Nghiên cứu thực nghiệm xác định các thông số hợp lý về cấu trúc khi phân đoạn cột bua nước nhằm nâng cao hiệu quả công tác nổ mìn trên các mỏ lộ thiên

Một trong những phương pháp điều khiển năng lượng nổ mìn để phá vỡ đất

đá đó là điều chỉnh các thông số xung nổ với việc thay đổi vật liệu và cấu trúc

cột bua trong lỗ khoan. Vật liệu làm bua và cấu trúc cột bua có ảnh hưởng

đến mức độ sử dụng năng lượng của vụ nổ và kéo dài thời gian tác dụng nổ.

Áp dụng cấu trúc cột bua hợp lý sẽ tạo ra xung nổ có dạng hợp lý hơn, vùng

đập vỡ có điều khiển rộng hơn, và đập vỡ đất đá đồng đều hơn. Việc xác định

tối ưu các thông số của chiều cao cột bua là một trong những phương pháp

cho phép giải quyết các vấn đề điều khiển chất lượng đập vỡ đất đá và đảm

bảo an toàn cho các công trình cần bảo vệ nằm trong bán kính nguy hiểm

về sóng đập không khí khi tiến hành nổ mìn

pdf 8 trang yennguyen 4380
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thực nghiệm xác định các thông số hợp lý về cấu trúc khi phân đoạn cột bua nước nhằm nâng cao hiệu quả công tác nổ mìn trên các mỏ lộ thiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu thực nghiệm xác định các thông số hợp lý về cấu trúc khi phân đoạn cột bua nước nhằm nâng cao hiệu quả công tác nổ mìn trên các mỏ lộ thiên

Nghiên cứu thực nghiệm xác định các thông số hợp lý về cấu trúc khi phân đoạn cột bua nước nhằm nâng cao hiệu quả công tác nổ mìn trên các mỏ lộ thiên
 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 58, Kỳ 5 (2017) 431-438 431 
Nghiên cứu thực nghiệm xác định các thông số hợp lý về cấu 
trúc khi phân đoạn cột bua nước nhằm nâng cao hiệu quả công 
tác nổ mìn trên các mỏ lộ thiên 
Trần Quang Hiếu *, Bùi Xuân Nam 
Khoa Mỏ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT 
Quá trình: 
Nhận bài 15/08/2017 
Chấp nhận 18/10/2017 
Đăng online 30/10/2017 
 Một trong những phương pháp điều khiển năng lượng nổ mìn để phá vỡ đất 
đá đó là điều chỉnh các thông số xung nổ với việc thay đổi vật liệu và cấu trúc 
cột bua trong lỗ khoan. Vật liệu làm bua và cấu trúc cột bua có ảnh hưởng 
đến mức độ sử dụng năng lượng của vụ nổ và kéo dài thời gian tác dụng nổ. 
Áp dụng cấu trúc cột bua hợp lý sẽ tạo ra xung nổ có dạng hợp lý hơn, vùng 
đập vỡ có điều khiển rộng hơn, và đập vỡ đất đá đồng đều hơn. Việc xác định 
tối ưu các thông số của chiều cao cột bua là một trong những phương pháp 
cho phép giải quyết các vấn đề điều khiển chất lượng đập vỡ đất đá và đảm 
bảo an toàn cho các công trình cần bảo vệ nằm trong bán kính nguy hiểm 
về sóng đập không khí khi tiến hành nổ mìn. 
© 2017 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. 
Từ khóa: 
Mỏ lộ thiên 
Bua mìn 
Bua nước 
Đá quá cỡ 
1. Đặt vấn đề 
1.1. Khái niệm chung về bua mìn 
Bua mìn trên mỏ lộ thiên là những vật liệu trơ 
(đất đá hạt nhỏ (phoi khoan), cát, đất sét, chất dính 
kết, nước, không khí.v.v.... hoặc hỗn hợp giữa các 
vật liệu này. Vật liệu bua được nạp vào một phần 
hay nhiều phần của lỗ khoan hoặc đắp lên khối 
thuốc nổ trên đối tượng cần nổ nhằm nâng cao 
hiệu quả phá vỡ đất đá và bảo vệ môi trường xung 
quanh (Nguyễn Đình An và nnk., 2011; Nhữ Văn 
Bách và nnk., 2006; Lê Ngọc Ninh và Trần Quang 
Hiếu., 2010; Tran Quang Hieu et al., 2014). 
Phương pháp nổ mìn phân đoạn cột bua nói chung 
là phương pháp làm thay đổi cấu tạo cột bua liên 
tục trong lỗ khoan phân và chia chúng thành hai 
hay nhiều đoạn. Giữa các đoạn thuốc là đất đá hạt 
nhỏ, cát, đất sét, chất dính kết, nước hoặc không 
khí (Hình 1). 
1.2. Tác dụng của bua mìn 
Bua mìn là thông số quan trọng trong các 
thông nổ mìn trên mỏ lộ thiên. Trong công tác 
khoan nổ mìn, khi khoan vào đất đá cứng và độ 
mài mòn lớn, khâu khoan tốn nhiều công sức và 
chi phí so với khâu nổ. Vì vậy, cần phải sử dụng tối 
đa chiều sâu và dung tích của lỗ khoan. Điều này 
có liên quan đến vai trò nạp bua, thay đổi cấu trúc 
cột bua trong lỗ mìn và xác định các thông số 
khoan nổ, đặc biệt là chiều dài bua cần thiết nhằm
_____________________ 
*Tác giả liên hệ 
E-mail: tranquanghieu@humg.edu.vn 
432 Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 
 nâng cao những tác dụng có lợi khi nổ 
(Drukovanui, 1973; Ganaponxki et al., 2007; 
Xadopxki, 2004; Kutudop, 2009). 
Khi sử dụng vật liệu bua và cấu trúc cột bua 
hợp lý sẽ mang lại những tác dụng có lợi như sau: 
- Khi nổ, đất đá không bị văng về phía miệng 
lỗ khoan, chống được tổn thất năng lượng trong 
quá trình kích nổ chất nổ, thúc đẩy kích nổ hoàn 
toàn và giải phóng năng lượng tối đa; 
- Tạo điều kiện hoàn thành phản ứng phân 
huỷ lần thứ hai trong sản phẩm kích nổ và tăng 
được năng lượng nổ; 
- Tăng thời hạn tác dụng của sản phẩm kích 
nổ và kéo dài trạng thái căng của đất đá, nhất là khi 
sử dụng lỗ mìn phân đoạn không khí; 
- Ngăn cản, giảm sự tạo thành sóng đập trong 
không khí; 
- Giảm số lượng khí độc trong sản phẩm kích 
nổ và giảm thiểu sự bay xa của các cục đá và bụi. 
Điều này có ý nghĩa rất lớn trong công tác an toàn 
và bảo vệ môi trường. 
1.3. Ảnh hưởng của bua nước đến công tác nổ 
mìn 
Trước đây, vấn đề sử dụng bua nước trong 
công tác nổ mìn trên các mỏ lộ thiên ở Việt Nam 
chỉ được dùng để nổ các lỗ mìn có đường kính và 
chiều sâu nhỏ (phá đá quá cỡ), bua nước chưa 
được áp dụng rộng rãi cho các lỗ khoan đường 
kính lớn và trung bình, vì một số lý do: 
- Không thể nạp bua nước vào các lỗ khoan có 
đất đá nứt nẻ; 
- Không thể sử dụng bua nước đối với các loại 
thuốc nổ không chịu nước. 
Ngày nay, công nghệ màng mỏng polyme 
không ngừng phát triển, người ta đã sản xuất được 
các loại màng mỏng bền, giá thành thấp và các kích 
cỡ khác nhau, rất phù hợp cho việc làm các túi 
chứa bua nước nạp vào lỗ khoan. 
Hình 1. Các loại cấu trúc cột bua sử dụng nổ mìn trên mỏ lộ thiên; 
 1- Thuốc nổ; 2- bua mìn (vật liệu rắn); 3- khoảng trống không khí; 4- bua nước; 
(a) Cấu trúc bua vật liệu rắn liên tục; (b) bua vật liệu rắn bị phân đoạn bởi khoảng trống không khí ở 
giữa; (c) Cấu trúc cột bua nước liên tục; (d) bua vật liệu rắn kết hợp bua nước phía dưới; (e) bua vật 
liệu rắn kết hợp bua nước phía trên; (f) bua nước bị phân đoạn bởi bua vật liệu rắn phía trên và dưới; 
(g) bua vật liệu rắn bị phân đoạn bởi bua nước phía trên và dưới. 
Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 433 
Bua nước được đóng gói trong các túi nhựa 
dẻo dày 2mm. Nó cho phép sử dụng năng lượng 
thuốc nổ hầu như tối đa và có thể giảm lượng 
thuốc nổ từ 2  3 lần. Theo kinh nghiệm của người 
Đức (Siskind, 1980), bua hỗn hợp nước có thể làm 
giảm 70  80% bụi và 10  17% chi phí thuốc nổ 
và ở CHLB Nga (Ganaponxki et al., 2007; 
Xadopxki, 2004; Kutudop, 2009) người ta tiến 
hành nghiên cứu các thành phần mới của các loại 
bột nhão làm vật liệu bua và chủ yếu quy lại ở việc 
sử dụng thành phần giàu oxi và đưa vào các chất 
hoạt tính hoá học, cho phép loại trừ các sản phẩm 
nổ độc hại như: (NH4)2S2O8 hoặc AlK(SO4).12.H2O 
và đã đem lại hiệu quả an toàn cao. 
2. Xác định các thông số hợp lý khi sử dụng cấu 
trúc phân đoạn cột bua nước khi nổ mìn thực 
nghiệm trên mỏ Núi Béo 
2.1. Vị trí thi công nổ mìn thực nghiệm 
- Vị trí khu vực nổ mìn thực nghiệm được tiến 
hành thử nghiệm tại mức +00m, khu vực phía 
Nam, khai trường Vỉa 11 Công ty Cổ phần Than 
Núi Béo - Vinacomin. Khu vực nổ mìn nằm trong 
vùng tọa độ: 
X = 19.030 ÷ 19.056; Y = 36.278 ÷ 36.400; Z = +00 
- Khu vực đặt máy đo chấn động: mức +19 m 
về phía Đông Nam khu vực bãi thử nghiệm với 
khoảng cách đo 100 - 250 m (Hình 2). 
- Mục đích của việc thực nghiệm để so sánh 
và xác định hiệu quả nổ mìn về chất lượng đập vỡ 
đất đá và mức độ giảm thiểu sóng va đập không 
khí khi áp dụng cấu trúc phân đoạn cột bua nước 
so với phương pháp sử dụng cột bua truyền thông 
đang sử dụng trên mỏ. 
2.2. Tổ chức thực hiện nổ mìn thực nghiệm 
2.2.1. Khối lượng thực hiện 
Tổng số lỗ khoan thực hiện theo phương án là 
10 lỗ (có 05 lỗ khoan nổ mìn thử nghiệm và 05 lỗ 
khoan nổ mìn thông thường); Tổng chiều sâu lỗ 
khoan: 75 m; Tổng khối lượng đất đá: 2.396 m3; 
Tổng số thuốc nổ quy chuẩn theo Anfo: 1.150 kg; 
Khối lượng bua cát: 1,215 m3; Khối lượng nước: 
0,507 m3; Số lượng phễu: 05 chiếc (Hình 3); Ống 
nilon đựng nước: 05 ống, ống có đường kính bằng 
đường kính lỗ khoan và chiều dài bằng chiều cao 
Hình 2. Toàn cảnh vị trí nổ mìn thực nghiệm tại khai trường vỉa 11 - mỏ Núi Béo. 
Hình 3. Sản xuất phễu nổ thực nghiệm. 
434 Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 
cột bua xác định theo tính toán. Phễu nổ kết hợp 
với các ông nilon dùng để rót nước vào trong ống 
và ngăn cách giữa bua cát phía trên và bua nước ở 
dưới (Hình 4). 
2.2.2. Thi công nổ mìn theo hộ chiếu 
- Tiến hành nổ 10 bãi mìn (mỗi bãi nổ 1 lỗ) với 
đường kính lỗ khoan d= 230 mm. Trong quá trình 
thi công nạp mìn, tiến hành nổ thực nghiệm 05 lỗ 
khoan có cấu trúc cột bua cát nạp liên tục (hình 4a) 
và 05 lỗ khoan có cấu trúc phân đoạn cột bua nước 
ở giữa bua cát (hình 4b) theo đề xuất để nổ mìn 
đối chứng đánh giá hiệu quả vụ nổ (hình 4). 
- Quy mô vụ nổ, phương pháp và phương tiện 
nổ mìn thực hiện theo các hộ chiếu nổ mìn số 485, 
486, 487, 488, 489, 490, 491, 492, 493, 494 do 
nhóm nghiên cứu và Công ty Công nghiệp Hóa 
chất mỏ Quảng Ninh lập (Bảng 1). 
- Sau khi nạp thuốc và mồi nổ theo chiều cao 
thiết kế, tiến hành nạp bua cát, nạp hết bua cát đến 
chiều cao thiết kế tiến hành thi công nạp bua nước 
vào trong lỗ khoan (sơ đồ bố trí lượng thuốc, bua 
thể hiện trong Hình 4), quá trình nạp bua nước 
vào trong lỗ khoan được tiến hành như sau: 
- Chiều dài ống nilon được cắt theo chiều cao 
cột bua nước lên đến miệng lỗ khoan, phần trên 
miệng túi nilon được luồn qua phễu đưa lên 
mặt đất để tiến hành đổ nước vào trong túi; 
- Dùng xô để lấy nước từ xe chở nước, sau đó 
nước được đổ vào trong ống nilon đến chiều cao 
thiết kế; 
-Nạp hết chiều cao cột bua nước, tiến hành 
nạp bua cát đến hết chiều cao miệng lỗ khoan. 
Phần miệng ống nilon sẽ được buộc túm lại để giữ 
nước và đặt trên mặt bãi khoan; 
- Sau khi nạp xong tiến hành đấu ghép mạng 
nổ và tiến hành nổ mìn, dùng máy đo chấn động 
để khảo sát, so sánh mức độ sóng va đập không khí 
giữa các lỗ khoan có cấu trúc bua truyền thống (a) 
và các lỗ khoan sử dụng cấu trúc phân đoạn cột 
bua nước (b). 
2.2.3. Thiết bị đo sóng va đập không khí 
Sử dụng máy đo chấn động Blastmate III 
(Hình 5) do Instantel - Canada sản xuất có các 
thông số sau: Dải đặc tính tần số: Từ 2 ÷ 200 Hz; 
Thang đo vận tốc phần tử tối thiểu: Từ 0,1 ÷ 254 
mm/s; Thang đo mức âm: Từ 100 ÷ 148 dB. 
Quá trình đo sóng va đập không khí tại khai 
trường vỉa 11. Các đầu đo chấn động Geophone 
được cố định bằng cách đào hố và chôn chặt, 
Microphone đo sóng va đập không khí được cắm 
theo hướng thẳng đến vị trí nổ mìn. Khoảng cách 
từ vị trí bãi mìn đến máy đo được xác định bằng 
máy GPS. 
2.2.4. Các thông số nổ mìn thực nghiệm tính toán 
Trên cơ sở các thông số nổ mìn, quy mô vụ nổ, 
phương tiện và phương pháp nổ mìn thử nghiệm 
và đối chứng theo hộ chiếu số 485, 486, 487, 488, 
489, 490, 491,492,493, 494 do nhóm nghiên cứu 
lập, các vụ nổ tiến hành đảm bảo an toàn. Các 
thông số nổ mìn thực nghiệm tính toán trình bày 
trong Bảng 1.
Hình 4. Sơ đồ bố trí lượng thuốc nổ và cấu trúc 
cột bua trong lỗ khoan; (a) Phương pháp cột bua 
truyền thống; (b) Phương pháp thực nghiệm; 1- 
lỗ khoan; 2- thuốc nổ; 3- bua cát; 4- bua nước; 
Lt- chiều cao cột thuốc, m; Lb- chiều cao cột bua, 
m; Lbn- chiều cao cột bua nước phân đoạn ở 
giữa, m; Lb1, Lb2- chiều cao cột bua cát phía trên 
và dưới, m. 
Hình 5. Vị trí đặt máy đo chấn động Blastmate III. 
Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 435 
Phương 
án nổ 
Số LK/ 
số HC 
Chiều sâu 
lỗ khoan 
Lk, m 
Chiều 
cao cột 
thuốc Lt, 
m 
Các thông số chiều cao cột bua, m 
Tổng chiều 
cao cột bua 
Lb, m 
Chiều cao cột 
bua nước ở 
giữa Lbn, m 
Chiều cao cột 
bua cát phí 
dưới lb2, m 
Chiều cao cột 
bua cát phí 
trên lb1, m 
Cấu trúc 
cột bua 
truyền 
thống 
1/490 6,0 3,6 2,4 
10/491 7,0 3,6 3,4 
14/492 7,5 3,6 3,9 
25/493 8,0 3,6 4,4 
29/494 9,0 3,6 5,4 
Cấu trúc 
phân 
đoạn cột 
bua nước 
21/487 6,0 3,6 2,4 1,3 0,55 0,55 
22/488 7,0 3,6 3,4 2,6 0,40 0,40 
12/485 7,5 3,6 3,9 2,3 0,80 0,80 
27/489 8,0 3,6 4,4 3,1 0,65 0,65 
17/486 9,0 3,6 5,4 2,6 1,40 1,40 
Cấu 
trúc cột 
bua 
Số LK/ 
số HC 
Chiều sâu 
lỗ khoan 
Lk, m 
Khối lượng 
thuốc nổ Q, 
kg 
Khoảng cách từ 
bãi nổ đến vị trí 
đặt máy đo R, m 
Hệ số tỷ lệ 
khoảng cách 
3/R Q , m/kg1/3 
Áp lực sóng 
đập không 
khí P, Pа 
Tỷ lệ đá 
quá cỡ, % 
Cấu 
trúc cột 
bua a 
1/490 6,0 
115 
208 42,77 9,0 
3,60 
10/491 7,0 157 32,28 14,8 
14/492 7,5 233 47,91 6,75 
25/493 8,0 183 37,63 13 
29/494 9,0 166 34,14 13,5 
Cấu 
trúc cột 
bua b 
21/487 6,0 
115 
208 42,77 8,25 
2,40 
22/488 7,0 157 32,28 11,5 
12/485 7,5 233 47,91 3,5 
27/489 8,0 183 37,63 10,8 
17/486 9,0 166 34,14 11,8 
2.3. Kết quả nổ thực nghiệm 
Các kết quả đo sóng chấn động và sóng va đập 
không khí bằng máy đo chấn động “Blastmate III” 
được trình bày trong Bảng 2 và Hình 7, Hình 8, 
Hình 9. 
Tiến hành đo kích thước cỡ hạt đống đá nổ 
mìn và tỷ lệ đá quá cỡ phát sinh trong đống đá thu 
được từ 2 bãi nổ của 2 phương án thử nghiệm
Bảng 1. Các thông số nổ mìn thực nghiệm tính toán. 
Hình 6. Một số hình ảnh nổ mìn thực nghiệm tại khai trường vỉa 11. 
Bảng 2. Kết quả đo sóng va đập không khí và tỷ lệ đá quá cỡ trung bình tại mỏ Núi Béo theo 
phương án thực nghiệm 
436 Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 
(Hình 8) thấy rằng: tỷ lệ đá quá cỡ phát sinh 
khi nổ theo phương án (a) chiếm trung bình 3,6% 
và nổ theo phương án (b) chiếm trung bình là 
2,4%. Như vậy, so với phương án nạp bua truyền 
thống (a) thì phương án thử nghiệm cho phép 
giảm tỷ lệ đá quá cỡ. 
Từ kết quả đo sóng va đập không khí tổng 
hợp, phân tích trong Bảng 2 và Hình 9 cho thấy, 
khi nổ mìn sử dụng cấu trúc phân đoạn cột bua 
nước (b) cho phép giảm áp lực sóng va đập không 
khí so với phương pháp nổ mìn sử dụng cấu trúc 
bua truyền thống (a) từ 1,2 ÷ 1,5 lần (Hình 9). 
Lượng bụi sinh phát tán khi nổ mìn theo phương 
pháp cấu trúc cột bua thực nghiệm (b) giảm hơn 
nhiều so với phương pháp cột bua truyền thống 
(a) theo kết quả phân tích trực quan từ máy quay. 
Điều này được giải thích là khi sử dụng bua 
bước thì khả năng bịt kín lỗ mìn là tối đa. Do đó 
tăng được thời gian tác dụng nổ và giảm áp lực ban 
đầu của các sản phẩm khí nổ ở mặt tiếp xúc giữa 
đất đá với lượng thuốc khi đi qua môi trường 
nước do đó giảm sự nghiền nát đất đá vùng xung 
quanh lượng thuốc. Khi sử dụng bua nước, trong 
lỗ khoan xảy ra sự va đập của nước, kết quả làm 
tăng áp lực lên thành lỗ khoan và đập vỡ đất đá tốt 
hơn tại vùng nạp bua nước, đồng thời, một phần 
năng lượng thuốc nổ nén ép các phần tử nước vào 
các khe nứt, lỗ hổng của đất đá làm các phần tử bụi 
bị giữ lại và ngăn cản sự bay xa các khí độc hại có 
xu thế toả ra bầu khí quyển. 
Hình 7. Kết quả đo sóng va đập không khí phương án truyền thống (a. LK 29/494) và phương án 
nổ đề xuất (b. LK 17/486). 
Hình 8. Chất lượng đập vỡ đất đá khi nổ mìn theo phương án truyền thống (a) và phương án nổ 
đề xuất (b). 
Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 437 
Theo kết quả phân tích các vụ nổ thực nghiệm 
(trong hình 10) cho phép xác định được tỷ số tối 
ưu giữa chiều cao cột bua nước và tổng chiều dài 
bua trong lỗ khoan đảm bảo nhận giá trị áp lực 
sóng va đập không khí là nhỏ nhất: 
lbn/Lb= 0,58 ÷ 0,64 
Do vậy, chiều cao tối ưu của cột bua nước 
được xác định theo công thức thực nghiệm: 
lbn= (0,58 ÷ 0,64)Lb , m 
3. Kết luận và kiến nghị 
3.1. Kết luận 
- Trên cơ sở tiến hành nổ mìn thực nghiệm 
trên mỏ Núi Béo cho thấy: khi áp dụng cấu trúc 
phân đoạn cột bua nước cho phép giảm thiểu 
cường độ sóng va đập không khí và nâng cao hiệu 
quả đập vỡ đất đá do giảm được tỷ lệ đá quá cỡ 
phát sinh; 
- Đã xác định được tỷ số tối ưu giữa chiều cao 
cột bua nước và tổng chiều dài bua trong lỗ khoan 
theo công thức (1) và chiều cao cột bua nước hợp 
lý theo công thức (2) để nâng cao hiệu quả nổ mìn 
bằng cách giảm áp lực sóng va đập không khí và 
nâng cao mức độ đập vỡ đất đá khi nổ mìn. 
3.2. Kiến nghị 
- Cần thiết phải tiến hành nổ thử nghiệm đối 
chứng thêm nhiều vụ nổ với quy mô lớn hơn 
(tương đương các vụ nổ sản xuất của mỏ) để các 
kết quả nghiên cứu đáng tin cậy hơn; 
- Phễu và túi nilon chứa nước để làm bua cần 
thiết phải được sản xuất chuyên dụng, phải đáp 
ứng được các yêu cầu về chiều dày, độ dai, dẻo... 
để không cho nước rò rỉ ra bên ngoài; 
- Để áp dụng có hiệu quả những giải pháp nêu 
trên đòi hỏi phải có sự thống nhất phối hợp chặt 
chẽ giữa Công ty Cổ phần Than Núi Béo - 
Vinacomin và Công ty Công nghiệp Hóa Chất Mỏ - 
Quảng Ninh ngay từ khi lập hộ chiếu khoan và lập 
hộ chiếu nổ, đồng thời cùng với nhóm nghiên cứu 
tiến hành giám sát tổ chức thi công đảm bảo đúng 
kỹ thuật, an toàn và hiệu quả. 
Lời cảm ơn: 
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn 
Công ty Cổ phần Than Núi Béo và Công ty Công 
nghiệp Hóa chất Mỏ Quảng Ninh đã nhiệt tình ủng 
hộ và tạo điều kiện giúp đỡ cho nhóm nghiên cứu 
tiến hành nổ mìn thực nghiệm, vì sự nghiệp phát 
triển nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng 
công nghệ nổ mìn mới vào sản xuất thực tiễn 
nhằm nâng cao công tác an toàn và hiệu quả khai 
thác tại mỏ than Núi Béo nói riêng và các mỏ khai 
thác lộ thiên nói chung ở Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo 
Drukovanui, M. F., 1973. Methods for controlling 
the explosion in quarries. 
Ganaponxki, M. I., Baron, V. L., Belin, V. A., Pukop, 
V. V., Xivenkop, V. I, 2007. Methods of blasting. 
Special blasting operations, MGGU. 
(1) 
(2) 
Hình 9. Mối quan hệ của áp lực sóng đập không 
khí với hệ số tỷ lệ khoảng cách ( ) khi nổ 
mìn theo phương án cột bua truyền thống (1) và 
phương án đề xuất (2). 
Hình 10. Biểu đồ xác định tỷ lệ tối ưu giữa chiều 
cao cột bua nước (lbn) với tổng chiều cao cột bua 
trong lỗ khoan (Lb). 
438 Trần Quang Hiếu và Bùi Xuân Nam/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 431-438 
Kutudop B.N, 2009. Safety of blasting in mining 
and industry, MGGU. 
Lê Ngọc Ninh., Trần Quang Hiếu, 2010. Giải pháp 
nổ mìn giảm chấn động, bụi và khí độc hại tại 
các mỏ đá gần khu dân cư. Tạp chí Công nghiệp 
mỏ 3. 9-11. 
Nguyễn Đình An., Trần Quang Hiếu., Trần Khắc 
Hùng, 2011. Một số phương pháp xác định vận 
tốc dao động cực đại gây ra bởi chấn động nổ 
mìn trong khai thác mỏ lộ thiên. Tuyển tập báo 
cáo Hội nghị Khoa học Kỹ thuật Mỏ toàn quốc 
lần thứ 20. Hội Khoa học và công nghệ mỏ Việt 
Nam, 119-124. 
Nhữ Văn Bách., Lê Văn Quyển, Bùi Xuân Nam., 
Nguyễn Đình An., Nhữ Văn Phúc, 2006. Những 
biện pháp giảm thiểu tác dụng chấn động khi 
nổ mìn ở mỏ Núi Béo. Tạp chí Khoa học kỹ thuật 
Mỏ - Địa chất 14. 58-62. 
Siskind D.E, 1980. Structure Response and Damage 
produced by airblast from surfacemining. 
United states Department of the Interior, 
Bureau of Mines Report of Investigations-
№8485, 1-111. 
Tran Quang Hieu., Nguyen Dinh An., Pham Van 
Viet., Ta Minh Duc., Belin V. A., 2014. Effects of 
climatic conditions on air blast overpressure 
when blasting near residents area at surface 
coal mines in Quang Ninh. Proceedings of the 
3rd International Conference on Advances in 
Mining and Tunneling. 21-22. 116-119. 
Xadopxki M.A, 2004. The mechanical action of air 
shock waves of explosion according to 
experimental studies. 
ABSTRACT 
Study on the determination of the resonable water stemming 
structure to increase the effectiveness of blasting in open-pit mine 
Hieu Quang Tran, Nam Xuan Bui 
Faculty of Mining, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam 
One of the methods to controll blasting energy is to adjust the parameters of dynamics pulse with 
the change of material and the stemming structure in the bore hole. Stemming Material and stemming 
structure affect the energy and the duration of the explosion. Using a good stemming structure will 
produce a reasonable pulse, a wider crushing zone and good fragmentation. The determination of the 
Optimal parameters of the stemming height allows to increase the quality of blasted rocks and 
protect the constructions near the blasting area. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_thuc_nghiem_xac_dinh_cac_thong_so_hop_ly_ve_cau_t.pdf