹp, 
khó xác định các mốc giải phẫu và đôi lúc họ muốn 
đặt bệnh nhân ở tư thế gập cổ quá mức làm cho 
đường kính trong của ống nội khí quản bị hẹp lại, 
dẫn đến áp lực đường thở tăng lên (nhất là đối với 
trẻ em, đôi khi ống nội khí quản bị gập hẳn lại))16). 
Vì vậy, đối với những trường hợp này, tốt nhất là 
nên chọn loại ống nội khí quản lò xo (sonde 
Armée) và phải theo dõi áp lực đường thở trước, 
trong và sau khi đặt tư thế. 
 Ở các nước tiên tiến, phần lớn các trường hợp u 
màng não dưới lều, bệnh nhân thường được mổ ở tư 
thế ngồi(10) (nếu không có chống chỉ định), vì tư thế 
ngồi tạo nên một phẫu trường khô, rộng, các mốc 
giải phẫu rõ ràng, tạo điều kiện cho phẫu thuật viên 
thao tác dễ dàng). Trong nghiên cứu của chúng tôi 
không có trường hợp nào mổ ở tư thế ngồi, vì chưa đủ 
phương tiện theo dõi và dự phòng thuyên tắc khí. 
Điều chỉnh các rối loạn trước mổ: 
Trước mổ, phần lớn bệnh nhân bị u màng não có 
tăng áp lực nội sọ (ALNS)(1,3,6,20). Trong nghiên cứu, 
có 85,9% bệnh nhân có tăng ALNS và 100% bệnh 
nhân này được điều trị bằng corticoide, hoặc kết hợp 
corticoide với mannitol (29,7%) và đôi khi dùng cả ba 
loại là corticoide + mannitol + lasix (4,7%). Vì vậy 
trước mổ, người BS gây mê cần phải điều chỉnh các 
rối loạn do các thuốc này gây nên, đặc biệt là phải đưa 
kali trở về bình thường. 
Như đã nói ở trên, đa số bệnh nhân u màng não 
đều được điều trị corticoide và điều này trở nên khó 
xử cho người BS gây mê khi bệnh nhân có bệnh tiểu 
đường kèm theo (6,3%). Việc điều chỉnh đường huyết 
trở về mức cho phép phẫu thuật phải được tiến hành 
tích cực, và theo kinh nghiệm của chúng tôi thì việc 
này nên để cho người BS gây mê làm. Nếu bệnh cần 
phải mổ gấp (đe doạ tụt não) thì phải chấp nhận giá 
trị đường máu hơi cao (180-220 mg%) và việc điều 
chỉnh này sẽ được tiếp tục trong và sau mổ. 
Kỹ thuật gây mê 
Tiền mê 
Đối với bệnh nhân mổ u màng não, để tránh các 
diễn biến bất thường về tri thức và hô hấp, chúng tôi 
không cho thuốc tiền mê trước mổ(6,12), thường chỉ 
cho khi bệnh nhân được nhận vào phòng mổ, khi mà 
các phương tiện đã được chuẩn bị đầy đủ và có sự 
theo dõi chặt chẽ của người gây mê. Thuốc thường 
dùng là Hypnovel với liều là 0,05 mg/kg tiêm tĩnh 
mạch chậm. 
Dẫn mê 
Khi dẫn mê, phần lớn (90,6%) dùng Fentanyl 1-2 
γ/kg kết hợp với Thiopental 5-8 mg/kg. Qua nghiên cứu, 
chúng tôi nhận thấy nếu bệnh nhân không có vấn đề về 
tim mạch thì Thiopental vẫn là thuốc có thể chọn đầu 
tiên để dẫn mê cho bệnh nhân mổ u não, vì rẻ tiền, có 
tác dụng bảo vệ não tốt, phù hợp với thời gian của cuộc 
mổ kéo dài. Điều cần chú ý là khi dùng Thiopental, 
tránh để HA bệnh nhân giảm ≤ 20% HA lúc đầu vì điều 
này có thể làm thiếu máu não(4,). 
 92 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
Về thuốc dãn cơ, nếu bệnh nhân không có nguy 
cơ đặt nội khí quản khó thì chúng tôi chọn thuốc dãn 
cơ không khử cực có thời gian tác dụng dài (78,2%) vì 
hạn chế dùng liều lập lại và cũng phù hợp với thời 
gian kéo dài của cuộc mổ cũng như thở máy sau mổ. 
Tuy vậy, qua nghiên cứu chúng tôi thấy có ¾ số 
trường hợp phải dùng liều dãn cơ lập lại 
Để duy trì mê: 
• Tất cả bệnh nhân đều dùng máy Blease, gây mê 
vòng kín lưu lượng thấp trung bình, chế độ thở 
IPPV. Các thông số thở máy được điều chỉnh nhằm 
duy trì EtCO2 # 30-32 mmHg và FiO2 = 60%. 
• Về thuốc mê)13,19)â: 96,9% chúng tôi dùng thuốc 
mê nhóm Halogène kết hợp với Fentanyl (trong 
đó Isoflurane chiếm 79,7% và sévoflurane chiếm 
17,2%). Ở đây Fentanyl được dùng liều tương đối 
cao, thậm chí có trường hợp dùng tới 900 γ cho 
cả cuộc mổ (liều trung bình 400 γ) 
Trong mổ u não nói chung và u màng não nói 
riêng, do tư thế bệnh nhân tương đối phức tạp, đầu 
bệnh nhân phải được cố định tốt trong quá trình 
phẫu thuật, vì vậy phẫu thuật viên thường dùng dụng 
cụ giữ đầu (têtìere de Mayfield). Trong nghiên cứu, có 
47 trường hợp (73,4%) có dùng dụng cụ này, điểm 
cần chú ý của người gây mê là trước khi người phẫu 
thuật viên đặt dụng cụ này vào bệnh nhân thì tiêm 
tĩnh mạch 50-100γ fentanyl để tránh bệnh nhân đau 
làm tăng HA. 
Các thông số theo dõi và bù dịch trong mổ: 
Về phương diện theo dõi trong mổ, chúng tôi làm 
tương đối tốt so với yêu cầu của cuộc mổ u não. 100% 
bệnh nhân được theo dõi liên tục ECG, SpO2, áp lực 
đường thở.. Ngoài ra, nếu dự đoán máu mất trong mổ 
nhiều, cần phải theo dõi sát tình hình huyết động để 
bù đắp kịp thời, chúng tôi còn theo dõi áp lực tĩnh 
mạch trung tâm (PVC) và huyết áp động mạch xâm 
lấn (PI). Trong nghiên cứu, có 27 trường hợp được 
theo dõi PI (42,2%), đây là một phương tiện giúp cho 
người gây mê theo dõi về huyết động chính xác, liên 
tục, nó cho biết được HA động mạch trung bình từ đó 
giúp cho nguời gây mê hồi sức bảo đảm và duy trì 
được áp lực tưới máu não. 
Phẫu thuật u màng não là một phẫu thuật mà 
bệnh nhân sẽ bị mất máu nhiều(6,7) lượng máu mất 
trung bình là 547 ml, có trường hợp mất tới 3000 ml. 
Giai đoạn bóc u là giai đoạn mất nhiều máu nhất 
(trung bình là 368 ml, tối đa là 2500 ml). Điều này đòi 
hỏi người BS gây hồi sức phải chuẩn bị tốt các đường 
truyền, trước khi gây mê nếu không chích kim luồn 
có kích thước lớn (18G, 16G, 14G), thì sau khi dẫn 
mê xong nên đặt cathéter trung tâm để bảo đảm tốc 
độ bù dịch máu khi cần thiết. Trong nghiên cứu, có 
52 trường hợp (81,3%) được đặt hai đường truyền, 28 
trường hợp được đặt tĩnh mạch trung tâm qua đường 
tĩnh mạch cảnh trong cao bên phải. 
Loại dịch truyền mà chúng tôi dùng là dịch đẳng 
trương (NaCl 0,9% và Haesteril 6%) Trong nghiên 
cứu, chỉ có 10 trường hợp dùng NaCl 0,9% đơn thuần, 
19 trường hợp kết hợp NaCl 0,9% + Haesteril 6% và 
33 trường hợp dùng cả NaCl 0,9%, Haesteril 6% và 
máu toàn phần Chúng tôi nhận thấy trên ½ bệnh 
nhân mổ u màng não cần được truyền máu (bảng13). 
Lượng máu bù cho trường hợp cao nhất là 2500 ml, 
và thấp nhất là 250 ml (trung bình 779 ml). Một 
thiếu sót trong nghiên cứu, là chưa theo dõi được 
những rối loạn của các yếu tố đông máu sau khi bệnh 
nhân được truyền một lượng máu lớn(2). 
Thời gian phẫu thuật 
Trong nghiên cứu, thời gian mổ trung bình là 
324 phút (dài nhất 660 phút), trong đó giai đoạn từ 
lúc mở màng cứng đến lấy u là dài nhất, đây là giai 
đoạn rất quan trọng: bệnh nhân phải nằm yên, HA 
ổn định, não không phù để tạo điều kiện cho phẫu 
thuật viên thao tác được dễ dàng. Vì vậy trước khi mở 
màng cứng, người gây mê cùng với phẫu thuật viên 
đánh giá xem não có “căng“ không? Nếu có thì nên 
cho một liều mannitol 0,5 g/kg/10 phút(6). Theo 
chúng tôi không nên cho mannitol một cách hệ 
thống cho tất cả bệnh nhân trước khi mở màng cứng, 
vì ngoài tác dụng có lợi của nó là làm giảm phù não 
nhưng bên cạnh đó có những tác dụng bất lợi như 
làm mất nước, rối loạn điện giải (kali), tụt HA. 
Sau mổ 
 Sau mổ 98,4% bệnh nhân được thở máy và thời 
 93
gian thở máy này phụ thuộc vào kết quả phẫu thuật 
(lấy hết u hay lấy một phần u), tình trạng phù não và 
huyết động. Chúng tôi chỉ cai máy thở và rút ống nội 
khí quản khi tình trạng phù não được kiểm soát, 
huyết động hô hấp ổn định và bệnh nhân tỉnh hẳn. 
Trong nghiên cứu, thời gian thở máy trung bình 
sau mổ là 19 giờ (lâu nhất là 221 giờ) và thời gian lưu 
ống nội khí quản trung bình là 21 giờ (lâu nhất là 221 
giờ). Điều này cho thấy, để bảo đảm tốt cho mổ u 
màng não, ngoài việc bảo an toàn trong mổ, người 
BS gây mê hồi sức còn phải biết hồi sức sau mổ, đặc 
biệt là phải biết sử dụng máy thở, bên cạnh đó phải 
có đội ngũ điều dưỡng được huấn luyện tốt, có kiến 
thức về chăm sóc bệnh nhân ngoại thần kinh. 
Cùng với việc thở máy, thì việc dùng thuốc kết 
hợp để chống phù não sau mổ cũng là một khâu vô 
cùng quan trọng. Thường thì bệnh nhân sẽ được 
dùng tiếp tục liều corticoide mà trước mổ đã dùng 
(56,2%), riêng mannitol có dùng hay không còn tuỳ 
thuộc vào tình trạng phù não sau mổ, hoặc sau khi 
chụp kiểm tra scanner lại. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi có 6,2% dùng mannitol sau mổ. Đối với 
thuốc an thần thì tuỳ thuộc vào quyết định cho thở 
máy lâu hay nhanh: 
Nguyên nhân tử vong 
Chúng tôi chỉ chuyển khỏi phòng hậu phẫu khi 
bệnh nhân đã ổn định hoàn toàn về huyết động, hô 
hấp và có thang điểm Glasgow ≥ 12 điểm.)18) Trong 
nghiên cứu, thời gian lưu lại hậu phẫu trung bình là 
42 giờ (ngắn nhất là 16 giờ và dài nhất là 240 giờ). Có 
95,4% bệnh nhân được chuyển khỏi hậu phẫu an 
toàn và có 3 trường hợp (4,6%) bị tử vong trong thời 
gian nằm ở hậu phẫu. 
Một số ghi nhận về u màng não so với 
các loại u não khác 
Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, chúng tôi đã 
gây mê 164 trường hợp mổ u não, (u màng não chiếm 
38,8%), qua phân tích, chúng tôi có một số ghi nhận về 
u màng não so với các loại u não khác như sau: 
- Bệnh nhân bị u màng não có nguy cơ trải qua 
thời gian gây mê kéo dài (> 4 giờ) cao gấp 3 lần so 
với các loại u não khác )p = 0,001 (<0.05),OR =3,3) 
- U màng não có nguy cơ mất máu nhiều (>500 
ml) gấp 22 lần so với các loại u não khác) p = 0,000 
(< 0,05), OR = 22,1). 
- U màng não có nguy cơ cần truyền máu trong 
mổ gấp 7,4 lần so với các loại u não khác.) p = 0,000 
(< 0,05), OR = 7,4). 
- Nhu cầu cần bù dịch (nhiều hơn 2 loại) của u 
màng não gấp 4,6 lần so với các loại u não khác ) p = 
0,000 (< 0,05), OR= 4,6). 
- Những bệnh nhân bị phẫu thuật u màng não có 
nguy cơ lưu lại phòng hậu phẫu trên 24 giờ nhiều gấp 
3,3 lần so với các loại u não khác) p =0,001(< 0,05), 
OR = 3,3). 
KẾT LUẬN 
- Phẫu thuật u màng não là một phẫu thuật có 
nguy cơ cao, thời gian mổ kéo dài, lượng máu mất 
trong mổ nhiều. Vì vậy công tác chuẩn bị trước mổ 
phải chu đáo, cần đánh giá chính xác các thông số về 
hô hấp tuần hoàn và các tổn thương thần kinh, đặt 
biệt là các rối loạn do điều trị gây nên như: Rối loạn 
nước điện giải (giảm kali máu), tăng đường huyết. 
Nếu có thể thì trước mổ nên điều chỉnh các rối loạn 
này trở về bình thường hoặc gần bình thường. 
- Có nhiều nguy cơ trong phẫu thuật u màng não, 
nhưng ba nhóm nguy cơ lớn có thể xảy ra trong và 
sau mổ là hô hấp, tuần hoàn và thần kinh: 
- So với các loại u não khác, phẫu thuật u màng 
não có nhiều nguy cơ hơn về gây mê và phẫu thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdennour L, Lescot.T, Puybasset L. Traitement de 
hypertension intracrânienne. JEPU. Frane. CRI. 2003. 
pp: 309 – 325. 
2. Albanèse J. et Bonhomme V. Les agents anesthésiques 
hypnotiques, les opiacés et myorelasants en 
neuroanesrhésie. Le patient neuro – chirurgical. 
France. Springer Verlag. 2004: pp: 33 – 53. 
3. Archer D.P., Freymand D., Ravussin. P. Utilisation du 
mannitol en neuroanesthesie et neuroréanimateur. 
AFAR Vol 14. No1.1995: pp 77-82. 
4. Bagnat E. - Guilly et Renaud C.E. Anesthésie et 
chirurgie intracrânienne règlé deÙ l’adulte. JEPU. 
Arnette. 1987: pp 201-213. 
5. Boulard G., Ravussin P. Remplissage vasculaire en 
neurochirurgie.- Congrès National d’anesthésie et de 
réanimation. 1999: pp 37-44. 
 94 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
6. Bromberg N., Adnet P. Anesthésie-réanimation pour 
chirurgie de la fosse posterieuse. - Anesthésie 
réanimation urgent, tome I- Université Paris VI. 1994: 
pp 246-252.. 
9. Lê Điền Nhi. U màng não, nhận xét qua các trường 
hợp phẫu thuật từ năm 1993-1997. Phụ bản chuyên đề 
ung bướu học tập 3 số 4 1997:pp 332-337 
7. Bruder N. et Ravussin P. Le réveil en neurochirurgie. 
Le patient neuro – chirurgical. France. Springer - 
Verlag. 2004: pp: 279 – 292. 
8. Cheffer N., Ravussin P. Positions en neurochirurgie. 
Anesthésie et réanimation en chirurgie de la tête et 
du cou tome II. Arnette. 1999: pp 129-148. 
10. Nguyễn Văn Chừng. Máu và công việc truyền máu. Bài 
giảng gây mê hồi sức. Nhà xuất bản Y học thành phố 
Hồ Chí Minh 2004: pp 180-185. 
 95

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_cac_yeu_to_nguy_co_va_bien_phap_xu_tri_trong_gay.pdf