Nguồn vốn ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Tóm tắt

Nghiên cứu tiến hành khảo sát 19 ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam với thời gian từ

năm 2009 đến năm 2018. Bài viết sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu bảng thông qua kiểm định

Hausman để đánh giá ảnh hưởng của vốn ngân hàng và một số biến kiểm soát đến lợi nhuận và rủi

ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy có

mối quan hệ ngược chiều giữa vốn ngân hàng đến khả năng sinh lời và cùng chiều với rủi ro tín

dụng. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và rủi ro

tín dụng ngân hàng bao gồm tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, GDP và lạm phát. Ngoài ra

nghiên cứu còn đưa ra một số giải pháp để góp phần hạn chế ảnh hưởng của vốn chủ sở hữu đến khả

năng sinh lời và rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam (NHTMCPVN).

pdf 9 trang yennguyen 7120
Bạn đang xem tài liệu "Nguồn vốn ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguồn vốn ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Nguồn vốn ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
13
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
trung bình của khu vực. Trong số các ngân hàng 
ở Việt Nam, những năm gần đây các ngân hàng 
thương mại cổ phần (NHTMCP) phát triển rất 
nóng ở Việt Nam. NHTMCP hoạt động ngày 
NGUỒN VỐN NGÂN HÀNG ẢNH HƯỞNG 
ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG 
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
BANKING CAPITAL SOURCES INFLUENCE ON THE ECONOMIC 
CAPACITY AND CREDIT RISK OF COMMERCIAL BANK
Ngày nhận bài: 24/01/2019 Ngày chấp nhận đăng: 18/03/2019 Ngày đăng: 05/8/2019
Nguyễn Thành Đạt1
Tóm tắt 
Nghiên cứu tiến hành khảo sát 19 ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam với thời gian từ 
năm 2009 đến năm 2018. Bài viết sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu bảng thông qua kiểm định 
Hausman để đánh giá ảnh hưởng của vốn ngân hàng và một số biến kiểm soát đến lợi nhuận và rủi 
ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 
mối quan hệ ngược chiều giữa vốn ngân hàng đến khả năng sinh lời và cùng chiều với rủi ro tín 
dụng. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và rủi ro 
tín dụng ngân hàng bao gồm tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, GDP và lạm phát. Ngoài ra 
nghiên cứu còn đưa ra một số giải pháp để góp phần hạn chế ảnh hưởng của vốn chủ sở hữu đến khả 
năng sinh lời và rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam (NHTMCPVN).
Từ Khóa: Khả năng sinh lời, rủi ro tín dụng, ngân hàng thương mại cổ phần, nguồn vốn ngân hàng.
Abstract
A survey was conducted with 19 comercial banks in Viet Nam from 2009 to 2018. This study 
used regression model with panel data through Hausman test to evaluate the affect of equity and 
some control variables to commercial bank’s profitability and credit risk in Viet Nam. The results 
showed that there was a negative relationship between equity and profitability, but a positive 
relationship between equity and credit risk. Also, the study showed that credit’s growth, banking 
size, GDP and CPI affected to bank profitability and credit risk. In addition, the study also offers 
some solutions to limit the impact of equity on profitability and credit risk of Vietnamese joint 
stock commercial banks.
Keywords: Profitability, credit risk, commercial bank, bank capital.
_______________________________________________________________________
1 Trường Đại học Bạc Liêu
1. Giới thiệu
Ở nước ta, số lượng ngân hàng ngày càng 
nhiều, nhưng quy mô của đa số các ngân hàng 
còn nhỏ hơn so với các ngân hàng có quy mô 
14
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
rủi ro tín dụng thông qua biến tỷ lệ dự phòng 
rủi ro tín dụng. Theo Shrieves & Dahl (1992), 
Jacques & Nigro (1997), mối quan hệ giữa vốn 
và rủi ro tín dụng là cùng chiều, nghĩa là khi rủi 
ro gia tăng thì vốn ngân hàng cũng gia tăng, là 
do công tác giám sát hiệu quả của thị trường. 
Shrieves & Dahl (1992) cũng thông qua dữ liệu 
của Mỹ và đạt được kết quả giữa 2 yếu tố là 
cùng chiều. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Hồng Vinh và Lê Phan Thị Diệu Thảo (2015), 
vốn ngân hàng có tác động ngược chiều với rủi 
ro tín dụng và cùng chiều với lợi nhuận.
Lý thuyết cấu trúc - hành vi - hiệu quả
Lý thuyết này cho rằng, mức độ tập trung 
của ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp với năng 
lực cạnh tranh của họ, khuyến khích họ liên 
kết với nhau. Do đó, tồn tại mối quan hệ cùng 
chiều giữa mức độ tập trung ngân hàng và khả 
năng sinh lợi, bất kể thị phần của ngân hàng. 
Điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng có mức 
độ tập trung (vốn CSH) càng cao thì lợi nhuận 
càng nhiều. Một vài nghiên cứu cho thấy, mối 
quan hệ tích cực cùng chiều giữa vốn ngân hàng 
và lợi nhuận như nghiên cứu của Berger and 
Hannan (1989), Wilson A. (1993), Molyneux 
và cộng sự (1995), Edwards, Seanicaa, Albert 
J.A. and Sallem S. (2006).
Tuy nhiên, một số nghiên cứu thực nghiệm 
cho kết quả ngược lại so với lý thuyết cấu 
trúc - hành vi - hiệu quả như nghiên cứu của 
Altunbas (2007), Goddard và cộng sự (2010), 
Nguyễn Thị Hồng Vinh và Lê Phan Thị Diệu 
Thảo (2016) do đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi 
ro các ngân hàng càng tập trung vốn CSH thì rủi 
ro thấp, do đó lợi nhuận cũng giảm.
Lý thuyết rủi ro đạo đức
Theo Keeton và Morris (1987), khi vốn chủ 
sở hữu ngân hàng thấp sẽ làm gia tăng rủi ro 
càng sôi động, chiếm lĩnh thị phần khá lớn và 
đóng vai trò quan trọng ở thị trường tài chính 
tín dụng. Điều này đã tác động đến cấu trúc 
vốn của các NHTMCP, đó cũng là một trong 
những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của 
các ngân hàng. Vốn chủ sở hữu (CSH) là cấu 
phần vốn vô cùng quan trọng trong nguồn vốn 
hoạt động của các NHTMCP. Vốn CSH của các 
NHTMCP ở Việt Nam đã tăng trưởng trong thời 
gian qua, chiếm tỷ lệ trung bình 8,94% (tác giả 
thu thập và tính toán) trong tổng nguồn vốn. Do 
là loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên nguồn 
vốn chủ yếu cho hoạt động của các ngân hàng là 
vốn huy động, tuy nhiên sự gia tăng của nguồn 
vốn CSH thể hiện năng lực tài chính, khả năng 
thanh khoản và sự mở rộng quy mô ngân hàng. 
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng 
nguồn vốn CSH với lợi nhuận và an toàn hoạt 
động là vấn đề được quan tâm không chỉ đối với 
các nhà quản trị ngân hàng, nhà đầu tư mà còn 
liên quan đến hoạt động an toàn của hệ thống 
NHTMCPVN.
Để đo lường ảnh hưởng của nguồn vốn ngân 
hàng đến lợi nhuận và rủi ro tín dụng ngân hàng, 
một vài nghiên cứu nước ngoài cũng như trong 
nước đã được thực hiện với nhiều kết quả thực 
nghiệm khác nhau. Nghiên cứu này được thực 
hiện trong điều kiện thách thức về gia tăng thị 
phần, lợi nhuận, rủi ro tín dụng và nguồn vốn 
CSH của các NHTMCP hiện nay.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên 
cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực 
nghiệm
Berger và cộng sự (2013) nghiên cứu thực 
nghiệm trên 42 ngân hàng tại châu Á cho kết 
quả, vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều đến 
15
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
của nguồn vốn đến khả năng sinh lời và rủi ro 
tín dụng của các NHTMCPVN. Đồng thời sử 
dụng phương pháp hồi quy tác động cố định 
(FEM) và tác động ngẫu nhiên (REM). Thông 
qua kiểm định Hausman để chọn ra mô hình 
phù hợp.
Số liệu sử dụng
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu được thu thập 
từ báo cáo tài chính, báo cáo thường niên với 
biến độc lập là vốn CSH ngân hàng và một số 
biến kiểm soát, biến phụ thuộc là tỷ suất lợi 
nhuận và rủi ro tín dụng của 19 NHTMCP ở 
Việt Nam với tần suất năm trong giai đoạn từ 
năm 2009 đến năm 2018, sau khi đã loại ra một 
số NHTMCP không thu thập được đầy đủ dữ 
liệu trong khoảng thời gian trên.
Mô hình nghiên cứu
Dựa trên nghiên cứu của Edwards, 
Seanicaa,Albert J.A. and Sallem S. (2006), 
Waemustafa và Sukri (2015), Nguyễn Thị Hồng 
Vinh và Lê Phan Thị Diệu Thảo (2016) tác giả 
đưa ra mô hình nghiên cứu như sau:
đạo đức do tăng rủi ro của các khoản vay, dẫn 
đến nợ xấu nhiều hơn. Vì vậy, theo lý thuyết 
này thì mối quan hệ giữa vốn ngân hàng và rủi 
ro tín dụng là ngược chiều. Những nghiên cứu 
thực nghiệm cho kết quả phù hợp với lý thuyết 
này có thể kể đến kết quả nghiên cứu của Sufian 
và Muhamed (2011), Berger và cộng sự (2013); 
Waemustafa và cộng sự (2015) nghiên cứu các 
ngân hàng ở Malaysia từ năm 2000 đến 2010 
với kết quả cho thấy vốn ngân hàng tác động có 
ý nghĩa đến rủi ro tín dụng.
Lý thuyết về quản lý
Lý thuyết về quản lý đưa ra giả thuyết ngược 
lại so với lý thuyết rủi ro đạo đức. Theo lý thuyết 
này, nhà quản lý thường yêu cầu các ngân hàng 
tăng vốn CSH tương ứng với mức độ rủi ro tín 
dụng, do đó mối quan hệ giữa vốn ngân hàng và 
rủi ro tín dụng được xác định là cùng chiều, tức 
là rủi ro gia tăng thì vốn ngân hàng cũng tăng 
theo. Kết quả thực nghiệm ủng hộ lý thuyết này 
như nghiên cứu của Pettway (1976).
2.2. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu 
nghiên cứu
Dựa vào kết quả các nghiên cứu trước, bài 
viết phân tích định lượng để tìm ra ảnh hưởng 
ROEit = α + β1EQUITYit + β2SIZEit + β3TTTDit + β4DN/VHDit + β5GDPit + β6CPIit + εit
NOXAUit = α +β1EQUITYit + β2SIZEit + β3TTTDit + β4DN/VHDit + β5ROE + β6GDPit + CPIit + εit
Trong đó, ROEit (biến phụ thuộc) là lợi nhuận 
của ngân hàng i ở năm t; NOXAUit (biến phụ 
thuộc) là tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng i ở năm t; 
các biến còn lại là biến độc lập của ngân hàng i ở 
năm t với EQUITY (vốn CSH), SIZE (quy mô), 
TTTD (tăng trưởng tín dụng), DN/VHD (dư nợ 
trên vốn huy động), GDP (tổng sản phẩm quốc 
nội) và CPI (chỉ số giá tiêu dùng). Do dữ liệu 
được sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu 
bảng nên nghiên cứu sử dụng mô hình hiệu ứng 
cố định (FEM) và hiệu ứng ngẫu nhiên (REM), 
sau đó dùng kiểm định Hausman để kiểm tra 
mô hình phù hợp nhất. Chi tiết về biến độc lập 
và kỳ vọng về mối quan hệ giữa chúng với biến 
phụ thuộc được trình bày chi tiết như sau:
16
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
trong các nghiên cứu của Casu và Girardone 
(2006), Short (1979), Salas và Saurina (2002).
Giả thuyết 3: Tăng trưởng tín dụng có mối 
quan hệ cùng chiều với khả năng sinh lời và 
rủi ro tín dụng.
Về tăng trưởng tín dụng với lợi nhuận và rủi 
ro tín dụng, trong số các đặc điểm ngân hàng, 
tăng trưởng tín dụng cũng là yếu tố có ảnh 
hưởng đến lợi nhuận và rủi ro tín dụng. Tăng 
trưởng tín dụng làm gia tăng lợi nhuận, nhưng 
đi kèm với điều đó là việc nới lỏng điều kiện 
cho vay, đối tượng khách hàng nhiều hơn nên 
gia tăng rủi ro về chất lượng khoản vay. Kết 
quả nghiên cứu của Keeton (1999), Salas và 
Saurina (2002), Dash và Kabra (2010) phù hợp 
với lập luận trên.
Giả thuyết 4: Dư nợ trên vốn huy động có 
mối quan hệ cùng chiều với khả năng sinh lời 
và ngược chiều với rủi ro tín dụng.
Về dư nợ trên vốn huy động với lợi nhuận 
và rủi ro tín dụng, chỉ tiêu này phản ánh hiệu 
quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Chỉ 
tiêu này lớn thể hiện khả năng tranh thủ vốn 
huy động, nếu lớn hơn 1 thì ngân hàng chưa 
thực hiện tốt việc huy động vốn, vốn huy động 
tham gia vào cho vay ít. Do đó, chỉ tiêu này 
càng lớn sẽ làm gia tăng lợi nhuận nhưng đi 
Tiếp nối các nghiên cứu trước, nghiên cứu 
của tác giả kế thừa và lựa chọn các biến giải 
thích đã được kiểm chứng cho phù hợp với đặc 
điểm của các NHTMCP và điều kiện thị trường 
ở Việt Nam. Các giả thuyết được đặt ra như sau:
Giả thuyết 1: Tỷ lệ vốn CSH có mối quan 
hệ cùng chiều với khả năng sinh lời và ngược 
chiều với rủi ro tín dụng. 
Về tỷ lệ vốn CSH với lợi nhuận và rủi ro tín 
dụng, dựa trên lý thuyết cấu trúc hành vi hiệu 
quả, các ngân hàng có tỷ lệ vốn CSH càng thấp 
thì mức độ liên kết càng ít do đó lợi nhuận càng 
giảm. Ngoài ra, theo lý thuyết về rủi ro đạo đức 
thì các ngân hàng có tỷ lệ vốn CSH càng thấp 
thì rủi ro khoản vay càng gia tăng do nguy cơ 
nợ xấu gia tăng.
Giả thuyết 2: Quy mô ngân hàng có mối 
quan hệ cùng chiều với khả năng sinh lời và 
ngược chiều với rủi ro tín dụng.
Về quy mô ngân hàng với lợi nhuận và rủi 
ro tín dụng, các ngân hàng có quy mô càng lớn 
thì khả năng mở rộng thị phần, cho vay khách 
hàng nhiều hơn, do đó lợi nhuận càng cao. Tuy 
nhiên, các ngân hàng có quy mô lớn cũng có thể 
sẽ mở rộng đòn bẩy tài chính và đối tượng cho 
vay có chất lượng kém nên dẫn đến nguy cơ về 
rủi ro tín dụng. Mối quan hệ này được tìm thấy 
Bảng 1. Giải thích các biến trong mô hình
STT Tên biến
Đo lường biến Kỳ vọng
ROE NOXAU
1 EQUITY VCSH/TTS + –
2 SIZE LOG(TTS) + +
3 TTTD (DNt – DNt-1)/DNt-1 + +
4 DN/VHD DN/VHD + –
5 GDP GDPt + –
6 CPI CPIt – +
17
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
nhiều tác giả như Salas và Saurina (2002), Dash 
và Kabra (2010), Gunsel (2008), Thiagarajan 
và cs. (2011), Zribi và Boujelbene (2011).
Giả thuyết 6: CPI có tác động ngược chiều 
với khả năng sinh lời và cùng chiều với rủi ro 
tín dụng.
Về CPI với lợi nhuận và rủi ro tín dụng, lạm 
phát tăng cao là một trong những yếu tố ảnh 
hưởng đến hoạt động tiêu dùng và kinh doanh 
của khách hàng, vì vậy nó làm ảnh hưởng đến 
lợi nhuận của ngân hàng. Điều này cũng dễ dẫn 
đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Các nghiên 
cứu của Zribi và Boujelbene (2011), Vogiazas 
và Nikolaidou (2011) cũng tìm thấy kết quả 
tương tự.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình
kèm với nó là nguy cơ rủi ro gia tăng. Mối quan 
hệ này được tìm thấy trong các nghiên cứu của 
Casu và Girardone (2006), Short (1979).
Giả thuyết 5: GDP có tác động cùng chiều 
với khả năng sinh lời và ngược chiều với rủi 
ro tín dụng.
Về GDP với lợi nhuận và rủi ro tín dụng, 
trong giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng, lợi 
nhuận các ngân hàng thường gia tăng vì điều 
kiện phát triển và kinh doanh thuận lợi nên 
khách hàng cũng dễ tìm kiếm lợi nhuận, do đó 
khả năng trả nợ đúng hạn cao. Tuy nhiên, kinh 
tế tăng trưởng cũng dẫn đến rủi ro tín dụng do 
các ngân hàng mở rộng tăng trưởng tín dụng 
bằng cách nới lỏng điều kiện cho vay. Do đó, 
khi kinh tế suy thoái là lúc khách hàng gặp khó 
khăn, dẫn đến nợ xấu ngân hàng gia tăng. Lập 
luận này phù hợp với kết quả nghiên cứu của 
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình
Chỉ tiêu
Đơn vị 
tính
Số quan 
sát
Trung 
bình
Nhỏ nhất Lớn nhất
Độ lệch 
chuẩn
Vốn CSH % 190 9,43 4,22 35,54 4,52
Quy mô công ty Tỷ đồng 190 186.601 6.218 2.006.404 317.210
Tăng trưởng tín dụng % 190 35,85 - 58,65 197,89 35,23
Dư nợ trên vốn huy động % 190 78,91 27,50 156,85 18,24
GDP % 190 5,83 5,02 6,68 0,55
CPI % 190 5,67 0,63 19,58 5,17
ROE % 190 11,36 0,07 28,82 6,07
NOXAU % 190 2,15 0,29 8,9 13,61
Nguồn: Tính toán của tác giả
3.2. Nguồn vốn ngân hàng ảnh hưởng đến 
khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của các 
NHTMCPVN
Trước khi thực hiện phân tích hồi quy, 
nghiên cứu đã tiến hành trước tiên sử dụng cả 
hai mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và hiệu 
ứng ngẫu nhiên (REM) để ước lượng mức độ 
ảnh hưởng của vốn ngân hàng và các biến kiểm 
soát đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng của 
các NHTMCP ở Việt Nam. Sau đó, để xác định 
xem mô hình nào là phù hợp hơn, tác giả tiếp 
tục sử dụng kiểm định Hausman. Kết quả ước 
lượng từ các mô hình được trình bày ở Bảng 3.
18
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
kiểm định Breusch-Pagan. Kết quả kiểm định 
Breusch-Pagan cho thấy, hiện tượng phương sai 
sai số thay đổi tồn tại trong mô hình. Để khắc 
phục hiện tượng này, phương pháp ước lượng 
các sai số chuẩn mạnh (Robust standard errors) 
đã được sử dụng. Kết quả phân tích hồi quy xác 
định các biến có ý nghĩa ở mức 1%, 5% và 10% 
được trình bày như sau:
Dựa trên kết quả kiểm định Hausman có 
ý nghĩa thống kê ở mức 1%, điều đó cho thấy 
mô hình hồi quy hiệu ứng cố định (FEM) phù 
hợp hơn để giải thích. Vì vậy, tác giả sẽ sử 
dụng mô hình FEM để xác định các yếu tố tác 
động đến khả năng sinh lời và rủi ro tín dụng. 
Ngoài ra, vấn đề phương sai sai số thay đổi 
(heteroskedasticity) cũng được kiểm tra bằng 
Bảng 3. Kết quả phân tích hồi quy theo FEM và REM
Biến số
ROE NOXAU
FE RE FE RE
Hằng số
0,26
(0,86)
-0,17
(-1,32)
-0,09
(-1,33)
0,07
(1,53)
Vốn CSH
-0,54
(-2,44)**
-0,38
(-2,08)**
0,07
(1,83)**
0,03
(0,65)
Quy mô
-0,06
(-0,97)
0,03
(1,47)
0,03
(2,36)**
0,001
(0,22)
Tăng trưởng tín dụng
0,03
(3,18)*
0,06
(4,03)*
-0,004
(-0,97)
-0,01
(-1,74)***
Dư nợ trên vốn huy động
0,08
(2,94)*
0,06
(2,92)*
-0,01
(-1,06)
-0,01
(-1,33)
GDP
0,65
(0,75)
0,33
(0,52)
-0,67
(-3,46)*
-0,59
(-3,24)*
CPI
0,46
(5,65)*
0,53
(6,25)*
-0,01
(-0,69)
-0,03
(-1,42)
Số quan sát 190 190 190 190
R2 (%) 37,64 35,16 19,09 19,09
Giá trị thống kê F 9,78* 63,78* 5,70* 3,89*
Kiểm định Hausman:
Chi2(6) = 
20,30*
Chi2(6) = 
22,23*
Ghi chú: *,**,***: Có ý nghĩa thống kê tương ứng ở mức 1%, 5% và 10%.
Giá trị thống kê t: trình bày trong dấu ngoặc đơn
Nguồn: Tính toán của tác giả
ROEit = 0,26 − 0,54 EQUITYit + 0,03 TTTDit + 0,08 DNTVHĐit + 0,46 CPIit + εit
NOXAUit = -0,09 + 0,07 EQUITYit + 0,03 SIZEit − 0,67 GDPit + εit
19
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
tín dụng là yếu tố mà các NHTMCP đặc biệt 
quan tâm, bằng chứng là tỷ lệ nợ xấu luôn được 
đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Nhà 
nước, mặc dù trong điều kiện hiện nay các ngân 
hàng phải cạnh tranh quyết liệt về tăng trưởng 
tín dụng.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Kết quả phân tích hồi quy được trình bày 
ở trên cho thấy, GDP có mối quan hệ ngược 
chiều với rủi ro tín dụng. Một cách định lượng, 
GDP tăng 1% làm giảm tỷ lệ nợ xấu 0,67%. Kết 
quả này phù hợp với lập luận và nhiều nghiên 
cứu thực nghiệm ở trên. Cũng dễ dàng thấy 
rằng, GDP tăng sẽ làm giảm rủi ro tín dụng. 
Tuy nhiên, khi kinh tế suy giảm sẽ tác động đến 
môi trường kinh doanh, sự chậm trễ trong việc 
hoàn trả các khoản nợ và do đó gia tăng nợ xấu 
cho ngân hàng. Ở một chiều hướng khác, kỳ 
vọng về mối quan hệ cùng chiều giữa GDP và 
khả năng sinh lời ngân hàng lại không được tìm 
thấy. Kết quả này hàm ý rằng, ngân hàng vẫn có 
thể tìm kiếm lợi nhuận ở những thời điểm nền 
kinh tế ít tăng trưởng.
Lạm phát (CPI)
Khác với kỳ vọng cũng như một số nghiên 
cứu thực nghiệm trước đó, kết quả chỉ ra lạm 
phát có mối quan hệ cùng chiều với lợi nhuận. 
Điều đó cho thấy, lạm phát tăng làm gia tăng 
chi phí nhưng doanh thu cũng phải tăng tương 
ứng (chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất 
cho vay), hơn nữa lợi tức chia cho cổ đông phải 
chạy theo lạm phát. Kết quả này đưa đến một 
phát hiện thú vị do ngân hàng là một loại hình 
doanh nghiệp đặc biệt. Mối quan hệ giữa lạm 
phát và rủi ro tín dụng không được tìm thấy 
trong nghiên cứu này.
Vốn CSH (EQUITY)
Khác với kỳ vọng, kết quả nghiên cứu cho 
thấy, vốn CSH ngân hàng có mối quan hệ ngược 
chiều với khả năng sinh lời và cùng chiều với 
rủi ro tín dụng ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này 
phù hợp với một số nghiên cứu thực nghiệm 
trước đó và lý thuyết về quản lý. Trong điều 
kiện ở Việt Nam, có thể nhận thấy, các ngân 
hàng có vốn CSH càng nhiều thì lợi nhuận cũng 
thấp, vì sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. 
Đồng thời, vốn CSH được khuyến khích tăng 
tương xứng với rủi ro tín dụng được đo lường 
bằng tỷ lệ nợ xấu.
Quy mô (SIZE)
Đúng như kỳ vọng, các ngân hàng có quy 
mô càng lớn thì nguy cơ gia tăng nợ xấu càng 
cao do mở rộng khoản vay dẫn đến nới lỏng 
điều kiện tín dụng và cho vay đa dạng đối tượng 
khách hàng. Một cách cụ thể, quy mô tăng 1% 
thì rủi ro tín dụng tăng 0,03%. Đồng thời, mối 
quan hệ giữa quy mô và khả năng sinh lợi là 
ngược chiều nhưng không có ý nghĩa thống kê. 
Điều này được lý giải là thị phần không là yếu 
tố quyết định lợi nhuận của NHTMCP. Thay 
vào đó, tiết giảm chi phí hoạt động, chất lượng 
phục vụ, uy tín... mới là những yếu tố bên trong 
làm gia tăng lợi nhuận và nâng cao năng lực 
cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng (TTTD)
Kết quả nghiên cứu chỉ ra kết luận phù hợp 
về tác động cùng chiều của tăng trưởng tín 
dụng lên khả năng sinh lời của ngân hàng. Khi 
tăng trưởng tín dụng tăng 1% sẽ làm ROE tăng 
0,03%. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu lại không 
tìm thấy mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng 
và rủi ro tín dụng. Điều đó cho thấy, chất lượng 
20
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
Đối với quy mô ngân hàng, Ngân hàng Nhà 
nước cần kiểm soát, giám sát quá trình mở rộng 
quy mô của các NHTM theo sự phát triển kinh 
tế, đồng thời, linh động trong việc yêu cầu vốn 
pháp định tối thiểu của các NHTM. Việc bắt 
buộc các tổ chức tín dụng, ngân hàng phải đảm 
bảo yêu cầu vốn pháp định tối thiểu gây ra cuộc 
chạy đua tăng vốn, mở rộng quy mô làm tăng 
rủi ro cho các NHTM. Các NHTM cần có lộ 
trình phù hợp cho quá trình mở rộng quy mô 
của mình; kiểm soát thận trọng trong việc sử 
dụng đòn bẩy, đảm bảo các rủi ro gia tăng do 
việc mở rộng quy mô nằm trong tầm kiểm soát 
của ngân hàng. Nâng cao năng lực cạnh tranh 
của các NHTMCP trong điều kiện ngày càng 
nhiều ngân hàng được thành lập và xu hướng 
toàn cầu hóa. Theo đó, để gia tăng lợi nhuận và 
năng lực ngân hàng, quy mô ngân hàng được 
xếp sau các yếu tố chất lượng phục vụ, uy tín, 
tính thanh khoản, lành mạnh tài chính Điều 
đó cũng nói lên rằng các ngân hàng có quy mô 
vừa và nhỏ hoàn toàn có cơ hội đứng vững trên 
thị trường so với các ngân hàng có quy mô 
lớn hơn.
Ổn định nền kinh tế vĩ mô để các doanh 
nghiệp nâng cao khả năng sản xuất từ đó góp 
phần vào sự tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế 
tăng trưởng giúp cho các doanh nghiệp có khả 
năng trả nợ và làm tăng lợi nhuận của ngân 
hàng. Ngoài ra tăng cường việc giám sát của 
Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của 
các NHTMCP, đặc biệt ở những thời điểm tăng 
trưởng của nền kinh tế trong việc tuân thủ chặt 
chẽ các quy định về phân loại nợ, trích lập dự 
phòng, điều kiện và đối tượng cho vay, tỷ lệ an 
toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu nhằm đảm bảo tăng 
trưởng tín dụng và đảm bảo an toàn hoạt động 
cho các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống 
ngân hàng nói chung.
4. Kết luận và khuyến nghị 
4.1. Kết luận
Vốn CSH là thành phần vốn quan trọng đảm 
bảo cho hoạt động của các ngân hàng nói chung 
và NHTMCP nói riêng. Nghiên cứu này phân 
tích tác động của vốn CSH ngân hàng cùng một 
số yếu tố kiểm soát khác đến khả năng sinh 
lời và rủi ro tín dụng của các NHTMCP ở Việt 
Nam. Kết quả nghiên cứu thông qua kiểm định 
Haussman và phân tích hồi quy đa biến cho 
thấy có sự tác động ngược chiều của vốn CSH 
đến khả năng sinh lời và cùng chiều với rủi ro 
tín dụng. Ngoài ra, khả năng sinh lời ngân hàng 
còn bị tác động bởi tăng trưởng tín dụng, CPI 
với mối quan hệ cùng chiều và rủi ro tín dụng 
ngân hàng bị ảnh hưởng bởi quy mô ngân hàng 
với tương quan thuận và tỷ lệ nghịch với GDP.
4.2. Khuyến nghị
Tăng cường vốn CSH của các NHTMCP 
Việt Nam. Việc gia tăng này có ảnh hưởng đến 
khả năng sinh lời nhưng lại đảm bảo cho an 
toàn hoạt động cho các ngân hàng. Vì vậy, việc 
cân nhắc giữa lợi nhuận và rủi ro khi tăng vốn 
CSH là vấn đề cần phải được các nhà quản trị 
ngân hàng quan tâm và thực hiện nhiều hơn. 
Bên cạnh đó ngân hàng cần xác định các đòn 
bẩy để giảm lãng phí vốn mà không cần thay 
đổi mô hình kinh doanh; tối ưu hóa các nguồn 
vốn khan hiếm để đạt được hiệu quả trong sử 
dụng vốn chủ sở hữu. Như vậy, khả năng đạt 
mức lợi nhuận kỳ vọng cho các cổ đông ngân 
hàng và sự đóng góp của các ngân hàng vào 
phát triển kinh tế xã hội chung được đảm bảo. 
Ngân hàng cần cải thiện năng lực trong đánh 
giá đúng về mức độ an toàn của vốn; phân bổ, 
quản trị vốn hiệu quả hơn và tiết kiệm vốn; đo 
lường hiệu quả hoạt động và quản lý dựa trên 
giá trị vốn chủ sở hữu.
21
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 52, 08/2019
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Nguyễn Thị Tuyết Nga. (2016). Tác động của vốn chủ sở hữu đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng 
thương mại Việt Nam. Tạp chí Tài chính, kỳ I, 12/2016.
Lê Tuấn Phong & Trương Đông Lộc. (2016). Mối quan hệ giữa nợ xấu và tăng trưởng tín dụng: 
Trường hợp các chi nhánh ngân hàng thương mại ở tỉnh Trà Vinh. Tạp chí Ngân hàng, 19, 31-
35.
Nguyễn Thị Hồng Vinh & Lê Phan Thị Diệu Thảo. (2016). Tác động của vốn ngân hàng đến khả 
năng sinh lời và rủi ro tín dụng: Trường hợp các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Phát 
triển Kinh tế, 27(3), 25 – 44.
Tiếng Anh
Berger, A. N., & Bouwman, C. H. S. (2013). How does capital affect bank performance during 
financial crises? Journal of Financial Economics;
Edwards, Seanicaa, Albert J. Allen, & Saleem Shaik. (2006). Market Structure Conduct Performance 
(SCP) Hypothesis Revisited using Stochastic Frontier Efficiency Analysis’. Paper presented 
American Agricultural Economics Association Annual Meeting, Long Beach, California, July, 
23 - 26.
Jacques, K. T., & Nigro, P. (1997). Risk-Based Capital, Portfolio Risk and Bank Capital: A 
Simultaneous Equations Approach. Journal of Economics and Business, 49, 533-547. 
Keeton, William R., & Charles S. Morris. (1987). Why do banks’ loan losses differ? Economic 
Review-Federal Reserve Bank of Kansas City, 72, 5: 3.
Molyneux, Phil, & William Forbes. (1995). Market structure and performance in European banking. 
Applied Economics, 27.2: 155 - 159.
Shrieves, R. E., & Dahl, D. (1992). The Relationship between Risk and Capital in Commercial 
Banks. Journal of Banking and Finance, 16, 439-457. 
Waemustafa, Waeibrorheem, & Suriani Sukri. (2015). Bank specific and macroeconomics dynamic 
determinants of credit risk in Islamic banks and conventional banks. International Journal of 
Economics and Financial Issues, 5.2.

File đính kèm:

  • pdfnguon_von_ngan_hang_anh_huong_den_kha_nang_sinh_loi_va_rui_r.pdf