Nhu cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân tại một khu đô thị Hà Nội

Nhằm mô tả nhu cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân tại Hà Nội, nghiên cứu

mô tả cắt ngang được thực hiện trên các hộ gia đình sống tại tòa nhà CT1A-B, chung cư VOV, Hà Nội. Các

dịch vụ y tế được chấp nhận và mong muốn tham gia cao: tổ chức lấy máu, bệnh phẩm xét nghiệm tại nhà

(85,1%); tắm, thay băng rốn tại nhà cho trẻ sơ sinh (78,5%). Các dịch vụ còn chưa được chấp nhận nhiều:

điều dưỡng ở cùng với gia đình để chăm sóc cho các bệnh nhân nặng (38,3%); cử cán bộ y tế đi cùng khi

bệnh nhân có nhu cầu đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tuyến trên hoặc ở nước ngoài (52,3%) hoặc cử

phiên dịch đi hỗ trợ (49,5%). Cần đào tạo đội ngũ cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đáp ứng nhu

cầu và mong muốn cao của người dân.

pdf 10 trang yennguyen 3000
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân tại một khu đô thị Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân tại một khu đô thị Hà Nội

Nhu cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân tại một khu đô thị Hà Nội
 148 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Địa chỉ liên hệ: Đỗ Thị Thanh Toàn, Viện Đào tạo Y học 
Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: dothithanhtoan@hmu.edu.vn 
Ngày nhận: 10/6/2018 
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 
NHU CẦU THAM GIA DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE TẠI NHÀ 
CỦA NGƯỜI DÂN TẠI MỘT KHU ĐÔ THỊ HÀ NỘI 
Đỗ Thị Thanh Toàn1*, Lưu Ngọc Minh1, Đinh Thái Sơn1, 
Đỗ Mạnh Hùng2, Nguyễn Thị Thu Hường1, Lê Xuân Hưng1, Lưu Ngọc Hoạt1 
1Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 
2Sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội 
Nhằm mô tả nhu cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân tại Hà Nội, nghiên cứu 
mô tả cắt ngang được thực hiện trên các hộ gia đình sống tại tòa nhà CT1A-B, chung cư VOV, Hà Nội. Các 
dịch vụ y tế được chấp nhận và mong muốn tham gia cao: tổ chức lấy máu, bệnh phẩm xét nghiệm tại nhà 
(85,1%); tắm, thay băng rốn tại nhà cho trẻ sơ sinh (78,5%). Các dịch vụ còn chưa được chấp nhận nhiều: 
điều dưỡng ở cùng với gia đình để chăm sóc cho các bệnh nhân nặng (38,3%); cử cán bộ y tế đi cùng khi 
bệnh nhân có nhu cầu đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tuyến trên hoặc ở nước ngoài (52,3%) hoặc cử 
phiên dịch đi hỗ trợ (49,5%). Cần đào tạo đội ngũ cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đáp ứng nhu 
cầu và mong muốn cao của người dân. 
Từ khóa: chăm sóc sức khỏe tại nhà, nhu cầu tham gia 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hoạt động chăm sóc sức khỏe tại nhà luôn 
được chúng ta thực hiện hằng ngày dưới 
nhiều hình thức khác nhau. Dịch vụ chăm sóc 
sức khỏe tại nhà là một loạt các dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe được các nhân viên y tế cung 
cấp tại gia đình người bệnh khi đau ốm hoặc 
thương tật [1]. Ở Mỹ, xuất phát từ việc giải 
phóng áp lực quá tải giường bệnh và nhu cầu 
tạo một môi trường thuận lợi để chăm sóc 
bệnh nhân, dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà 
được ra đời từ năm 1947 [2]. Tiếp sau đó vào 
những năm 1970, xu hướng chăm sóc sức 
khỏe tại nhà cũng trở nên phát triển và gần 
như bùng nổ ở các nước phương Tây [3]. 
Trong những năm cuối của thế kỉ XX, với xu 
thế già hóa dân số ở các nước phát triển, dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà được củng cố 
và gần như phổ cập ở nhiều nước [4; 5]. 
Từ năm 2012, Việt Nam trở thành một 
nước có dân số già với tỷ lệ người trên 60 tuổi 
đạt 10,2% và được dự báo là nước có dân số 
rất già vào năm 2038 với tỷ lệ người trên 60 
tuổi đạt 20,1% [6]. Với xu hướng trên đặt ra 
thách thức trong việc chăm sóc và nâng cao 
sức khỏe toàn dân khi nhu cầu chăm sóc sức 
khỏe hàng ngày đang trở thành vấn đề lớn: 
gánh nặng về bệnh tật, chăm sóc sinh hoạt 
hằng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Thêm vào đó áp lực về quá tải bệnh viện cần 
giải quyết một cách bền vững [7]. Nhiều bệnh, 
thương tật, tai nạn có thể điều trị chăm sóc tại 
nhà vẫn đạt được hiệu quả cao, thậm chí giúp 
tiết kiệm chi phí và giảm nguy cơ nhiễm khuẩn 
bệnh viện cho bệnh nhân. Việc hồi phục khi 
chăm sóc tại nhà cũng được đánh giá là hiệu 
quả hơn so với chăm sóc tại bệnh viện [8]. 
Nhưng ưu điểm của dịch vụ chăm sóc sức 
khỏe tại nhà có kết hợp khoa học kỹ thuật tiên 
tiến có khả năng hỗ trợ giải quyết các vấn đề 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 149 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
này tương đối tốt, mang lại kết quả cao trong 
điều trị và nâng cao sức khỏe của người dân 
[9]. 
Quận Nam Từ Liêm là một quận mới ở Hà 
Nội. Nằm trong một trung tâm kinh tế lớn của 
cả nước với mật độ dân số đứng thứ hai cả 
nước, sự phát triển về kinh tế của người dân 
tại Nam Từ Liêm là trung bình cao so với mặt 
bằng chung; song song với đó là nhu cầu cao 
về chăm sóc sức khỏe. Việc tổ chức hệ thống 
chăm sóc sức khỏe tại nhà cho người dân 
mang lại lợi ích về nhiều mặt như đáp ứng đủ 
nhu cầu của người dân, hỗ trợ giảm tải cho hệ 
thống bệnh viện tuyến trung ương. Nghiên 
cứu này sẽ cung cấp bằng chứng góp phần 
vào việc cải tiến tổ chức và cung cấp dịch vụ 
chăm sóc sức khỏe tại nhà của người dân khu 
đô thị Hà Nội. Với những lý do trên, nghiên 
cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả nhu 
cầu tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại 
nhà của người dân tại Hà Nội. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
- Người dân tại khu chung cư CT1A-B tổ 5, 
phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội. 
- Tiêu chuẩn lựa chọn 
+ Người dân sống lâu dài (> 12 tháng) tại 
các tòa nhà chung cư thuộc khu chung cư 
CT1A-B, phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà 
Nội. 
+ Người đại diện gia đình có thể tham gia 
lựa chọn, quyết định sử dụng dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe cho gia đình. 
+ Trên 18 tuổi, biết đọc, biết viết. 
+ Tự nguyện tham gia nghiên cứu. 
- Tiêu chuẩn loại trừ 
+ Người đến làm việc, sống nhờ, đến chơi 
tại tòa nhà. 
2. Phương pháp 
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả 
cắt ngang. 
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2017 
đến tháng 06/2018. 
- Chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn mẫu toàn bộ 
các hộ gia đình sống tại chung cư. Có 296 hộ 
gia đình tại đây, tiếp cận và phát giấy mời 
được 140 hộ, trong đó 107 hộ gia đình đồng ý 
tham gia nghiên cứu (tỉ lệ trả lời là 78,6%). 
- Biến số nghiên cứu 
+ Nhóm biến số liên quan đến nhu cầu 
tham gia dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà: 
khám, điều trị bởi bác sĩ; chăm sóc tại nhà bởi 
điều dưỡng; chăm sóc giảm nhẹ; chăm sóc trẻ 
sơ sinh; khám sức khỏe định kỳ; y tế từ xa. 
+ Nhóm biến số liên quan đến nhu cầu 
tham gia dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe tai 
nhà: khám, xét nghiệm tại nhà; tổ chức khu 
nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe; hỗ trợ thông 
tin khám chữa bệnh; cử phiên dịch hỗ trợ khi 
bệnh nhân đi khám, chữa bệnh ở nước ngoài; 
tư vấn thông tin thuốc, thực phẩm chức năng. 
3. Xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu sau khi thu thập được làm sạch, 
nhập liệu bằng phần mềm Epi data, sau đó 
được chuyển sang phần mềm Stata phân tích. 
Các thống kê mô tả được áp dụng. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Đề cương nghiên cứu được thông qua và 
đồng ý của Hội đồng khoa học thông qua đề 
cương nghiên cứu của Viện đào tạo Y học Dự 
phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà 
Nội. Quá trình nghiên cứu không gây tổn hại cho 
người tham gia về sức khỏe và tinh thần. 
 150 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu (n = 107) 
Đặc điểm Tần số % 
Tuổi < 30 tuổi 26 24,3 
30 - 39 tuổi 46 43,0 
40 - 49 tuổi 18 16,8 
≥ 50 tuổi 17 15,9 
Trung vị (Khoảng tứ phân vị) 34 (30 - 44) 
Giới tính Nam 51 47,7 
Nữ 56 52,3 
Quan hệ với chủ hộ Chủ hộ/Vợ của chủ hộ 90 84,1 
Khác (bố, mẹ, em ruột) 17 15,9 
Trình độ học vấn Từ trung cấp trở xuống 17 15,9 
Cao đẳng/Đại học 73 68,2 
Sau đại học 17 15,9 
Số người trong gia đình 1 - 2 người 16 15,0 
3 - 4 người 69 64,5 
> 4 người 22 20,5 
Đối tượng nghiên cứu có độ tuổi tham gia trong khoảng từ 21 đến 68 tuổi. Trong đó nhóm tuổi 
30 - 40 tuổi chiếm chủ yếu 43,0%. Tỷ lệ giới tính là nữ nhiều hơn nam, lần lượt là 52,3% và 
47,7%. Phần lớn đối tượng tham gia vào nghiên cứu là chủ hộ hoặc vợ của chủ hộ với tỷ lệ là 
84,1%. Đối tượng nghiên cứu có trình độ dân trí tương đối cao với tỷ lệ lớn nhất là 68,2% có trình 
độ cao đẳng/đại học, 15,9% có trình độ sau đại học. Về quy mô gia đình, chủ yếu là các hộ gia 
đình có 3 - 4 người với tỷ lệ 64,5%, tỷ lệ gia đình có trên 4 người là 20,5%, gia đình có 1 - 2 
người là thấp nhất chỉ chiếm 15,0%. 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 151 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 2. Nhu cầu tham gia các dịch vụ hỗ trợ khám, 
điều trị bệnh và theo dõi sức khỏe tại nhà của người dân 
Dịch vụ 
Không 
chấp nhận 
Phân vân Chấp nhận 
n (%) n (%) n (%) 
Tổ chức lấy máu, phân, nước tiểu xét nghiệm 
tại nhà 
15 (14,0) 5 (4,7) 91 (85,1) 
Tổ chức chụp phim, siêu âm, điện tim... tại nhà 
cho người có nhu cầu 
24 (22,4) 18 (16,8) 65 (60,8) 
Tổ chức các khu vui chơi, chăm sóc sức khoẻ 
ban ngày cho người cao tuổi ngay tại khu dân 
cư mà người cao tuổi đang sinh sống 
21 (19,6) 14 (13,1) 72 (67,3) 
Tổ chức các khu nghỉ dưỡng, chăm sóc sức 
khoẻ cả ngày lẫn đêm cho người cao tuổi tại 
các khu có cảnh quan, sinh thái đẹp 
27 (25,2) 18 (16,8) 62 (57,9) 
Cử cán bộ y tế đi cùng khi bệnh nhân có nhu 
cầu đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế 
tuyến trên hoặc ở nước ngoài 
29 (27,1) 22 (20,6) 56 (52,3) 
Cử phiên dịch hỗ trợ khi bệnh nhân đi khám, 
chữa bệnh ở nước ngoài 
32 (29,9) 22 (20,6) 53 (49,5) 
Cho thuê các trang thiết bị giúp cán bộ y tế và 
người nhà theo dõi bệnh nhân từ xa 
31 (29,0) 19 (17,8) 57 (53,3) 
Giới thiệu cơ sở khám chữa bệnh thích hợp 
nhất với từng người bệnh 
12 (11,2) 11 (10,3) 84 (78,5) 
Giới thiệu bác sỹ có uy tín thích hợp khám, 
điều trị cho từng bệnh nhân 
13 (12,2) 10 (9,4) 84 (78,5) 
Hỗ trợ bệnh nhân làm thủ tục khám, nhập viện 
tại các bệnh viện 
7 (6,5) 11 (10,3) 89 (83,2) 
Tư vấn và cung cấp các kênh thông tin, thuốc, 
thực phẩm chức năng có uy tín, thương hiệu 
cho người dân 
23 (21,5) 9 (8,4) 75 (70,1) 
Các dịch vụ y tế được người dân chấp nhận bao gồm: Tổ chức lấy máu, phân, nước tiểu xét 
nghiệm tại nhà (85,1%); Tư vấn và cung cấp các kênh thông tin, thuốc, thực phẩm chức năng có 
uy tín, thương hiệu cho người dân (70,1%); Giới thiệu cơ sở khám chữa bệnh, bác sỹ thích hợp 
nhất với từng người bệnh đều có tỷ lệ hưởng ứng là 78,5%. 
 152 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Các dịch vụ còn lại, người dân vẫn còn phân vân hoặc chưa chấp nhận như: Tổ chức các khu 
vui chơi, chăm sóc sức khoẻ ban ngày cho người cao tuổi ngay tại khu dân cư mà người cao tuổi 
đang sinh sống (67,3%); Tổ chức các khu nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khoẻ cả ngày lẫn đêm cho 
người cao tuổi tại các khu có cảnh quan, sinh thái đẹp (57,9%). Dịch vụ cho thuê các trang thiết 
bị giúp cán bộ y tế và người nhà theo dõi bệnh nhân từ xa cũng có số người hưởng ứng tương 
đối thấp với 53,3%. Dịch vụ cử cán bộ y tế đi cùng khi bệnh nhân có nhu cầu đi khám chữa bệnh 
tại các cơ sở y tế tuyến trên hoặc ở nước ngoài hoặc cử phiên dịch đi hỗ trợ có tỷ lệ hưởng ứng 
lần lượt là 52,3% và 49,5%. 
Bảng 3. Nhu cầu tham gia các dịch vụ khám, điều trị bệnh, 
theo dõi sức khỏe tại nhà của người dân 
Dịch vụ 
Không 
chấp nhận 
Phân vân Chấp nhận 
n (%) n (%) n (%) 
Bác sỹ đến khám, điều trị tại nhà cho các 
bệnh nhân cấp cứu 
26 (24,3) 19 (17,8) 62 (57,9) 
Bác sỹ đến khám, điều trị tại nhà cho các 
bệnh nhân bị bệnh mạn tính 
23 (21,5) 17 (15,9) 67 (62,6) 
Điều dưỡng đến chăm sóc bệnh nhân tại nhà 
khi có chỉ định của bác sỹ 
19 (17,8) 8 (7,5) 80 (74,8) 
Điều dưỡng ở cùng với gia đình để chăm sóc 
cho các bệnh nhân nặng 
40 (37,4) 26 (24,3) 41 (38,3) 
Điều dưỡng ở bệnh viện để chăm sóc cho 
bệnh nhân thay người nhà 
30 (28,0) 13 (12,2) 64 (59,8) 
Chăm sóc, giảm đau cho bệnh nhân ung thư 
giai đoạn cuối tại nhà 
23 (21,5) 10 (9,4) 74 (69,2) 
Tắm, thay băng rốn tại nhà cho trẻ sơ sinh 11 (10,3) 12 (11,2) 84 (78,5) 
Hỗ trợ chăm sóc tại nhà cho các bà mẹ có con 
nhỏ < 6 tháng 
12 (11,2) 21 (19,6) 74 (69,2) 
Tổ chức khám sức khỏe định kì cho tất cả các 
thành viên trong gia đình 
15 (14,0) 8 (7,5) 84 (78,5) 
Dịch vụ hỏi bệnh, đọc phim, đọc kết quả xét 
nghiệm, thăm dò chức năng, tư vấn, theo dõi 
bệnh nhân từ xa thông qua Internet và camera 
32 (29,9) 12 (11,2) 63 (58,9) 
Hầu hết các dịch vụ được người dân chấp nhận tham gia nhưng còn phân vân như: Bác sỹ 
đến khám, điều trị tại nhà cho các bệnh nhân cấp cứu (57,9%); Bác sỹ đến khám, điều trị tại nhà 
cho các người bệnh bị bệnh mạn tính (62,6%); Điều dưỡng ở bệnh viện để chăm sóc cho người 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 153 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
bệnh thay người nhà (59,8%); Dịch vụ hỏi bệnh, đọc phim, đọc kết quả xét nghiệm, thăm dò chức 
năng, tư vấn, theo dõi người bệnh từ xa thông qua Internet và camera (58,9%); Dịch vụ điều 
dưỡng ở cùng với gia đình để chăm sóc cho các bệnh nhân nặng có tỷ lệ chấp nhận thấp nhất 
chỉ 38,3%. 
Điều dưỡng chăm sóc tại nhà khi có chỉ định của bác sỹ (74,8%); Tắm, thay băng rốn tại nhà 
cho trẻ sơ sinh (78,5%); Chăm sóc, giảm đau cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối tại nhà và hỗ 
trợ chăm sóc tại nhà cho các bà mẹ có con nhỏ < 6 tháng (đều có tỷ lệ 69,2%) là những dịch vụ 
được người dân hưởng ứng tương đối tốt. 
IV. BÀN LUẬN 
Nghiên cứu chúng tôi cho thấy các dịch vụ 
hỗ trợ khám, điều trị, theo dõi sức khỏe như tổ 
chức lấy máu và các dịch tiết khác của cơ thể 
tại nhà được người dân chấp nhận tham gia 
với tỷ lệ cao nhất. Dịch vụ này không còn là 
mới đối với người dân sống tại một thành phố 
lớn như Hà Nội khi mà một số bệnh viện tư 
nhân đã cung cấp dịch vụ này từ tương đối 
sớm. Một nghiên cứu tại quận Tây Hồ của Hà 
Nội cũng cho kết quả có 83,2% người dân đã 
từng sử dụng dịch vụ siêu âm, lấy mẫu bệnh 
phẩm tại nhà [10]. Tuy nghiên nghiên cứu của 
chúng tôi cho kết quả với dịch vụ chụp phim, 
siêu âm, điện tim,.. tại nhà thì mức độ hưởng 
ứng thấp hơn nhiều so với nghiên cứu trước 
đó. Điều này có thể được giải thích bởi tất cả 
đối tượng của nghiên cứu tại Tây Hồ là người 
cao tuổi (> 60 tuổi) hoặc người giám hộ của 
người cao tuổi nên việc tới các cơ sở y tế để 
thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh 
là tương đối khó khăn. Thêm vào đó, chụp 
phim, điện tim hay siêu âm tại nhà thường 
được thực hiện bởi các kĩ thuật viên, các xét 
nghiệm cận lâm sàng này cần có sự xem xét 
và đọc kết quả cũng như tư vấn hướng xử trí 
của bác sỹ. Tận dụng yếu tố này, khi tổ chức 
triển khai dịch vụ này tại cộng đồng sau này, 
cần gắn liền sự bao quát của bác sỹ tới các 
dịch vụ xét nghiệm cận lâm sàng này, để 
người dân yên tâm sử dụng đồng thời cũng 
nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức 
khỏe được cung cấp. 
Dịch vụ giới thiệu cơ sở khám chữa bệnh, 
bác sỹ uy tín thích hợp nhất cho từng người 
bệnh có tỷ lệ hưởng ứng của người dân 
tương đối cao trong số 21 dịch vụ chăm sóc 
sức khỏe được đưa ra (đều là 78,5%). Như 
vậy ngoài nhu cầu về khám chữa bệnh các 
hoạt động liên quan tới hỗ trợ khám chữa 
bệnh cũng cần được quan tâm. Trong giai 
đoạn hiện nay, khi mà y tế dần trở thành một 
ngành dịch vụ với sự cạnh tranh cao, người 
dân cần nhiều hơn thông tin để có thể lựa 
chọn đúng bác sỹ cũng như cơ sở y tế để 
khám chữa bệnh. Quan tâm đến nhu cầu của 
người bệnh cũng là vấn đề quan trọng khi các 
cơ sở y tế cung cấp các dịch vụ của mình. 
Theo kết quả nghiên cứu, có tới hơn 80% 
người dân đồng ý tham gia dịch vụ hỗ trợ 
người bệnh làm thủ tục khám, nhập viện tại 
các bệnh viện. Đối với người bệnh và cả 
người nhà, việc có thể hoàn thành tốt các thủ 
tục trong khi người nhà hay chính bản thân 
mình đang đau ốm là một điều không dễ dàng 
và điều này cũng là vấn đề tồn tại ở một số 
bệnh viện công khi có 21,5% người bệnh gặp 
phải khó khăn khi làm thủ tục khám chữa 
bệnh tại bệnh viện đa khoa Trung ương Huế, 
 154 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
tỷ lệ này ở bệnh viện Bạch Mai theo một 
nghiên cứu năm 2008 là 24,8% [11]. Ngoài 
việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe 
trực tiếp, các dịch vụ hỗ trợ thủ tục hành chính 
cho hoạt động chăm sóc sức khỏe cũng cần 
được chú ý tới, việc này đã được một số bệnh 
viện thực hiện tương đối tốt như Bệnh viện 
Tim Hà Nội, bệnh viện Quân Y 110 [12; 13]. 
Ngược lại, một số dịch vụ hỗ trợ quá trình 
khám chữa bệnh khác lại ít được hưởng ứng 
như dịch vụ cử cán bộ y tế hay cử người 
phiên dịch đi hỗ trợ khi người dân có nhu cầu 
khám chữa bệnh tại nước ngoài. Có thể do cỡ 
mẫu còn hạn chế, nhóm đối tượng tiếp cận 
được hiện tại còn chưa quan tâm tới các dịch 
vụ chăm sóc sức khỏe ở nước ngoài nên việc 
sẵn sàng tham gia chỉ ở mức trung bình thấp. 
Một dịch vụ tương đối mới ở nước ta mà 
chưa có cơ sở y tế nào triển khai đó là tư vấn 
cung cấp các kênh thông tin, thuốc, thực 
phẩm chức năng có uy tín, thương hiệu cho 
người dân, mặc dù vậy dịch vụ này vẫn được 
người dân đồng ý tham gia với tỷ lệ tương đối 
cao. Trong thời điểm bùng nổ thông tin như 
hiện nay, việc người dân thiếu các thông tin 
cơ bản để chăm sóc sức khỏe sẽ dẫn tới việc 
lựa chọn không đúng thuốc hay thực phẩm 
chức năng gây thiệt hại nhiều về kinh tế, sức 
khỏe [14]. Việc tư vấn lựa chọn thuốc và thực 
phẩm chức năng đúng và chất lượng để điều 
trị bệnh và nâng cao sức khỏe tuy không phải 
hoạt động chăm sóc sức khỏe trực tiếp nhưng 
lại tác động không nhỏ tới sức khỏe của 
người dân. Với những lợi ích thực tế mà dịch 
vụ này mang lại cộng với tỷ lệ hưởng ứng 
cao, thực hiện triển khai dịch vụ này là tương 
đối khả thi. 
Bên cạnh nhóm dịch vụ hỗ trợ, các nhóm 
dịch vụ khám, điều trị và chăm sóc sức khỏe 
cũng được người dân hưởng ứng. Kết quả 
cho thấy các dịch vụ chăm sóc tại nhà được 
cung cấp bởi điều dưỡng có sự khác biệt 
nhau ở mức độ tham gia hưởng ứng trong khi 
với dịch vụ điều dưỡng chăm sóc người bệnh 
tại nhà khi có chỉ định của bác sỹ tỷ lệ hưởng 
ứng là tương đối cao – cao hơn nhiều so với 
nghiên cứu trên đối tượng người cao tuổi của 
Đàm Trọng Hiếu chỉ 32,7% [10]. Sự khác biệt 
có thể nằm ở đối tượng trả lời của 2 nghiên 
cứu là khác nhau, ở nghiên cứu của Đàm 
Trọng Hiếu toàn bộ là người trên 60 tuổi hoặc 
người giám hộ còn nghiên cứu của chúng tôi 
là trên đối tượng người dân nói chung. Hoạt 
động điều dưỡng tại nhà thường diễn ra với 
tần suất cao, chi phí nếu sử dụng dịch vụ này 
thường xuyên có thể là không nhỏ. Do vậy đối 
tượng người dân trong độ tuổi lao động, có 
thu nhập sẽ có khả năng hưởng ứng cao hơn 
là người cao tuổi ít thu nhập hoặc thu nhập 
dựa vào người thân. Tỷ lệ người dân hưởng 
ứng với dịch vụ điều dưỡng chăm sóc sức 
khỏe tại nhà giảm đi nhiều khi người điều 
dưỡng ở lại sống cùng gia đình để chăm sóc 
người bệnh. Nguyên nhân có thể do gia đình 
người bệnh thấy không thoải mái khi nhân 
viên y tế sống tại gia đình để chăm sóc người 
bệnh. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ đề cập tới 
nhu cầu nói chung cho các hoạt động chăm 
sóc sức khỏe tại nhà do điều dưỡng thực hiện 
khi có chỉ định của bác sỹ mà chưa đề cập cụ 
thể tới nhu cầu cho từng dịch vụ cụ thể. Một 
nghiên cứu tại Na Uy khảo sát nhu cầu của 
người cao tuổi chăm sóc sức khỏe tại nhà bởi 
điều dưỡng đối với các dịch vụ cụ thể thì nhu 
cầu của người dân tương đối khác biệt: quản 
lý việc uống thuốc (98%); hỗ trợ sinh hoạt cá 
nhân (82%); tiêm truyền, cho ăn qua sonde, 
duy trì sonde tiểu (52%),‰ [15]. Như vậy, khi 
triển khai dịch vụ vẫn cần chú ý tới nhu cầu 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 155 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
của người dân cho các hoạt động cụ thể để 
đáp ứng tốt, phù hợp nhu cầu thực tế của 
người dân. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả với 
nhóm dịch vụ khám chữa bệnh cho bệnh nhân 
cấp cứu hoặc bệnh mạn tính tỷ lệ người dân 
chấp nhận tham gia ở mức trung bình và tỷ lệ 
hưởng ứng dịch vụ khám chữa bệnh mạn tính 
thì cao hơn các bệnh cấp cứu, dù vậy tỷ lệ 
này thấp hơn so với tỷ lệ của một nghiên cứu 
của Đàm Trọng Hiếu và cộng sự khi tỷ lệ 
khám hoặc điều trị bệnh chuyên khoa tại nhà 
là 70,8% [10]. Lý giải cho việc người dân 
hưởng ứng cho các dịch vụ khám, điều trị 
bệnh mạn tính nhiều hơn, người dân vẫn tin 
tưởng các bệnh viện đối với các trường hợp 
cấp cứu hơn là khám và điều trị tại nhà, điều 
này cũng phù hợp khi mà thực trạng trang 
thiết bị cũng như dịch vụ chăm sóc sức khỏe 
hiện nay ở nước ta còn chưa đủ cơ động và 
hiện đại để có thể cấp cứu và điều trị bệnh 
nhân cấp cứu tại nhà. Nghiên cứu của tác giả 
Đàm Trọng Hiếu có tỷ lệ tham gia dịch vụ cao 
hơn có thể do sự khác biệt về đối tượng 
nghiên cứu (đối tượng là người trên 60 tuổi) 
nhu cầu khám bệnh chuyên khoa của nhóm 
này cao hơn hẳn nhóm trẻ tuổi hơn do mô 
hình bệnh tật của người cao tuổi ở Việt Nam 
chủ yếu là các bệnh mạn tính [16]. 
Nghiên cứu này cũng cho ra kết quả mức 
độ tham gia với dịch vụ y tế từ xa của người 
dân còn chưa cao chưa tới 60%. Y tế từ xa có 
thể giúp người dân tiếp cận với những bác sỹ 
chuyên gia, đồng thời có thể tiết kiệm chi phí 
đi lại, ăn ở. Mặc dù tỷ lệ người dân có quan 
điểm tích cực đối với dịch vụ này là cao 
(80,7%) tuy nhiên vì dịch vụ còn khá mới ở 
Việt Nam nên có nhiều lý do khiến cho người 
dân khi quyết định tham gia dịch vụ này còn 
dè chừng, ví dụ như chất lượng của dịch vụ 
chưa được kiểm chứng, hay như một nghiên 
cứu về y tế từ xa tại Uganda cho kết quả 
khách hàng cảm thấy không thoải mái khi sử 
dụng dịch vụ y tế từ xa bởi họ lo sợ chia sẻ 
thông tin cá nhân của mình với những người 
xa lạ [17]. 
Hạn chế của nghiên cứu: Nghiên cứu chọn 
mẫu toàn bộ người dân đang sống tại khu 
chung cư CT1A-B. Tuy nhiên, việc tiếp cận 
các đối tượng và sự hưởng ứng tham gia 
nghiên cứu của họ còn hạn chế. Điều này dẫn 
đến tỉ lệ đáp ứng tham gia nghiên cứu chưa 
cao và chưa đại diện. 
V. KẾT LUẬN 
Một số dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà 
người dân có nhu cầu cao như: điều dưỡng 
chăm sóc tại nhà khi có chỉ định của bác sỹ; tổ 
chức lấy máu, phân, nước tiểu xét nghiệm tại 
nhà; tắm, thay băng rốn tại nhà cho trẻ sơ 
sinh, tắm, thay băng rốn tại nhà cho trẻ sơ 
sinh; chăm sóc, giảm đau cho bệnh nhân ung 
thư giai đoạn cuối tại nhà; hỗ trợ chăm sóc tại 
nhà cho các bà mẹ có con nhỏ < 6 tháng; giới 
thiệu cơ sở khám chữa bệnh, bác sỹ thích 
hợp nhất với từng người bệnh. 
Các dịch vụ mà người dân ít chấp nhận 
tham gia như: dịch vụ điều dưỡng ở cùng với 
gia đình để chăm sóc cho các bệnh nhân 
nặng; dịch vụ cho thuê các trang thiết bị giúp 
cán bộ y tế và người nhà theo dõi bệnh nhân 
từ xa; dịch vụ cử cán bộ y tế đi cùng khi bệnh 
nhân có nhu cầu đi khám chữa bệnh tại các 
cơ sở y tế tuyến trên hoặc ở nước ngoài hoặc 
cử phiên dịch đi hỗ trợ. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Trạm Y 
tế phường Mễ Trì, Ban quản trị chung cư VOV 
 156 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Mễ Trì đã phối hợp và giúp đỡ nhóm nghiên 
cứu trong quá trình thu thập số liệu. Các tác 
giả cam kết không xung đột lợi ích từ kết quả 
nghiên cứu. Nghiên cứu được sự tài trợ của 
Trường Đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. The Official U.S Govement Site for 
Medicare (2017). What’s home health care? 
Available from www.medicare.gov/what-medicare 
-covers/home-health-care/home-health-care-
what-is-it-what-to-expect.html.Accessed at 
02/12 /2017. 
2. Ramallo VJG và Tamayo MIP (1998). 
Historia de la hospitalización a domicilio. In: 
Glez MDD, coordinador. Hospitalización a 
domicilio. Madri: Hoechst Marion Rousse, 13-
22. 
3. Mendes EV (2001). The great dilemmas 
of SUS. Salvador: Casa da Qualidade Editora, 
4. Steven Landers, Elizabeth Madigan, 
Bruce Leff et al (2016). The future of home 
health care: A strategic Framework for opti-
mizing value. Home Health Care Management 
& Practice 2016, 28(4), 262 - 278. 
5. The Medicare Payment Advisory 
Commission (2016). Home health care ser-
vices: Assessing payment adequacy and up-
dating payments. Report to the Congress: 
Medicare Payment Policy, 8. 
6. Tổng cục thống kê và Quỹ dân số 
Liên hợp quốc (2016). Dự báo dân số Việt 
Nam 2014 - 2049. GSO: Nhà xuất bản thông 
tấn, Hà Nội. 
7. Viện chiến lược và chính sách y tế 
(2011). Nghiên cứu thực trạng quá tải, dưới 
tải của hệ thống bệnh viện các tuyến và đề 
xuất giải pháp khắc phục. 
8. Government of Canada (1999). Home 
Care in Canada 1999: An Overview. 
9. The Office of Health and the Informa-
tion Highway và Policy and Consultation 
Branch Health Canada (1998). Tele-
homecare: An Overview. Background Paper 
for Discussion. 
10. Đàm Trọng Hiếu, Phạm Văn Tác, 
Nguyễn Thị Hoài Thu và cộng sự (2016). 
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe tại nhà của 
người cao tuổi tại quận Tây Hồ, Hà Nội năm 
2016 và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Y 
học thực hành, 7(1015), 23. 
11. Nguyễn Thị Hương (2010). Khảo sát 
sự hài lòng của người bệnh điều trị nội trú tại 
bệnh viện thành phố Huế năm 2010. 
12. Nguyễn Văn Chung và Diêm Đăng 
Thanh (2015). Khảo sát sự hài lòng của 
người bệnh, thân nhân người bệnh đến khám 
và điều trị nội trú tại bệnh viện quân y 110 
năm 2014. Hội nghị khoa học điều dưỡng. 
13. Bệnh viện Tim Hà Nội (2011). Khảo 
sát sự hài lòng của người bệnh và thân nhân 
người bệnh tại bênh viện Tim Hà Nội giai 
đoạn 2007 - 2010. 
14. Eva Landstrom (2008). To Choose or 
not to Choose Functional Foods, that is the 
Question. Swedish Consumers’ and Health-
care Professionals’ Attitudes to and Use of 
Functional Foods. Digital Comprehensive 
Summaries of Uppsala Dissertations from the 
Faculty of Social Sciences, 45. 
15. Gro Næss, Marit Kirkevold, Wenche 
Hammer và cộng sự (2017). Nursing care 
needs and services utilised by home-dwelling 
elderly with complex health problems: obser-
vational study. BMC Health Services Re-
search, 17(645). 
16. World Health Organization. Global 
Health Estimate (GHE) (2014). Diseases and 
injury country mortality estimates, 2000 - 
2012. Geneva: WHO. 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 157 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
17. Stephen R, Isabalija, Kituyi G et al (2011). Factor affecting adoption, implementation and 
sustainability of Telemedicine information systems in Uganda. Health Informatics in Developing 
Countries. 
Summary 
HOME HEALTH CARE SERVICES AMONG PEOPLE 
LIVING IN URBAN BUILDINGS IN HANOI 
A cross-sectional study of people living in CT1A-B buildings and VOV apartments was con-
ducted to describe the demand for participation in home health care services in Hanoi. Health ser-
vices in high demand are blood collection for laboratory tests (85.1%); bathing and umbilical 
dressing at home for newborns (78.5%). Health services in moderate to low demand are in- home 
professional nurse care (38.3%), medical staff companion to assist patients in need of higher level 
care locally or at overseas medical facilities (52.3%) and interpreters (49.5%). In conclusion, it is 
essential to train health care staff to provide home health care services that meet the all levels of 
requirements of the community. 
Key words: home health care, demand for participation 

File đính kèm:

  • pdfnhu_cau_tham_gia_dich_vu_cham_soc_suc_khoe_tai_nha_cua_nguoi.pdf