Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế
Abstract: The improvement of teaching and learning English as a foreign language (EFL) or
English for specific purposes (ESP) is drawing a lot of concern. There have been many studies
mentioning the status of training and challenges of programs, curricula, teachers, students. This
article reflects the result of a research project on teaching and learning EFL and ESP in accordance
with the social needs. At the same time, it focuses on analyzing the needs of learners as a basic
element to decide on program, curriculum, teaching and assessment plans for basic and specialized
English subjects at universities within Hue University. On that basis, the article mentioned some
strategic proposals to improve the quality of English teaching and learning at Hue University.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh của các cán bộ công sở (viên chức) trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 259 NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH CỦA CÁC CÁN BỘ CÔNG SỞ (VIÊN CHỨC) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN - HUẾ Đỗ Thị Xuân Dung Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế Ngày nhận bài: 20/11/2018; ngày sửa chữa: 28/01/2019; ngày duyệt đăng: 01/03/2019. Abstract: The improvement of teaching and learning English as a foreign language (EFL) or English for specific purposes (ESP) is drawing a lot of concern. There have been many studies mentioning the status of training and challenges of programs, curricula, teachers, students... This article reflects the result of a research project on teaching and learning EFL and ESP in accordance with the social needs. At the same time, it focuses on analyzing the needs of learners as a basic element to decide on program, curriculum, teaching and assessment plans for basic and specialized English subjects at universities within Hue University. On that basis, the article mentioned some strategic proposals to improve the quality of English teaching and learning at Hue University. Keywords: Public officials, needs, English. 1. Mở đầu Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã đem đến cho con người những đổi thay có tính đột phá trên nhiều lĩnh vực. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, khả năng hòa nhập được mở rộng và nhu cầu của con người cũng không ngừng biến đổi về lượng lẫn về chất. Trong giao tiếp, giáo dục, ứng dụng khoa học kĩ thuật hay cả trong nghệ thuật, nhiều người trên thế giới đã chọn học tiếng Anh để làm phương tiện mở cánh cổng tri thức, và điều đó đã làm cho công tác dạy và học tiếng Anh trên toàn thế giới trở thành một mối quan tâm lớn. Các nhà khoa học, ngôn ngữ học và cả những người thực hành giảng dạy đều mong muốn nghiên cứu tìm ra cách tiếp cận ngôn ngữ này với những quan điểm hiện đại, để vừa hiểu được bản chất vấn đề vừa khai thác những phương pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Trong xu hướng chung về đào tạo tiếng Anh như một ngoại ngữ (Teaching English as a Foreign Language - TEFL), đã có nhiều nghiên cứu đề cập việc dạy và học tiếng Anh chuyên ngành (TACN) (English for Specific Purposes - ESP) cùng những thách thức về chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập loại hình tiếng Anh có tính chuyên biệt này. Xét về lí thuyết, việc đào tạo phải đạt được mục tiêu quy mô lớn về số lượng và đạt chuẩn về chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu của một đối tượng đào tạo đông đảo trong xã hội, và nhằm tạo ra những sản phẩm đào tạo có chất lượng thật sự - có nghĩa là người học phải dùng được tiếng Anh giao tiếp và chuyên ngành trong công việc của họ sau khi tốt nghiệp. Tuy nhiên, thực tế đào tạo TACN trong thời gian qua bộc lộ những khó khăn và hạn chế về nhiều mặt; dẫn đến việc nhiều cơ sở đào tạo không đạt được những mục tiêu mong muốn cũng như lãng phí về mặt tài chính khi đầu tư cho công tác này. Đứng trước những thách thức của toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường, việc đào tạo chất lượng kém và sản phẩm là những con người không thể sử dụng kiến thức và tay nghề đã được đào tạo để làm việc và làm việc hiệu quả đã không những gây tai tiếng cho công tác đào tạo mà còn góp phần tạo ra một bộ phận viên chức yếu kém về kiến thức, tay nghề hoặc không được đào tạo đúng chuyên môn công tác, hoặc không được làm việc đúng chuyên môn được học và làm việc không hiệu quả, không tạo ra đột phá về sản phẩm lao động cho xã hội. Trước tình hình đó, các trường đại học thành viên rất cần có những chương trình và cách thức đào tạo bài bản để SV của họ ra trường có thể sử dụng ngoại ngữ để giao tiếp và làm việc ngay tại các công sở trên cả nước. Năm 2008, Chính phủ đã phê duyệt đề án “Dạy và học Ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020” của Bộ GD-ĐT và giao nhiệm vụ cho Bộ là phấn đấu đạt mục tiêu 30% số cán bộ viên chức trong các cơ quan nhà nước có trình độ ngoại ngữ bậc 3 trở lên vào năm 2020. Một trong các giải pháp là đổi mới đồng bộ các yếu tố liên quan đến giảng dạy tiếng Anh ở các cấp để có thể đạt chuẩn và mục tiêu đề ra. Yêu cầu này càng đặt ra cho các nhà giáo dục một nhiệm vụ lớn về việc đào tạo cán bộ công chức bằng cách nào để số đông họ có thể sử dụng tiếng Anh trong công việc thành thạo và hiệu quả. Vì thế, bài báo này tập trung phân tích những cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đào tạo tiếng Anh theo nhu cầu thực sự của người học, đồng thời đề xuất những giải pháp để có được sự đầu tư thích đáng vào chương trình cũng như cách thức đào tạo và bồi dưỡng hiệu quả, đáp ứng đúng và đủ nhu cầu về sử dụng tiếng Anh để làm việc tại các công sở. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số khái niệm VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 260 2.1.1. Giảng dạy tiếng Anh và tiếng Anh chuyên ngành (ESP) để phục vụ công việc tương lai của người học Tiếng Anh đang được hàng trăm triệu người trên thế giới sử dụng như tiếng mẹ đẻ, hoặc ngôn ngữ thứ hai, hoặc là một ngoại ngữ. Việc giảng dạy tiếng Anh vì thế đã được quan tâm từ lâu. Đã có nhiều tên tuổi các nhà giáo, nhà ngôn ngữ, nhà khoa học nghiên cứu và biên soạn nhiều sách cho việc dạy tiếng Anh như Adrian Doff, Jeremy Harmer, Penny Ur, H.D.Brown..., trong đó các phương pháp tiếp cận lớp học tiếng Anh và dạy các kĩ năng cũng như các kiến thức ngôn ngữ đã được phân tích và cụ thể hóa trên cơ sở các lí thuết về tâm lí học, giáo dục học và các học thuyết khác về người dạy/ người học. Viết về TACN, tên tuổi của Hutchinson và Water (1987) đã đi vào lịch sử bởi những công trình nghiên cứu của các tác giả này đã giúp làm sang tỏ một khía cạnh quan trọng của tiếng Anh - đó là TACN. Đúng như tên gọi của nó, TACN là một loại tiếng Anh đặc biệt mà từ kiến thức đến kĩ năng thực hành đều nhằm phục vụ một chuyên ngành đặc biệt nào đó (kinh tế, y học, luật, kiến trúc, công nghệ thông tin...) về cả mục đích học thuật lẫn nghề nghiệp. Như vậy một người học TACN thành công phải là người biết đem kiến thức và kĩ năng được học ứng dụng vào công việc; có thể đọc sách, báo về chuyên ngành của mình, có thể dịch thuật tài liệu để bổ sung cho công việc, có thể viết báo cáo, thư tín, hoặc trả lời điện thoại, nói chuyện với người khác... ở những môi trường có sử dụng tiếng Anh để làm việc, hoặc có yếu tố nước ngoài trong một vài lĩnh vực làm việc. Các nghiên cứu của Zhang (2007) và Bouzidi (2009) đã chỉ ra rằng việc học TACN phải được xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của người học, từ những nhu cầu sử dụng ngôn ngữ để thực hiện các chức năng công việc tại công sở. Hutchinson & Water (1987) thì cho rằng dạy TACN phải dựa vào nhu cầu riêng biệt của người học trong chính chuyên ngành của họ. Những nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng nếu chỉ dừng lại ở việc dạy TACN theo phương cách giống như dạy tiếng Anh cơ bản ở các khóa học khác, thì bản thân từ TACN (ESP) và ý nghĩa sâu xa của nó sẽ không còn giá trị. Hơn nữa nếu những chú trọng vào giáo trình, chương trình, người dạy và cả người học không được quan tâm thỏa đáng thì công việc dạy TACN sẽ không đem lại hiệu quả đích thực (Widdowson, 1978; Savas, 2009; Luka, 2009). 2.1.2. Phân tích nhu cầu người học (needs analysis) - yếu tố đảm bảo việc đào tạo theo nhu cầu xã hội Một trong những tiêu chí quan trọng của một khóa học TACN là phân tích nhu cầu người học. Phân tích nhu cầu càng tích cực, chính xác bao nhiêu thì việc đáp ứng nhu cầu của người học trong các khóa học TACN càng đạt hiệu quả bấy nhiêu. Lawson (1979), Widdowson (1981), Hutchinson & Water (1987), Canale & Swales (1983) đã có những định nghĩa và phân tích về nhu cầu người học và đều hướng đến giải thích nhu cầu người học ngôn ngữ chính là những gì mà họ mong muốn thực hiện thông qua sử dụng phương tiện ngôn ngữ. Theo đó, phân tích nhu cầu người học là tiến hành những hoạt động để thu thập thông tin về những mong muốn, nhu cầu, nguyện vọng... của người học, để giúp hoạch định những mục tiêu chương trình đào tạo sao cho phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu đó. Đối với một khóa học TACN, nơi mà người dạy được yêu cầu cung cấp cho người học những kiến thức và kĩ năng tiếng Anh để họ có thể giao tiếp, sử dụng trong môi trường học tập và làm việc sau này, thì việc phân tích nhu cầu người học càng có ý nghĩa và là một tiêu chí có tính bắt buộc. Tuy nhiên, trong thực tế không phải tất cả mọi người nói chung và người học nói riêng đều có thể ý thức được hoặc xác định được nhu cầu thực sự của mình. Chính đặc điểm đặc biệt này giúp phân biệt nhu cầu của người học tiếng Anh nói chung và TACN nói riêng. Trong khi người học tiếng Anh chung ít khi xác định rõ mình đang có nhu cầu gì về khóa học, thì người học TACN thường có xu hướng xác định nhu cầu cụ thể hơn hoặc chính giáo viên, cơ sở đào tạo là những người giúp họ xác định nhu cầu của họ (Hutchinson & Water, 1987). 2.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các công sở chủ yếu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (15 công sở điển hình thuộc các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ, du lịch, giáo dục, y tế, các cơ quan hành chính công khác). Trong đó, đối tượng nghiên cứu chính là 150 cán bộ công chức đang làm việc tại các bộ phận khác nhau của các công sở (được chia thành các nhóm: lễ tân - đối ngoại; thư kí/văn phòng; quản lí/điều hành; kĩ thuật; phục vụ; phiên/biên dịch...). 10 cán bộ lãnh đạo chủ chốt và 10 cán bộ phụ trách bộ phận của 10 công sở điển hình cũng đã tham gia vào công trình nghiên cứu. 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau gồm khảo sát bằng phiếu điều tra, bảng hỏi, phiếu theo dõi công việc cá nhân trong nhiều tháng; phỏng vấn chi tiết có ghi âm; thực địa tại công sở và quay phim, chụp ảnh những mẫu giao tiếp có dùng tiếng Anh tại công sở; phương pháp phân tích và tổng hợp số liệu. 2.3. Kết quả nghiên cứu Sau đây là một số kết quả phân tích nhu cầu của đối tượng người làm việc tại các công sở thuộc phạm vi nghiên cứu: 2.3.1. Các chuyên ngành và công việc có yêu cầu sử dụng tiếng Anh Qua tìm hiểu, có thể nhận định về nhu cầu sử dụng tiếng Anh trong các chuyên ngành và công việc cụ thể của các công sở ở TTH như sau: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 261 - Không phải tất cả các công sở đang làm việc trên địa bàn tỉnh TTH đều có nhu cầu sử dụng tiếng Anh để làm việc hàng ngày hoặc có kế hoạch, nguyện vọng sử dụng tiếng Anh để làm đòn bẩy phát triển đơn vị. - Các chuyên ngành có sử dụng tiếng Anh để phục vụ mục đích công việc một cách thường xuyên và thiết yếu gồm: kinh doanh/dịch vụ, tài chính/ngân hàng, giáo dục, khoa học/công nghệ, thông tin-truyền thông, lâm nghiệp - nông nghiệp, ngoại giao, hàng không... Cũng do nghiệp vụ công tác yêu cầu mà các cán bộ công chức (của các đơn vị thuộc phạm vi nghiên cứu) ngoài việc dùng tiếng Anh thông thường để giao tiếp, còn phải sử dụng các thuật ngữ và vốn TACN của ngành mà mình đang làm việc (Ví dụ: tiếng Anh dùng trong lĩnh vực ngoại giao, lĩnh vực tài chính - ngân hàng, công nghệ thông tin...). - Các vị trí công tác có nhu cầu sử dụng tiếng Anh gồm từ nhân viên, chuyên viên... đến cấp lãnh đạo các cấp như quản đốc, tổ trưởng đến trưởng phòng, phó giám đốc. Mảng công việc có nhu cầu sử dụng tiếng Anh hoặc TACN để làm việc cũng rất đa dạng; từ bộ phận lễ tân đối ngoại, thủ tục tiếp đón cho đến các bộ phận chuyên môn sâu trong từng đơn vị như kĩ thuật, kinh doanh, thanh toán quốc tế... Điều này chứng tỏ tiếng Anh nói chung (tiếng Anh giao tiếp thông thường) và TACN (chuyên môn về các ngành riêng biệt) thuộc nhu cầu sử dụng và nhu cầu đào tạo của các công chức Thừa Thiên Huế là rất đa dạng. Nó cũng cho thấy những hàm ý quan trọng đối với Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế trong việc chọn các chuyên ngành Tiếng Anh chuyên sâu để đào tạo, nhằm thu hút tuyển sinh (ví dụ: TACN chuyên ngành du lịch - mảng lễ tân/đối ngoại, TACN ngân hàng - thanh toán quốc tế...). Như vậy, một số cơ quan công sở có nhu cầu sử dụng tiếng Anh rất cao và rất thường xuyên nhưng ở một số cơ quan khác thì nhu cầu dùng tiếng Anh là hơi khiêm tốn. Có thể nhu cầu dùng không cao và không thường xuyên là do yếu tố nước ngoài ở cơ quan đó chưa rõ nét, hoặc chưa thường xuyên, liên tục. Nếu xét riêng những đơn vị có nhu cầu sử dụng tiếng Anh cao, có thể kể đến: (1) Khách sạn, công ty du lịch (90-95% thường xuyên sử dụng); (2) Cơ quan ngoại giao, hợp tác quốc tế (80-90%) và (3) Các đơn vị có dự án, chương trình liên kết với nước ngoài (60-80%). Ngay cả trong mỗi cơ quan đơn vị thì mức độ thường xuyên này cũng khác nhau và tùy thuộc vào mỗi bộ phận công tác. Cán bộ công chức làm công tác lễ tân ở khách sạn, hướng dẫn viên du lịch, quầy giao dịch, quầy vé, tổ chức tour du lịch, phòng kinh doanh dịch vụ và trao đổi thương mại với nước ngoài... thì sử dụng tiếng Anh thường xuyên hơn ở các bộ phận khác. 2.3.2. Nhu cầu sử dụng tiếng Anh để giao tiếp Qua thông tin điều tra cá nhân và bảng theo dõi quá trình công tác của cán bộ tổ trưởng đối với nhân viên trong tổ của mình, chúng tôi có được những thông tin về nhu cầu sử dụng các kĩ năng thực hành cụ thể của tiếng Anh cơ bản như sau (xem bảng 1): Bảng 1. Mức độ thường xuyên (*) mà cán bộ sử dụng các kĩ năng thực hành của tiếng Anh cơ bản để làm việc Thực tế và nhu cầu sử dụng tiếng Anh cơ bản để làm việc Số lượng (N=150) Tỉ lệ % Nghe tiếng Anh (Listening) 83 55,33 Nói tiếng Anh (Speaking) 92 61,33 Đọc tiếng Anh (Reading) 74 49,33 Viết tiếng Anh (Writing) 68 45,33 Biên dịch tiếng Anh (Translation) 44 29,33 Phiên dịch tiếng Anh (Interpretation) 20 13,33 (*): thường xuyên trong ngữ cảnh này có nghĩa là các kĩ năng được sử dụng hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng hoặc có tính chất lặp đi lặp lại. Tuy nhiên nếu so sánh giữa các đơn vị thì không hoàn toàn có sự đồng đều về thực tế và nhu cầu sử dụng. Thông tin khác biệt về mức độ thường xuyên hoặc nổi trội về nhu cầu được trình bày trong bảng dưới đây (Theo thang điểm 1: sử dụng ít nhất 10: sử dụng nhiều nhất) (xem bảng 2). Bảng 2. Sự khác nhau trong mức độ thường xuyên sử dụng các kĩ năng tiếng Anh cơ bản của các đơn vị Cơ quan đơn vị Nghe Nói Đọc Viết Biên dịch Phiên dịch Bưu điện 7 9 3 2 0 0 Khách sạn 9 9 5 4 0 2 Công ty, dịch vụ du lịch 4 6 7 8 2 1 Ngân hàng 5 5 5 4 1 0 Cơ quan ngoại giao 6 7 8 8 9 8 Cơ sở đào tạo, giáo dục 3 4 9 9 1 1 Cơ quan nghiên cứu 9 7 8 6 7 2 Đơn vị hành chính 6 6 8 7 5 3 Dự án nước ngoài 4 5 3 3 5 4 Cảng hàng không 9 9 3 2 0 0 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 262 Rõ ràng yếu tố nước ngoài và mức độ nhu cầu giao tiếp của mỗi đơn vị có ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ thường xuyên sử dụng các kĩ năng tiếng Anh của cán bộ công chức. Những công sở có nhiều giao dịch với khách hàng là người nước ngoài, dự án nước ngoài, đối tác nước ngoài... thì mức độ sử dụng các kĩ năng như nghe - nói là rất thường xuyên (khách sạn, nhà hàng, dịch vụ hàng không, dự án nước ngoài, cơ quan ngoại giao...). Những công sở thiên về hành chính, nghiên cứu, cơ sở đào tạo, hợp tác quốc tế, dịch vụ du lịch khác... lại có xu hướng sử dụng nhiều hơn các kĩ năng đọc - viết. Phiên dịch và biên dịch là kĩ năng có mức độ sử dụng không thường xuyên và cũng không giống nhau giữa các đơn vị. Nổi trội nhất về mức độ thường xuyên phiên, biên dịch được tìm thấy các cơ quan ngoại giao hoặc bộ phận hợp tác quốc tế của các đơn vị. 2.3.3. Nhu cầu sử dụng tiếng Anh chuyên ngành để làm việc tại các công sở Tìm hiểu về thực tế sử dụng các kĩ năng tiếng Anh chuyên sâu trong những tình huống làm việc tại các công sở trong các lĩnh vực khác nhau, bản thân các cán bộ công chức và cấp quản lí trực tiếp của họ (xem bảng 3). Bảng 3. Mức độ thường xuyên sử dụng các kĩ năng chuyên sâu của tiếng Anh trong những tình huống làm việc Thực tế và nhu cầu sử dụng TACN để làm việc hàng ngày Số lượng (N=150) Tỉ lệ (%) Nghe bản tin trên đài, bài báo cáo, bài trình bày... bằng tiếng Anh 45 30,0 Nghe và nói chuyện, trao đổi công việc chuyên môn với bạn đồng nghiệp người nước ngoài 78 52,0 Giao tiếp (nghe-nói) với khách hàng, đối tác ... là người nước ngoài 68 45,33 Gọi điện và trả lời điện thoại trao đổi chuyên môn bằng tiếng Anh 61 40,66 Thuyết trình các bài báo cáo, số liệu, kết quả nghiên cứu 57 38,0 Trao đổi, bàn bạc, thương thuyết... hợp đồng, thanh toán quốc tế 34 22,66 Đọc tài liệu bằng tiếng Anh phục vụ công việc chuyên môn 97 64,66 Đọc thông tin bằng tiếng Anh trên Internet để phục vụ công việc 83 55,33 Đọc báo cáo, hợp đồng, thư tín, văn bản khác... bằng tiếng Anh 70 46,66 Viết báo cáo, thảo hợp đồng, viết thư tín, viết email... 71 47,33 Biên dịch tài liệu Anh - Việt và Việt - Anh (hợp đồng, báo cáo, thư tín...) thuộc lĩnh vực chuyên môn 62 41,33 Phiên dịch hội thảo, hội nghị... chuyên môn của cơ quan đơn vị 10 6,66 Phiên dịch cho khách của cơ quan trong những cuộc họp chuyên môn 23 15,33 Phiên dịch cho lãnh đạo cơ quan đi công tác nước ngoài, làm việc với khách nước ngoài về công tác chuyên môn 13 8,66 Thực tế sử dụng các tiểu kĩ năng (sub-skills) của tiếng Anh trong những tình huống làm việc của các cán bộ công chức trong bảng 3 nói lên một thực trạng rằng tuy mức độ thường xuyên sử dụng mỗi tiểu kĩ năng không cao (xấp xỉ 50-60%), nhưng mặt bằng chung giữa các kĩ năng là khá đồng đều. Ngoại trừ những kĩ năng thuộc về nhóm phiên - biên dịch với nhu cầu sử dụng khá khiêm tốn (ít hơn 20%), các kĩ năng còn lại đều đạt từ khoảng 40-60%. 2.4. Một số đề xuất và kiến nghị Từ việc tìm nhu cầu người học tại các công sở trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế để làm hàm ý cho việc biên soạn chương trình, giáo trình, xây dựng phương pháp tổ chức lớp học tiếng Anh cơ bản và chuyên ngành tại Đại học Huế, chúng tôi xin được có một số đề xuất như sau: 2.4.1. Biên soạn chương trình và giáo trình Để đạt được những kết quả rõ nét trong công tác đào tạo tiếng Anh cho người lao động có thể sử dụng được trong công việc, những chuyên gia biên soạn chương trình và giáo trình cần chú ý hơn nữa yếu tố nhu cầu thực tế của người học và yếu tố vận dụng tài liệu dạy học cũng như những chủ điểm, khối kiến thức và kĩ năng phù hợp với đối tượng người học. Thời lượng phân bổ cũng cần được tổ chức hợp lí và khoa học hơn. Chương trình và giáo trình được biên soạn có tính đến yếu tố nhu cầu người học sẽ tránh làm cho người học hụt hẫng, nhàm chán vì phải luyện tập tiếng Anh hoặc TACN trong những môi trường “khô cứng”, tình huống xa lạ với thực tế công việc, không có tính “thực” (authentic). Dựa trên những kết quả nghiên cứu của đề tài về nhu cầu người học và cũng chính là nhu cầu thực sự của họ khi làm việc, chương trình và giáo trình cần thiết phải có sự cân đối giữa các khối kiến thức và kĩ năng như đã tìm hiểu về nhu cầu, nếu áp dụng cho đối tượng đào tạo tại tỉnh Thừa Thiên Huế hoặc một số khu vực lân cận. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 259-263; 258 263 2.4.2. Thực nghiệm và triển khai chương trình Dựa trên các kết quả điều tra về nhu cầu người học đối với cách thức tổ chức lớp học, các khoá học phải được tổ chức phù hợp với điều kiện khách quan, điều kiện người học, khả năng nắm bắt, điều kiện thời gian và không gian, nhu cầu thực tế của từng nhóm người học... Cụ thể, khóa học tiếng Anh và TACN sẽ đạt được những kết quả như mong đợi nếu các lớp học đều được khảo sát đầu vào để phân lớp theo tình hình thực tế hoặc theo nhóm cùng nguyện vọng và điều kiện. Các khóa học tiếng Anh và TACN còn có thể thành công hơn khi trong chương trình tổ chức cho học viên những cơ hội luyện tập sát với thực tế công việc, những dịp tham quan học tập tại các công sở có chuyên môn tương tự với nhu cầu công việc định hướng của học viên (công ty nước ngoài hoặc liên doanh nước ngoài; hoặc đơn giản chỉ là những tình huống mô phỏng với dụng ý luyện tập tiếng Anh trong môi trường làm việc thật). 2.4.3. Tiếp cận tài liệu dạy học hiện đại Trong các yếu tố liên quan đến một khoá học TACN, tài liệu dạy học được xem là một nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của khóa học. Nhiều bộ sách dạy tiếng Anh giao tiếp và phát triển kĩ năng đã được nhập khẩu của các nhà xuất bản có tiếng trên thế giới như Oxford, Longman, Cambridge. Nhưng tài liệu giảng dạy TACN thì chưa được quan tâm đúng mức. Giáo trình giảng dạy tiếng Anh cho người làm việc tại công sở hiện nay vẫn là những bộ sách đã được xuất bản cách đây khá lâu nên ngôn ngữ và hoạt động phát triển kĩ năng chưa có nhiều cải tiến cho phù hợp với môi trường học tập mới. Riêng đối với tài liệu giảng dạy TACN cho các đối tượng sinh viên của các ngành khoa học khác (không phải ngôn ngữ) thì chỉ mới dừng lại ở một số giáo trình tiếng Anh thương mại của nước ngoài và đa số là của các hội đồng khoa học hoặc giáo viên các trường tự soạn. Nội dung các bài học chủ yếu là để giúp học viên tiếp thu một khối lượng từ vựng học thuật chuyên ngành khá lớn và hoạt động phát triển kĩ năng thì rất sơ sài, đôi khi chỉ thiên về dịch thuật hoặc bài tập củng cố từ vựng. Từ thực tế này và từ những kiến nghị của chính người học, cần phải có một chiến lược tiếp cận tài liệu dạy học hiện đại để học viên có thể rèn luyện kĩ năng và tiếp thu kiến thức TACN phù hợp với ngành nghề một cách khoa học. Hiện nay các nhà xuất bản có tiếng như Oxford, Cambridge hay Longman, McGrawHill đã cho xuất bản hàng loạt bộ sách mới để giảng dạy môn tiếng Anh thương mại, tiếng Anh công sở, tiếng Anh dành cho người bán hàng (hoặc tiếng Anh thư kí, tiếng Anh trình bày, tiếng Anh thương lượng, tiếng Anh hướng dẫn du lịch...). Đây là những loại sách được biên soạn theo phong cách giao tiếp với nhiều hoạt động đề nghị và khối kiến thức phong phú, mục đích rèn luyện kĩ năng toàn diện và tình huống gần với thực tế. 2.4.4. Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên Để giảng dạy tiếng Anh hiệu quả cho đối tượng cán bộ công chức, cần phải có chế độ đào tạo giáo viên bài bản và bồi dưỡng giáo viên thường xuyên. Theo đó, các khoá bồi dưỡng giáo viên phải được tổ chức thích hợp về thời gian, trình độ và điều kiện tham gia. Chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên phải có những thay đổi về phương pháp tiếp cận hoạt động dạy học, người học và tài liệu hiện đại. Phải làm cho giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc tiếp cận người học và cách thức hướng hoạt động học thành hoạt động nhắm vào người học, phục vụ người học, phát huy tính chủ động tự học của người học. 2.4.5. Thay đổi thói quen, nhận thức của sinh viên về việc học để đáp ứng nhu cầu xã hội Từ trước đến nay, học sinh, sinh viên và cả những học viên đã đi làm khi được học tiếng Anh đều có thể nêu những lí do khác nhau, nhưng ít người xác định rõ mình học vì cái gì, để làm việc gì sau khi kết thúc khóa học. Lí do có thể khách quan hoặc chủ quan nhưng đã có rất nhiều sinh viên, học viên nêu những lí do rất chung rằng họ học vì mọi người xung quanh đã học; hoặc họ không muốn mình thua kém... Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu thay đổi được nhận thức và thói quen của sinh viên, học viên về việc xác định mục tiêu học tiêu của việc học tiếng Anh và TACN là để phục vụ công việc, để đáp ứng nhu cầu xã hội... thì kết quả đào tạo sẽ có nhiều khác biệt. Động cơ học tập rõ ràng và kế hoạch học tập chi tiết, phù hợp sẽ giúp học viên tiết kiệm thời gian, tăng tính hiệu quả và trở nên yêu thích việc học hoặc nhận thấy việc học có ý nghĩa và cần phấn đấu. 3. Kết luận Việc có hay không một lộ trình đào tạo tiếng Anh theo hướng chú trọng vào người học, đáp ứng nhu cầu của người học không phải là đơn giản, nhưng lại là một việc rất nên làm, và nên làm càng sớm càng tốt. Khi chưa có sự phân tích kĩ càng và toàn diện nhu cầu thực sự của người làm việc, thì khó lòng tạo ra một chương trình hoặc giáo trình tốt hoặc tổ chức lớp học hay và đạt hiệu quả tối ưu. Khi mà toàn xã hội đang tích cực xây dựng những mô hình kinh tế, giáo dục, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe... hướng đến nhu cầu của con người, phục vụ chính cái mà con người cần thì việc tổ chức đào tạo tiếng Anh cơ bản và chuyên ngành theo nhu cầu xã hội như đã đề cập sẽ giúp tiết kiệm được nhiều tiền của và công sức của các đơn vị đào tạo, và đồng thời tạo ra cho xã hội nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ thành thạo để bắt kịp với xu hướng hiện đại hóa, toàn cầu hóa hiện nay. (Xem tiếp trang 258) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 254-258 258 các yếu tố văn hoá giáo dục, kết hợp hài hoà giữa phương Đông và phương Tây để hạn chế những “rào cản” cho việc áp dụng cộng đồng học tập [8]. Vì đặc thù các trường hiện đang đào tạo ngành Quản lí công ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước nên cộng đồng học tập của SV này cũng phải được lựa chọn những hình thức, cách thức tổ chức cho phù hợp, hiệu quả nhằm thu hút được số đông SV tham gia. Mức độ đa dạng của cộng đồng sẽ càng giúp nâng cao hiệu quả của việc đào tạo ngành này nói chung và việc dạy học các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh nói riêng. 3. Kết luận Tổ chức giảng dạy học phần chuyên ngành Quản lí công bằng tiếng Anh là một hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế và đòi hỏi thực tiễn hiện nay. Điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo vừa phải tháo gỡ những bất cập chung thường gặp vừa phải có kế hoạch triển khai với một ngành mang tính đặc thù. Các trường đại học không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín của mình mà còn đem lại nhiều lợi ích cho cả GV và SV. Một số giải pháp được đề xuất trong bài viết này có thể là sự tham khảo cho các cơ sở đào tạo trong việc khắc phục những bất cập để có thể thực hiện có hiệu quả việc giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh trong đào tạo cử nhân Quản lí công nhằm góp phần đào tạo nhân lực chất lượng cao ngành này ở Việt Nam. Tài liệu tham khảo [1] European Commission (2010). European Language Policy and CLIL: A Selection of EU funded Projects. [2] Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 2080/QĐ-TTg ngày 22/12/2017 về phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. [3] Quốc hội (2018). Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. [4] Tar I. - Varga K. C. - Wiwczaroski T. B. (2009). Imrpoving ESP Teaching through Collaboration: The Situation in Hungary. ESP World, Issue 1 (22), Vol. 8, pp. 46-51. [5] Zohreh Molaee - Fariborz Dortaj (2015). Improving L2 Learning: An ARCS Instructional-motivational Approach. Procedia - Social and Behavioral Sciences, Vol. 171, pp. 1214-1222. [6] Trần Thị Thanh Thủy - Hà Hồng Nga (2015). Thực trạng dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Thách thức và giải pháp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 60 (6), tr 124-130. [7] Nguyễn Thị Thanh Vân (2014). Nâng cao vốn từ vựng tiếng Anh chuyên ngành qua hoạt động cá nhân. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11 (229), tr 47-50. [8] Nguyễn Thị Mai Hương - Nguyễn Thị Mộc Lan (2017). Xây dựng cộng đồng học tập tiếng Anh: Những vấn đề cần suy nghĩ khi lựa chọn mô hình học tập của phương Tây. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Khoa học xã hội), số 62 (11), tr 126-133. NGHIÊN CỨU NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH... (Tiếp theo trang 263) Tài liệu tham khảo [1] Bouzidi H. (2009). Between the ESP Classroom and the Workplace: Bridging the Gap. English Teaching Forum, No. 3. [2] Canale, M. and Swain, M. (1980). Theoretical bases of communicative approaches to second language teaching and testing. Applied Linguistics 1, pp. 1-47. [3] Hutchinson, T. and A. Water (1987). English for Specific Purposes: A Learning centred Approach. Cambridge: CUP. [4] Lawson, K. H. (1979). Philosophical Concepts and Values in Adult Education. Milton: Open University. [5] Luka, I. (2009). Development of Students’ English for Specific Purposes. Competence in Tourism Studies at tertiary Level. English for Specific Purposes World, Issue 4 (25), Vol. 8, Online Journal for Teachers at retrieved on 12 March 2010. [6] Savas, B. (2009). Role of Functional Academic Literacy in ESP teaching: ESP Teacher Training in Turkey for Sustainable Development. The Journal of International Social Research, Vol. 2/9. [7] Widdowson, H. G. (1978). Teaching Language as Communication. London: OUP. [8] Widdowson, H.G. (1981). English for Specific Purposes: Criteria for Course Design in English for Academic and Technological Purposes. Eds. L. Selinker, E. Tarone, and V. Hanzeli Rowley. Mass; Newburry. [9] Zhang, Zuocheng (2007). Towards an Integrated Approach to Teaching Business English: A Chinese Experience. English for Specific Purposes, Vol. 26, No. 4, pp. 399-410.
File đính kèm:
- nghien_cuu_nhu_cau_hoc_tieng_anh_cua_cac_can_bo_cong_so_vien.pdf