Nghiên cứu hiện trạng quản lý phế thải xây dựng và phá dỡ ở Việt Nam

Tóm tắt Với tốc độ đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở Việt Nam, rất nhiều hoạt động xây dựng diễn ra khắp nơi, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, và Hồ Chí Minh. Tất cả các hoạt động như xây mới, cải tạo, phá dỡ các tòa nhà và công trình tạo ra một lượng lớn phế thải, được gọi là phế thải xây dựng và phá dỡ (viết tắt là PTXD). Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2011 về quản lý chất thải rắn do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, tổng lượng chất thải rắn đô thị trung bình khoảng 60 nghìn tấn/ngày, trong đó PTXD chiếm 10–12% tổng lượng chất thải rắn đô thị. Để tối đa hóa các tác động tích cực tiềm năng nhưng đồng thời để giảm thiểu các tác động tiêu cực của hiện đại hóa và công nghiệp hóa ở trong nước, cần phải có biện pháp kịp thời để bảo vệ môi trường. Bài viết này trình bày tình hình quản lý PTXD hiện tại ở Việt Nam và đưa ra những thách thức và khả năng tái chế PTXD. Giải pháp quan trọng được đề xuất là các chiến lược quản lý và tái chế PTXD phù hợp với các điều kiện này, với lợi ích đã được chứng minh cho tất cả các bên liên quan

pdf 10 trang yennguyen 6860
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu hiện trạng quản lý phế thải xây dựng và phá dỡ ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hiện trạng quản lý phế thải xây dựng và phá dỡ ở Việt Nam

Nghiên cứu hiện trạng quản lý phế thải xây dựng và phá dỡ ở Việt Nam
Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng NUCE 2018. 12 (7): 107–116
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ PHẾ THẢI XÂY DỰNG
VÀ PHÁ DỠ Ở VIỆT NAM
Ngô Kim Tuâna,∗, Trần Hoài Sơnb, Lê Việt Phươngc, Nguyễn Xuân Hiểnd,
Nguyễn Trung Kiêne, Vũ Văn Huye, Trần Viết Cườnge
aKhoa Vật liệu xây dựng, Đại học Xây dựng, 55 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
bKhoa Kỹ thuật môi trường, Đại học Xây dựng, 55 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
cCục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng, 37 Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
dVụ Khoa học Công nghệ & Môi trường, Bộ Xây dựng, 37 Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
eĐại học Saitama, Nhật Bản
Nhận ngày 16/07/2018, Sửa xong 13/08/2018, Chấp nhận đăng 13/09/2018
Tóm tắt
Với tốc độ đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở Việt Nam, rất nhiều hoạt động xây dựng diễn ra
khắp nơi, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, và Hồ Chí Minh. Tất cả các hoạt động như
xây mới, cải tạo, phá dỡ các tòa nhà và công trình tạo ra một lượng lớn phế thải, được gọi là phế thải xây dựng
và phá dỡ (viết tắt là PTXD). Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2011 về quản lý chất thải rắn do Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành, tổng lượng chất thải rắn đô thị trung bình khoảng 60 nghìn tấn/ngày, trong
đó PTXD chiếm 10–12% tổng lượng chất thải rắn đô thị. Để tối đa hóa các tác động tích cực tiềm năng nhưng
đồng thời để giảm thiểu các tác động tiêu cực của hiện đại hóa và công nghiệp hóa ở trong nước, cần phải có
biện pháp kịp thời để bảo vệ môi trường. Bài viết này trình bày tình hình quản lý PTXD hiện tại ở Việt Nam và
đưa ra những thách thức và khả năng tái chế PTXD. Giải pháp quan trọng được đề xuất là các chiến lược quản
lý và tái chế PTXD phù hợp với các điều kiện này, với lợi ích đã được chứng minh cho tất cả các bên liên quan.
Từ khoá: phế thải xây dựng (PTXD); quản lý chất thải rắn; tái chế; tái sử dụng; Việt Nam.
STUDY ON CURRENT SITUATION OF CONSTRUCTION AND DEMOLITIONWASTEMANAGEMENT
IN VIETNAM
Abstract
With the rapid urbanization and economic growth on all the fronts, lots of construction activities are conducted
everywhere, especially in big cities in Vietnam such as Hanoi, Haiphong, and Ho Chi Minh. All activities such
as new construction, renovation, and demolition of buildings and structures generate huge amount of waste,
called the construction and demolition waste (CDW). According to the state of environmental report 2011 on
solid waste management issued by Ministry of Natural Resources and Environment, the total municipal solid
waste generation was about 60 thousand tons/day averagely, in which the CDW waste accounts for 10–12%
of total solid waste. In order to maximize the potential positive impacts but at the same time to minimize
the negative effects of modernization and industrialization in the country, it is necessary to take immediate
measures to protect the environment. This paper presents the current situation of CDWmanagement in Vietnam
and gives challenges and opportunities of CDW recycling. The end solution intended will be to propose suitable
CDW management and recycling strategies to suit to these conditions with proven benefits to all stakeholders.
Keywords: construction and demolition waste (CDW); solid waste management; recycling; reuse; Vietnam.
https://doi.org/10.31814/stce.nuce2018-12(7)-12 c© 2018 Trường Đại học Xây dựng (NUCE)
∗Tác giả chính. Địa chỉ e-mail: tuannk@nuce.edu.vn (Tuân, N. K.)
107
Tuân, N. K. và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là quốc gia cực đông trên bán đảo Đông Dương ở Đông Nam Á, giáp với Trung Quốc
ở phía Bắc, Lào về phía Tây Bắc, Campuchia về phía Tây Nam, và Biển Đông ở phía Đông. Diện tích
Việt Nam khoảng 330.000 km2 và được xếp hạng là quốc gia lớn thứ 65 trên thế giới. Hiện nay nền
kinh tế quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Tính đến
tháng 7 năm 2016, dân số vào khoảng 91,7 triệu người, khiến Việt Nam trở thành quốc gia có dân số
đông thứ 14 trên thế giới và thứ 8 trong khu vực châu Á, tạo nên áp lực không ngừng và lâu dài đối
với tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Với sự đô thị hoá và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trên tất cả các mặt trận, rất nhiều hoạt động
xây dựng được tiến hành khắp mọi nơi, đặc biệt là tại các thành phố lớn ở Việt Nam như Hà Nội và
Hồ Chí Minh. Tất cả các hoạt động như xây mới, cải tạo và phá dỡ các tòa nhà đang tạo ra một lượng
lớn phế thải xây dựng và phá dỡ (PTXD). Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2011 về quản lý
chất thải rắn do Bộ Tài nguyên và Môi trường (BTNMT) ban hành [1], tổng lượng chất thải rắn đô thị
trung bình khoảng 60 nghìn tấn/ngày, trong đó PTXD chiếm tới 10–12% tổng lượng chất thải rắn.
Điều quan trọng là giảm thiểu phát sinh PTXD và tối đa hóa tái sử dụng/tái chế khi ngành xây
dựng là ngành tiêu thụ một lượng lớn tài nguyên thiên nhiên và năng lượng cũng như phát thải khí
nhà kính. Việc thiết lập các chiến lược và ban hành các luật và quy định hiệu quả là điều cần thiết để
đạt được điều này. Ngoài ra, việc cung cấp một số ưu đãi cho người dùng các sản phẩm tái chế là cần
thiết để thúc đẩy việc sử dụng. Ví dụ, ở hầu hết các nước phát triển, họ chủ động giới thiệu "Mua sắm
xanh" cho các dự án xây dựng mới do chính phủ chủ trì, ví dụ: tăng cường sử dụng vật liệu tái chế
để xây dựng các tòa nhà và cơ sở hạ tầng. Cần phải đánh giá vòng đời vì nó cung cấp công cụ định
lượng để đánh giá tác động môi trường của tái sử dụng/tái chế PTXD [2]. Trong khi chuyển sang môi
trường xanh hoặc bền vững, Việt Nam phải lấy các quốc gia phát triển như Nhật Bản và các nước EU
làm chuẩn trong việc xử lý các vấn đề về PTXD.
Bài viết này trình bày tình hình quản lý PTXD hiện tại ở Việt Nam và đưa ra những thách thức và
cơ hội để quản lý và tái chế PTXD. Giải pháp cuối cùng dự định là sẽ đề xuất các chiến lược quản lý
và tái chế PTXD phù hợp với các điều kiện này với lợi ích đã được chứng minh cho tất cả các bên liên
quan.
2. Hiện trạng quản lý phế thải xây dựng và phá dỡ ở Việt Nam
2.1. Khái niệm về phế thải xây dựng ở Việt Nam
Luật Xây dựng năm 2014 [3] quy định rằng các nhà thầu xây dựng phải chịu trách nhiệm về quản
lý PTXD. Luật bảo vệ môi trường năm 2014 [4] quy định rằng PTXD sẽ được thu thập và xử lý đầy
đủ, và Nghị định về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình năm 2009 [5] quy định rằng nhà thầu
xây dựng phải vận chuyển và thải bỏ PTXD tại những nơi được chỉ định.
Khái niệm về PTXD xuất hiện đầu tiên trong TCVN 6705 Chất thải rắn thông thường - Phân loại
năm 2009 [6]. Trong Điều 2 của TCVN 6705, PTXD (hoặc chất thải rắn xây dựng) được định nghĩa
là “Chất thải được thải ra do phá dỡ, cải tạo các hạng mục/công trình xây dựng cũ, hoặc từ quá trình
xây dựng các hạng mục/công trình mới (nhà, cầu cống, đường giao thông . . . ), như vôi vữa, gạch ngói
vỡ, bê tông, ống dẫn nước bằng sành sứ, tấm lợp, thạch cao . . . và các vật liệu khác”.
Trong Điều 50 của Nghị định về quản lý chất thải và phế liệu năm 2015 [7], việc phân loại PTXD
và các phương pháp xử lý được áp dụng đối với PTXD được mô tả như sau:
a) “Đất, bùn thải” từ hoạt động đào đất, nạo vét lớp đất mặt, đào cọc móng được sử dụng để bồi
đắp cho đất trồng cây hoặc các khu vực đất phù hợp;
108
Tuân, N. K. và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng
b) “Đất đá, chất thải rắn từ vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vữa, bê tông, vật liệu kết dính quá hạn
sử dụng)” được tái chế làm vật liệu xây dựng hoặc tái sử dụng làm vật liệu san lấp cho các công trình
xây dựng hoặc chôn lấp trong bãi chôn lấp chất thải rắn xây dựng;
c) “Chất thải rắn có khả năng tái chế” như thủy tinh, sắt thép, gỗ, giấy, chất dẻo được tái chế, tái
sử dụng.
Ngoài ra, Điều 50 của Nghị định [7] quy định Bộ trưởng Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm và hợp
tác với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để xác định việc phân loại, thu thập, tái sử dụng, tái
chế và xử lý PTXD.
2.2. Tình hình phát sinh PTXD tại Việt Nam
ỞViệt Nam, lượng chất thải rắn được tạo ra nhiều ở các khu vực đô thị. Theo báo cáo của BTNMT
năm 2011 [1], lượng chất thải rắn đô thị phát sinh khoảng 12802 triệu tấn trong năm 2008 và ước tính
là 22352 triệu tấn trong năm 2015. PTXD chiếm khoảng 10-15% tổng lượng chất thải rắn. Khoảng
2200 căn hộ (khoảng 6 triệu m2) được xây dựng vào những năm 70–80, trong đó khoảng 90% đã bị
xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 34/2007/NQ-CP
[8] về giải pháp cải tạo và tái thiết các chung cư bị hư hỏng hoặc xuống cấp vào năm 2015. Vì vậy,
trong những năm tới, một lượng lớn PTXD sẽ được thải ra ở các thành phố lớn hoặc khu vực đô thị.
Tuan, N. K và cs. / Tạp chí khoa học công nghệ xây dựng (NUCE) 
và các phương pháp xử lý được áp dụng đối với PTXD được mô tả như sau: 
a) “Đất, bùn thải” từ hoạt động đào đất, nạo vét lớp đất mặt, đào cọc móng được sử dụng để bồi 
đắp cho đất trồng cây hoặc các khu vực đất phù hợp; 
b) “Đất đá, chất thải rắn từ vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vữa, bê tông, vật liệu kết dính quá hạn 
sử dụng)” được tái chế làm vật liệu xây dựng hoặc tái sử dụng làm vật liệu san lấp cho các công trình 
xây dựng hoặc chôn lấp trong bãi chôn lấp chất thải rắn xây dựng; 
c) “Chất thải rắn có khả năng tái chế” như thủy tinh, sắt thép, gỗ, giấy, chất dẻo được tái chế, t i 
sử dụng. 
Ngoài ra, Điều 50 của Nghị định về quản lý chất thải và phế liệu (2015) quy định Bộ trưởng Bộ 
Xây dựng chịu trách nhiệm và hợp tác với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để xác định việc 
phân loại, thu thập, tái sử dụng, tái chế và xử lý PTXD. 
2.2 Tình hình phát sinh PTXD tại Việt Nam 
Ở Việt Nam, lượng chất thải rắn được tạo ra nhiều ở các khu vực đô thị. Theo báo cáo của 
BTNMT năm 2011 [1], lượng chất thải rắn đô thị phát sinh khoảng 12.802 triệu tấn trong năm 2008 và 
ước tính là 22.352 triệu tấn trong năm 2015. PTXD chiếm khoảng 10-15% tổng lượng chất thải rắn. 
Khoảng 2.200 căn hộ (khoảng 6 triệu m2) được xây dựng vào những năm 70 - 80, trong đó khoảng 90% 
đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 34/2007/ NQ-
CP [8] về giải pháp cải tạo và tái thiết các chung cư bị hư hỏng hoặc xuống cấp vào nă 2015. Vì vậy, 
trong những năm tới, một lượng lớn PTXD sẽ được thải ra ở các thành phố lớn hoặc k u vực đô thị. 
Phát sinh PTXD ở một số thành phố lớn ở Việt Nam được thể hiện trong hình 1. Hiện tại, lượng 
PTXD hàng ngày ở Hà Nội (Hình 1a) và Tp. Hồ Chí Minh (Hình 1b) vượt quá 3.000 tấn/ngày. Đối với 
các thành phố lớn khác như Hải Phòng (Hình 1c) và Đà Nẵng, lượng PTXD phát sinh hàng ngày lên 
đến hơn 500 tấn/ngày. 
a) 
b) 
3200
3000 3000
1168
1095 1095
0
200
400
600
800
1000
1200
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(tấ
n/
ng
ày
)
2012 2013 2014 
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(n
gh
ìn
 tấ
n/
nă
m
)
Phế thải xây dựng (nghìn tấn/năm)
Phế thải xây dựng (tấn/ngày)
2156 2200 2254
2320
3000787 803 823
847
1095
0
200
400
600
800
1000
1200
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
2009 2010 2011 2012 2013
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(n
gh
ìn
 tấ
n/
nă
m
)
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(tấ
n/
ng
ày
)
Phế thải xây dựng (tấn/ngày) Phế thải xây dựng (nghìn tấn/năm)
(a) Hà Nội
Tuan, N. K và cs. / Tạp chí khoa học công nghệ xây dựng (NUCE) 
và các phương pháp xử lý được áp dụng đối với PTXD được mô tả như sau: 
a) “Đất, bùn thải” từ hoạt động đào đất, nạo vét lớp đất mặt, đào cọc móng được sử dụng để bồi 
đắp cho đất trồng cây hoặc các khu vực đất phù hợp; 
b) “Đất đá, chất thải rắn từ vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vữa, bê tông, vật liệu kết dính quá hạn 
sử dụng)” được tái chế làm vật liệu xây dựng hoặc tái sử dụng làm vật liệu san lấp cho các công trình 
xây dựng hoặc chôn lấp trong bãi chôn lấp chất thải rắn xây dựng; 
c) “Chất thải rắn có khả năng tái chế” như thủy tinh, sắt thép, gỗ, giấy, chất dẻo được tái chế, tái 
sử dụng. 
Ngoài ra, Điều 50 của Nghị định về quản lý chất thải và phế liệu (2015) quy định Bộ trưởng Bộ 
Xây dựng chịu trách nhiệm và hợp tác với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường để xác định việc 
phân loại, thu thập, tái sử dụng, tái chế và xử lý PTXD. 
2.2 Tình hình phát sinh PTXD tại Việt Nam 
Ở Việt Nam, lượng chất thải rắn được tạo ra nhiều ở các khu vực đô thị. Theo báo cáo của 
BTNMT năm 2011 [1], lượng chất thải rắn đô thị phát sinh khoảng 12.802 triệu tấn trong năm 2008 và 
ước tính là 22.352 triệu tấn trong năm 2015. PTXD chiếm khoảng 10-15% tổng lượng chất thải rắn. 
Khoảng 2.200 căn hộ (khoảng 6 triệu m2) được xây dựng vào những năm 70 - 80, trong đó khoảng 90% 
đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 34/2007/ NQ-
CP [8] về giải pháp cải tạo và tái thiết các chung cư bị hư hỏng hoặc xuống cấp vào năm 2015. Vì vậy, 
trong những năm tới, một lượng lớn PTXD sẽ được thải ra ở các thành phố lớn hoặc khu vực đô thị. 
Phát sinh PTXD ở ột số thàn p ố lớn ở Việt Nam được t ể hiện trong hình 1. Hiện tại, lượng 
PTXD hàng ngày ở Hà Nội (Hình 1a) và Tp. Hồ Chí Minh (Hình 1b) vượt quá 3.000 tấn/ngày. Đối với 
các thành phố lớn khác như Hải Phòng (Hình 1c) và Đà Nẵng, lượng PTXD phát sinh hàng ngày lên 
đến hơn 500 tấn/ngày. 
a) 
b) 
3200
3000 3000
1168
1095 1095
0
200
400
600
800
1000
1200
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(tấ
n/
ng
ày
)
2012 2013 2014 
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(n
gh
ìn
 tấ
n/
nă
m
)
Phế thải xây dựng (nghìn tấn/năm)
Phế thải xây dựng (tấn/ngày)
2156 2200 2254
2320
3000787 803 823
847
1095
0
200
400
600
800
1000
1200
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
2009 2010 2011 2012 2013
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(n
gh
ìn
 tấ
n/
nă
m
)
Ph
ế 
th
ải
 x
ây
 d
ựn
g 
(tấ
n/
ng
ày
)
Phế thải xây dựng (tấn/ngày) Phế thải xây dựng (nghìn tấn/năm)
(b) Hồ Chí Minh
Tuan, N. K và cs. / Tạp chí khoa học công nghệ xây dựng (NUCE) 
c) 
Hình 1. Phát sinh PTXD hiện tại ở (a) Hà Nội, (b) Hồ Chí Minh, và (c) Hải Phòng 
(Nguồn: URENCO Hà Nội, URENCO Hồ Chí Minh và Sở TNMT Hải Phòng) 
Hơn nữa, theo quy hoạch tổng thể xử lý chất thải rắn ở Hà Nội [8], các thành phần chính của 
PTXD là “Đất, Cát, Đá sỏi”, “Khối gạch và khối xây dựng” và “Bê tông”, và các loại khác bao gồm 
kim loại, nhựa, và gỗ như được thể hiện trong Hình 2. 
Hình 2. Các thành phần PTXD điển hình ở Việt Nam 
2.3 Các bên liên quan có trách nhiệm quản lý PTXD ở Việt Nam 
Có một số cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp tham gia công tác quản lý chất thải ở Việt Nam 
[9, 10]. Cơ quan chính chịu trách nhiệm quản lý môi trường, giám sát và đánh giá về quản lý chất thải 
rắn là BTNMT. Mặt khác, trách nhiệm chính về quản lý PTXD thuộc về Bộ Xây dựng (BXD) [7]. 
BXD là đơn vị hướng dẫn quy hoạch xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn, tái sử dụng các cơ sở 
xử lý chất thải rắn và và công trình chấm dứt hoạt động theo Nghị định về quản lý chất thải rắn (2007) 
407
486
519
149
177 189
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
0
100
200
300
400
500
600
2008 2009 2011
P ... lý và tái chế PTXD bền vững ở Việt Nam
3.1. Chiến lược Quốc gia thúc đẩy quản lý và tái chế PTXD ở Việt Nam
Trong hai thập kỷ qua, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng và thực hiện một khuôn khổ pháp lý
để bảo vệ môi trường nhằm đưa ra các hướng dẫn về quản lý và đổ thải tất cả các loại chất thải [11].
Khung pháp lý này được hỗ trợ bởi nhiều chiến lược và chỉ thị quốc gia áp dụng cho quản lý chất thải
rắn. Các chiến lược tiêu biểu bao gồm:
i) Chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam [16];
ii) Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 với tầm nhìn đến năm 2020 [17];
iii) Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công
nghiệp năm 2005 [18];
iv) Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2050 [19];
v) Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020 với tầm nhìn đến năm 2030 [20].
Trong Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn [19], dự kiến đến năm 2050, tất cả
các loại chất thải rắn sẽ được thu gom, tái sử dụng, tái chế và xử lý toàn diện bằng các công nghệ tiên
tiến, thân thiện với môi trường, phù hợp với từng địa phương (Bảng 1).
Bảng 1. Chiến lược quốc gia về quản lý chất thải rắn đến năm 2025 [19]
Mục tiêu 2025
Phần trăm các thành phố có hệ thống tái chế chất thải rắn % 100
% Giảm túi nilon so với năm 2010 100
% Thu gom/% Tái chế Chất thải rắn nguy hại 100/100
(85% đối với hộ gia đình)
Phế thải xây dựng và phá dỡ 90/60
Bùn thải đô thị 100/100
CTR công nghiệp không nguy hại 100/100
(80% đối với tro, xỉ, thạch cao)
Cùng với các chiến lược quốc gia, đã có các luật và văn bản chính sách có liên quan như nghị
định, thông tư, và các tiêu chuẩn được ban hành để hỗ trợ. Đặc biệt, tầm quan trọng của nghiên cứu
và thúc đẩy tái chế chất thải được nhấn mạnh trong Luật bảo vệ môi trường mới được sửa đổi (2014)
[4]: Điều 6.6 khuyến khích “Nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế
chất thải, công nghệ thân thiện với môi trường”. Cùng với Chiến lược quốc gia về quản lý chất thải
rắn [19], Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 609/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch xử lý
chất thải rắn tại thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 [8], trong đó thành phố sẽ được
chia thành ba khu vực để thu gom và xử lý chất thải rắn.
Mặc dù các cơ quan quản lý Nhà nước đã ban hành các chiến lược và quyết định về quản lý chất
thải rắn, tuy nhiên hiện tại vẫn chưa có các hướng dẫn kỹ thuật chi tiết để thúc đẩy việc xử lý và tái
chế PTXD. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn cần thiết cho vật liệu tái chế từ PTXD và các hướng dẫn về
việc sử dụng vật liệu tái chế (ví dụ, vật liệu nền đường, cốt liệu bê tông) chưa được quy định đầy đủ ở
Việt Nam (Hình 6).
113
Tuân, N. K. và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng
Tuan, N. K và cs. / Tạp chí khoa học công nghệ xây dựng (NUCE) 
tại thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 [8], trong đó thành phố sẽ được chia thành ba 
khu vực để thu gom và xử lý chất thải rắn. 
Mặc dù các cơ quan quản lý Nhà nước đã ban hành các chiến lược và quyết định về quản lý 
chất thải rắn, tuy nhiên hiện tại vẫn chưa có các hướng dẫn kỹ thuật chi tiết để thúc đẩy việc xử lý và 
tái chế PTXD. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn cần thiết cho vật liệu tái chế từ PTXD và các hướng dẫn về 
việc sử dụng vật liệu tái chế (ví dụ, vật liệu nền đường, cốt liệu bê tông) chưa được quy định đầy đủ ở 
Việt Nam (Hình 6). 
Hình 6. Tái chế vật liệu để cải tạo đất 
Gạch và bê tông vụn được sử dụng nguyên (không kiểm soát chất lượng) 
3.2 Thách thức và Cơ hội cho Quản lý và Tái chế PTXD Bền vững ở Việt Nam 
Hiện tại, giống như các nước đang phát triển khác ở châu Á, Việt Nam đang phải đối mặt với sự 
thiếu hụt các cơ sở pháp lý và thực thi trong quản lý PTXD như đã đề cập ở trên. Ưu tiên trong quản lý 
chất thải rắn hiện nay là quản lý chất thải hữu cơ và quản lý chất thải nguy hại (chất thải y tế và chất 
thải công nghiệp nguy hại). Các vấn đề liên quan đến PTXD, thuộc nhóm chất thải rắn không nguy hại, 
mới chủ yếu ở quy mô nghiên cứu và không có đầu tư mạnh nào được đưa vào cho đến nay. Hiện nay, 
chính sách ưu tiên hoặc chính sách đầu tư cho nghiên cứu, sản xuất và đầu tư kinh doanh cho tái chế và 
quản lý PTXD chưa được ban hành. Chính sách tái chế vừa được đề cập trong quản lý chất thải rắn nói 
chung trong Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã 
được phê duyệt theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg năm 2009 [17]. Trong tài liệu pháp lý này, một trong 
những nhiệm vụ lớn là tăng cường tái sử dụng và tái chế chất thải rắn bằng cách tăng cường sử dụng lại 
chất thải rắn; xây dựng và phát triển thị trường và kinh doanh chất thải; phát triển ngành công nghiệp 
tái chế, thúc đẩy việc mua các sản phẩm tái chế, xây dựng và áp dụng các chính sách khuyến khích cho 
các hoạt động tái chế và hình thành các quỹ tái chế. 
Hơn nữa, ý thức và thái độ của người dân hiện nay đối với chất thải phát sinh từ các công 
trường xây dựng và phá dỡ chưa cao. Cần phải thay đổi nhận thức của tất cả các bên liên quan bao gồm 
các cơ quan quản lý trong ngành xây dựng. Điều này cũng đòi hỏi phải hiểu đầy đủ tiềm năng tái sử 
dụng của PTXD và các thực tiễn hiện có trong việc thực hiện và thực thi để đạt được các mục tiêu của 
chiến lược quốc gia. 
Cho đến nay, nhiều dự án hỗ trợ đã được thực hiện tại Việt Nam liên quan đến công tác quản lý 
chất thải rắn. Trong số đó, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) là một trong những nhà tài trợ 
hàng đầu và thực hiện một số dự án về quản lý chất thải rắn bao gồm: 
i) 2006-2009: Dự án khuyến khích 3R tại Hà Nội. 
ii) 2005-2013: Dự án cải thiện môi trường cho thành phố Hải Phòng. 
iii) 2014-2018: Dự án phát triển năng lực về quản lý tổng hợp chất thải rắn đô thị. 
Hình 6. Tái chế vật liệu để cải tạo đất
Gạch à bê tông vụn được sử dụng nguyên (không iểm soát chất lượng)
3.2. Thách thức và cơ hội cho quản lý và tái chế PTXD bền vững ở Việt Nam
Hiện tại, giống như các nước đang phát triển khác ở châu Á, Việt Nam đang phải đối mặt với sự
thiếu hụt các cơ sở pháp lý và thực thi trong quản lý PTXD như đã đề cập ở trên. Ưu tiên trong quản
lý chất thải rắn hiện nay là quản lý chất thải hữu cơ và quản lý chất thải nguy hại (chất thải y tế và chất
thải công nghiệp nguy hại). Các vấn đề liên quan đến PTXD, thuộc nhóm chất thải rắn không nguy
hại, mới chủ yếu ở quy mô nghiên cứu và không có đầu tư mạnh nào được đưa vào ch ến nay. Hiện
nay, chính sách ưu tiên hoặc chính sách đầu tư cho nghiên cứu, sản xuất và đầu tư kinh doanh cho
tái chế và quản lý PTXD chưa được ban hành. Chính sách tái chế vừa được đề cập trong quản lý chất
thải rắn nói chung trong Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030 đã được phê duyệt theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg năm 2009 [19]. Trong tài liệu pháp lý
này, một trong những nhiệm vụ lớn là tăng cường tái sử dụng và tái chế chất thải rắn bằng cách tăng
cường sử dụng lại chất thải rắn; xây dựng và phát triển thị trường và kinh doanh chất thải; phát triển
ngành công nghiệ tái chế, thúc đẩy việc mua các sản phẩm tái chế, xây dựng và áp dụng các hí h
sách khuyến khích cho các hoạt động tái chế và hình thành các quỹ tái chế.
Hơn nữa, ý thức và thái độ của người dân hiện nay đối với chất thải phát sinh từ các công trường
xây dựng và phá dỡ chưa cao. Cần phải thay đổi nhận thức của tất cả các bên liên quan bao gồm các
cơ quan quản lý trong ngành xây dự . Điều này cũng đòi hỏi phải hiểu đầy đủ tiềm năng tái sử dụng
của PTXD và các thực tiễn hiện có trong việc thực hiện và thực thi để đạt được các mục tiêu của chiến
lược quốc gia.
Cho đến nay, nhiều dự án hỗ trợ đã được thực hiện tại Việt Nam liên quan đến công tác quản lý
chất thải rắn. Trong số đó, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) là một trong những nhà tài trợ
hàng đầu và thực hiện một số dự án về quản lý chất thải rắn bao gồm:
i) 2006-2009: Dự án khuyến khích 3R tại Hà Nội [21].
ii) 2005-2013: Dự án cải thiện môi trường cho thành phố Hải Phòng [22, 23].
iii) 2014-2018: Dự án phát triển năng lực về quản lý tổng hợp chất thải rắn đô thị [24].
Ngoài ra, một số dự án tái chế và quản lý chất thải rắn đã được thực hiện dưới sự hỗ trợ của Bộ
Môi trường tại Nhật Bản (ví dụ, Dự án CDM Kỹ thuật Ichikawa Kankyo về ủ CTR trong năm 2009,
dự án kỹ thuật tái chế chất thải Ichikawa Kankyo năm 2014) [24].
Một số dự án cũ g đã t ực hiện tại các Bộ liên quan của Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các dự án
tái chế PTXD mới chủ yếu ở quy mô nghiên cứu bao gồm:
i) “Đầu tư dây chuyền tái chế PTXD để sản xuất vật liệu xây dựng” do Bộ Xây dựng thực hiện
114
Tuân, N. K. và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng
năm 2010 - 2012.
ii) “Xử lý và tái chế chất thải rắn trong thi công dự án hạ tầng đường bộ” do Bộ Giao thông vận
tải thực hiện trong năm 2010 - 2014.
iii) “Điều tra hệ thống quản lý PTXD tại các khu đô thị” do Hiệp hội các khu công nghiệp và môi
trường đô thị Việt Nam thực hiện năm 2008 - 2010.
Năm 2018, một dự án hợp tác mới (gọi là dự án JST-JICA SATREPS) giữa Việt Nam và Nhật Bản
đã bắt đầu, được gọi là “Thiết lập quản lý phế thải xây dựng và phá dỡ thân thiện môi trường và sử
dụng hợp lý để kiểm soát ô nhiễm môi trường và vật liệu xây dựng tái chế mới tại Việt Nam” [25]. Dự
án đề xuất thúc đẩy tái chế PTXD tại Việt Nam, nhằm mục đích:
1) Thiết lập các hướng dẫn cần thiết cho quản lý PTXD thân thiện môi trường;
2) Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho các vật liệu tái chế được sản xuất từ PTXD;
3) Phát triển các công nghệ mới sử dụng vật liệu được tái chế sản xuất từ PTXD;
4) Đề xuất mô hình kinh doanh chiến lược được thiết kế để thúc đẩy tái chế PTXD tại Việt Nam
và kiểm tra hiệu quả và tính khả thi của chúng thông qua các dự án thí điểm tại chỗ.
Mục tiêu cuối cùng của dự án này là đóng góp vào tỷ lệ tái chế PTXD là 60%, đáp ứng chiến lược
quốc gia về quản lý chất thải rắn của Việt Nam đến năm 2025, thông qua ứng dụng công nghệ và mô
hình kinh doanh phát triển tái chế.
Ở Việt Nam, vấn đề lớn nhất với các dự án Nghiên cứu & Phát triển (R&D) hiện tại là giới hạn
của việc ứng dụng. Dây chuyền sản xuất từ hoạt động R&D thường không được khai thác tiếp tục sau
khi dự án kết thúc, vì nguồn nguyên liệu đầu vào và đầu ra không bền vững. Dựa trên các bài học và
kinh nghiệm trong quá khứ, các hoạt động R&D hiệu quả xem xét đầy đủ các ứng dụng thực tiễn là
rất cần thiết để phát triển PTXD bền vững và thân thiện môi trường tại Việt Nam.
4. Kết luận
Từ các thực tiễn được nói trên, rõ ràng công tác quản lý và tái chế PTXD là một trong những vấn
đề kỹ thuật quan trọng nhất cần can thiệp ngay tại Việt Nam. Mặc dù đã có một số sáng kiến trong
quá khứ để giải quyết vấn đề này, không có sáng kiến nào thành công chủ yếu là do tính đa ngành của
vấn đề. Do đó cần một cách tiếp cận toàn diện hơn giải quyết tất cả các vấn đề:
- Cần sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý PTXD thân thiện với môi trường và phù hợp
với điều kiện của Việt Nam.
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, quy chuẩn các chính sách pháp luật và các quy định về
quản lý và tái chế PTXD ở Việt Nam.
- Phát triển công nghệ mới và các loại vật liệu tái chế từ việc tận dụng hợp lý PTXD, ứng dụng
trong một số lĩnh vực như: vật liệu xây dựng; hạ tầng giao thông, kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi
trường ở Việt Nam, đặc biệt là ứng dụng trong xử lý ô nhiễm nguồn nước từ phế thải hữu cơ, ô nhiễm
dầu và kim loại nặng.
- Đề xuất mô hình kinh doanh chiến lược cho việc tái chế PTXD và kế hoạch khả thi tái chế PTXD
nhằm đáp ứng chiến lược Quốc gia về quản lý PTXD đến năm 2025 và tầm nhìn 2050.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và nhân sự quản lý PTXD ở Việt Nam, hướng tới phát triển bền
vững ngành xây dựng và vật liệu xây dựng.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Dự án Hợp tác nghiên cứu khoa học và công nghệ cho phát
triển bền vững (SATREPS), một chương trình của Chính phủ Nhật Bản dành cho nghiên cứu được
115
Tuân, N. K. và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng
JST-JICA tài trợ để thúc đẩy các nghiên cứu chung quốc tế nhắm vào các vấn đề môi trường toàn cầu.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) (2011). Báo cáo môi trường quốc gia 2011 - Chất thải rắn.
[2] Nghị quyết 34/2007/NQ-CP (2007). Giải pháp để thực hiện việc cải tạo, xây dựng lại các chung cư cũ bị
hư hỏng, xuống cấp.
[3] Quốc Hội (2014). Luật Xây dựng số 50/2014/QH13.
[4] Quốc Hội (2014). Luật Bảo vệ Môi trường số 55/2014/QH13.
[5] Nghị định số 12/2009/NĐ-CP (2009). Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
[6] TCVN 6705:2009. Chất thải rắn thông thường - Phân loại.
[7] Nghị định chính phủ số 38/2015/NĐ-CP (2015). Quản lý chất thải và phế thải.
[8] Quyết định số 609/QĐ-TTg (2014). Phê duyệt Quy hoạch xử lý chất thải rắn thủ đô Hà Nội đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2050.
[9] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016). Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia năm 2016.
[10] Urenco Hồ Chí Minh (2014). Khối lượng phế thải xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh. Công ty MTĐT
TP Hồ Chí Minh và Sở tài nguyên môi trường TP Hồ Chí Minh.
[11] Viet, L. H., Ngan, N. V. C., Hoang, N. X., Quynh, D. N., Songkasri, W., Stefan, C., Commins, T. (2009).
Legal and institutional framework for solid waste management in Vietnam. Asian Journal on Energy &
Environment, 10(4):261–272.
[12] Thanh, N. P., Matsui, Y. (2011). Municipal solid waste management in Vietnam: Status and the strategic
actions. International Journal of Environmental Research, 5(2):285–296.
[13] Nghị định chính phủ số 59/2007/NĐ-CP (2007). Quản lý chất thải rắn.
[14] Japan International Cooperation Agency (JICA) (2018). The project for capacity development on inte-
grated management of municipal solid waste in Vietnam: final report. Sustainable System Design Insti-
tute, Kokusai Kogyo Co., LTD.
[15] Thông tư số 08/2017/TT-BXD (2017). Quản lý chất thải rắn xây dựng.
[16] Quyết định 152/1999/QĐ-TTg (1999). Phê duyệt chiến lược phát triển chất thải rắn tại các đô thị và khu
công nghiệp Việt Nam đến năm 2020.
[17] Quyết định 256/2003/QĐ-TTg (2003). Phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020.
[18] Chỉ thị 23/2005/CT-TTg (2005). Đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn đô thị khu công nghiệp.
[19] Quyết định 491/QĐ-TTg (2018). Phê duyệt điều chỉnh chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải
rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.
[20] Quyết định 1216/QĐ-TTg (2012). Phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
[21] JICA (2007). Báo cáo Nghiên cứu về kiểm kê chất thải điện tử ở Việt Nam.
[22] JICA (2011). Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam.
[23] JICA (2011). Nghiên cứu Quản lý môi trường đô thị tại Việt Nam - Tập 6. Nghiên cứu về quản lý CTR ở
Việt Nam.
[24] JICA (2018). Báo cáo cuối kỳ. Dự án Tăng cường Năng lực Quản lý Tổng hợp Chất thải rắn Đô thị tại
Việt Nam.
[25] JST-JICA SATREPS. Project on establishment of environmentally sound management of construction
and demolition waste and its wise utilization for environmental pollution control and for new recycled
construction materials in Vietnam.
116

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_hien_trang_quan_ly_phe_thai_xay_dung_va_pha_do_o.pdf