Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ

Tóm tắt:

Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. Đặc

biệt về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – nghệ

thuật Khmer Nam Bộ, đó là đã khai sinh ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và Dù kê (hay

Yu kê). Bài báo đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù

kê trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam

pdf 6 trang yennguyen 6060
Bạn đang xem tài liệu "Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ

Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014170 Soá 13, thaùng 3/2014 171
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ THUẬT DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
 Thái Nguyễn Đức Minh Quân1
Tóm tắt:
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. Đặc 
biệt về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – nghệ 
thuật Khmer Nam Bộ, đó là đã khai sinh ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và Dù kê (hay 
Yu kê). Bài báo đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù 
kê trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
Từ khóa: Khmer, Dù kê, Nam Bộ, nghệ sĩ, Ream kê
Abstracts:
The Khmer of Southern Vietnam from long had a cultural treasure extremely rich and unique. 
Especially in theater arts, Khmer important contribution in cultural treasure - South Khmer art, 
which they gave birth to the two art forms theater is the hash Ro-bam and Du-ke (of Yu ke). In the 
framework paper for the Journal of Yu ke Khmer, the article will discuss the history and development, 
the characteristics of theater arts Du ke in Khmer culture of Southern in Vietnam.
Key words: Khmer, Du ke, Southern of Vietnam, artists, Ream Ke
1 Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn
DẪN NHẬP
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một 
kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. 
Đặc biệt, về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có 
đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – 
nghệ thuật Khmer Nam Bộ, đó là họ đã khai sinh 
ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và 
Dù kê (hay Yu kê). Trong khuôn khổ bài báo, tác 
giả sẽ đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, 
những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù kê 
trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
 1. Khái lược về lịch sử hình thành, phát triển 
của nghệ thuật Dù kê
Dù kê (còn có tên khác: Dì kê (Yikê), Atrác-
ty-bay (Dì kê có thuyết minh trích tuồng), Lăm 
Rom Rương (Dì kê hát múa truyện) là một loại 
hình nghệ thuật sân khấu rất đặc trưng của người 
Khmer Nam Bộ từ lâu đời. Theo nhiều tài liệu 
ghi lại, loại hình nghệ thuật này do ông Thạch 
Sua là sư cả chùa Ksach Kandan sáng lập ở tỉnh 
Trà Vinh2. 
2 Có khá nhiều ý kiến khác nhau về người sáng lập và nơi khai sinh 
của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ: Một số nghệ sĩ ở Sóc Trăng 
cho rằng, người sáng lập là Lý Con. Số khác lại cho rằng do một đoàn 
hát có tên “Kru-cưu” ở Trà Vinh. Thế nhưng, được số đông đồng tình 
là do nghệ nhân Thạch Sua lập ra ở Trà Vinh vào thập niên 20 của 
thế kỷ XX
Ra đời trong bổi cảnh cuộc khai thác thuộc 
địa lần II của Pháp ở Việt Nam, sự hưng thịnh của 
nhiều loại hình sân khấu lớn ở Nam Bộ nên Dù kê 
có điều kiện tiếp thu và phát triển. Về nguồn gốc, 
từ “Dù kê” có gốc là từ “À Kê” (thằng Kê). Do 
tiếng tăm vang dội nên nhiều người Kinh đến xem 
rần rần và họ gọi là “Vũ Kê” (múa của thằng Kê). 
Do cách phát âm gần giống của người Kinh (chữ 
“V” và “D”), họ đã đọc trại “Vũ kê” thành từ “Dũ 
kê”. Qua thời gian, từ “Dũ kê” trở thành “Dù kê” 
(tiếng Khmer viết là Dur-Kêrti)3. Tên gọi dù trong 
tiếng Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi; 
còn kê nghĩa là kế thừa, sợi dây nối dài4. 
Ban đầu khi mới thành lập, sân khấu Dù kê 
còn được gọi là Sân khấu giàn bầu (Lo-khôn Trơn 
Khlôk). Các vở diễn đầu tiên của Dù kê thường lấy 
truyện tích Ấn Độ như Ream kê, Chia Đok (tích 
Phật). Về sau, các nghệ sĩ Khmer liên tục soạn 
thảo và đã trình làng nhiều vở diễn mới: “Satra 
Rương” khot Bondam Xây; Túp Xăng Wa thu 
3 Sang Sết. 2013. “Nghệ thuật sân khấu Dù kê là di sản văn 
hóa”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer 
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc. Trường Đại học Trà Vinh 
xuất bản nội bộ. tr.13 – 14. 
4 Thạch Ba Xuyên . 2013. “Từ múa Rô-băm đến diễn xướng 
Dù kê của người Khmer Nam Bộ”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ 
thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân 
tộc. Trường Đại học Trà Vinh xuất bản nội bộ. tr. 306
hút số đông khán giả xem và ủng hộ nhiệt tình. Lối 
diễn ban đầu của Dù kê là Àpei (hay À pêk) và diễn 
viên toàn là nam (vai nữ cũng do nam đóng giả).
Đến những năm 30, do tác động của cuộc 
khủng hoảng kinh tế và cao trào Xô Viết - Nghệ 
Tĩnh đang diễn ra ở Bắc Trung Bộ, các đoàn nghệ 
thuật Dù kê đã di chuyển sang Campuchia vì 
cho rằng vùng này khá yên bình, có thể trú chân 
được5. Người dân xứ Chùa Tháp vì yêu mến loại 
hình nghệ thuật mới này nên họ đã đặt tên rất gần 
gũi, thân quen là Lo-khon Bassac (kịch hát miền 
sông Hậu). Vào thời gian này (1930 – 1970), đã 
có 16 đoàn Dù kê6 hoạt động rải rác trên hai tỉnh 
Trà Vinh và Sóc Trăng. Các đoàn hát mạnh nhất 
và có ảnh hưởng nhất là gánh Tự Lập Ban của Xã 
Kọl, Tự Lập Thành của Tà Tia (em trai Xã Kọl) và 
Nhật Nguyệt Quang của ông Sơn Kưu (tách khỏi 
gánh Tự Lập Thành). Các đoàn hát này đã làm việc 
không biết mệt mỏi và cho ra đời nhiều tác phẩm 
có chất lượng và một dàn diễn viên diễn xuất rất 
tuyệt vời. 
Đến thời kháng Mỹ, nghệ thuật sân khấu Dù kê 
vẫn phát triển; mạnh nhất ở vùng phía Nam sông 
Hậu. Tại đây, đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình 
Minh được thành lập (tháng 4/1963, Trà Vinh) và 
hoạt động mạnh mẽ, cổ vũ nhân dân miền Nam 
5 Thời đó, Campuchia bị Pháp thống trị từ lâu. Khi các đoàn 
nghệ thuật Dù kê Khmer di chuyển sang đây, người Pháp 
đã đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Preivieng - Congpong 
Ch’nang (1925) nên Campuchia khá yên bình nên các đoàn 
Dù kê Khmer qua là một điều tất yếu. 
6 16 đoàn Dù kê là:
- Trà Vinh là đoàn Tự Lập Ban của Xã Kọl (1919 - 1944, xã 
An Ninh, huyện Mỹ Tú), Tự Lập Ban của bà Lý Thị Sô Phi 
(1946 - 1972), con Xã Kọl); đoàn Tổ Lập Thành của Tà Thại 
(1934 - 1943), Tổ Lập Thành của Xã Tỷ (1934 - 1945, Vũng 
Thơm), đoàn Ánh Sáng cùa Tà Kươn (1946 - 1968, xã Đại 
Tâm, huyện Mỹ Xuyên).
- Sóc Trăng: đoàn Bà Bầu (1926, xã Nguyệt Hóa), Xã 
Nhượng (1929, Tri Tân), Quản Sách (1930, xã Lương Hòa), 
Tà Chuôl (xã Tập Ngãi), Tà Tưng – Tà Mục (xã Long Đức), 
Tà Yên (huyện Càng Long), Tự Lập Thành của Tà Tia (xã Lưu 
Nghiệp Anh, huyện Trà Cú), Võ Lập Thành (do 2 gánh Tự Lập 
Thành – Tà Yên sát nhập), Hoa Long Thành của Thạch Hoa 
(1934), Nhật Nguyệt Quang của Sơn Kưu – Đại An (1930 – 
1975, huyện Trà Cú), Nhật Nguyệt Thành của Thạch Vông 
– Thạch Tu Quang (1952 – 1953). 
 Xem trong Sơn Lương (2012), Tìm hiểu nghệ thuật sân 
khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng, 
Nxb Hội Văn hóa nghệ thuật Sóc Trăng; tr. 100, 130 và 133; 
Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Người Khmer Cửu Long, Sở Văn 
hóa Thông tin Cửu Long xuất bản; tr. 181 – 184. 
cùng với Lào, Campuchia đánh thắng quân Mỹ 
xâm lược. Sau năm 1975, được sự quan tâm của 
chính quyền và nhân dân các địa phương mà nghệ 
thuật Dù kê đã và đang tồn tại, trở thành một món 
ăn tinh thần bổ ích cho người Khmer và các dân 
tộc khác ở Nam Bộ hiện nay.
2. Những đặc điểm của nghệ thuật Dù kê Khmer 
Nam Bộ
Đặc điểm thứ nhất, Dù kê ra đời muộn hơn so 
với các loại hình nghệ thuật khác (Cải lương của 
người Kinh, hát Tiều của Trung Hoa). Sở dĩ như 
thế vì loại hình nghệ thuật của người Khmer trước 
đó là Rô băm bị lạc hậu và lỗi thời, không theo 
kịp xu hướng thời đại mới. Bên cạnh đó, sự xuất 
hiện của các loại hình sân khấu của người Kinh 
(Chèo, Tuồng, Cải lương), người Hoa (hát Tiều, 
hát Quảng) và sân khấu của người Pháp với một 
sự phong phú về nội dung vở diễn, diễn viên đã 
thổi một luồng sinh khí mới cho nghệ thuật sân 
khấu của người Khmer Nam Bộ. Trước tình thế 
đó, để theo kịp với xu hướng thời đại, những nghệ 
sĩ Khmer có tâm huyết với sân khấu đã sáng tạo ra 
một loại hình sân khấu Khmer mới – đó là nghệ 
thuật sân khấu Dù kê.
Vừa ra đời, nghệ thuật sân khấu Dù kê nhanh 
chóng phát triển và dần tạo được chỗ đứng trong 
lòng khán giả. Các nghệ sĩ Dù kê khi đó đã kế thừa 
nền nghệ thuật sân khấu Khmer trước đó (nghệ 
thuật Rô băm), đồng thời tiếp thu một cách có chọn 
lọc và sáng tạo những thành tựu của nghệ thuật sân 
khấu của người Kinh, Hoa, phương Tây để từ đó 
cho ra đời những vở diễn Dù kê hay, có chất lượng 
và một dàn diễn viên Dù kê có tài, có tâm huyết 
với nghề. Họ đã làm việc hăng say, không biết mệt 
mỏi và đã tạo ra những vở diễn Dù kê thành công, 
nhận được sự hướng ứng nhiệt tình của đông đảo 
người xem.
Đặc điểm thứ hai, nội dung các vở diễn Dù 
kê được thay đổi cho phù hợp với thị hiếu quần 
chúng và làm cho nghệ thuật Dù kê phát triển 
mạnh hơn. Lúc đầu, do Dù kê ra đời một cách vội 
vã để cứu vãn nghệ thuật sân khấu cũ sắp tàn (Rô 
băm), chống lại những trào lưu sân khấu ngoại lai 
của người Kinh, người Hoa nên Dù kê chưa có vở 
diễn cụ thể. Để hợp thức hóa và khẳng định sự tồn 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014170 Soá 13, thaùng 3/2014 171
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ THUẬT DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
 Thái Nguyễn Đức Minh Quân1
Tóm tắt:
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. Đặc 
biệt về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – nghệ 
thuật Khmer Nam Bộ, đó là đã khai sinh ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và Dù kê (hay 
Yu kê). Bài báo đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù 
kê trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
Từ khóa: Khmer, Dù kê, Nam Bộ, nghệ sĩ, Ream kê
Abstracts:
The Khmer of Southern Vietnam from long had a cultural treasure extremely rich and unique. 
Especially in theater arts, Khmer important contribution in cultural treasure - South Khmer art, 
which they gave birth to the two art forms theater is the hash Ro-bam and Du-ke (of Yu ke). In the 
framework paper for the Journal of Yu ke Khmer, the article will discuss the history and development, 
the characteristics of theater arts Du ke in Khmer culture of Southern in Vietnam.
Key words: Khmer, Du ke, Southern of Vietnam, artists, Ream Ke
1 Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn
DẪN NHẬP
Người Khmer Nam Bộ từ lâu đời đã có một 
kho tàng văn hóa vô cùng phong phú và độc đáo. 
Đặc biệt, về nghệ thuật sân khấu, người Khmer có 
đóng góp rất quan trọng trong kho tàng văn hóa – 
nghệ thuật Khmer Nam Bộ, đó là họ đã khai sinh 
ra hai loại hình nghệ thuật sân khấu là Rô băm và 
Dù kê (hay Yu kê). Trong khuôn khổ bài báo, tác 
giả sẽ đề cập về lịch sử hình thành và phát triển, 
những đặc điểm của nghệ thuật sân khấu Dù kê 
trong văn hóa Khmer Nam Bộ Việt Nam.
 1. Khái lược về lịch sử hình thành, phát triển 
của nghệ thuật Dù kê
Dù kê (còn có tên khác: Dì kê (Yikê), Atrác-
ty-bay (Dì kê có thuyết minh trích tuồng), Lăm 
Rom Rương (Dì kê hát múa truyện) là một loại 
hình nghệ thuật sân khấu rất đặc trưng của người 
Khmer Nam Bộ từ lâu đời. Theo nhiều tài liệu 
ghi lại, loại hình nghệ thuật này do ông Thạch 
Sua là sư cả chùa Ksach Kandan sáng lập ở tỉnh 
Trà Vinh2. 
2 Có khá nhiều ý kiến khác nhau về người sáng lập và nơi khai sinh 
của nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ: Một số nghệ sĩ ở Sóc Trăng 
cho rằng, người sáng lập là Lý Con. Số khác lại cho rằng do một đoàn 
hát có tên “Kru-cưu” ở Trà Vinh. Thế nhưng, được số đông đồng tình 
là do nghệ nhân Thạch Sua lập ra ở Trà Vinh vào thập niên 20 của 
thế kỷ XX
Ra đời trong bổi cảnh cuộc khai thác thuộc 
địa lần II của Pháp ở Việt Nam, sự hưng thịnh của 
nhiều loại hình sân khấu lớn ở Nam Bộ nên Dù kê 
có điều kiện tiếp thu và phát triển. Về nguồn gốc, 
từ “Dù kê” có gốc là từ “À Kê” (thằng Kê). Do 
tiếng tăm vang dội nên nhiều người Kinh đến xem 
rần rần và họ gọi là “Vũ Kê” (múa của thằng Kê). 
Do cách phát âm gần giống của người Kinh (chữ 
“V” và “D”), họ đã đọc trại “Vũ kê” thành từ “Dũ 
kê”. Qua thời gian, từ “Dũ kê” trở thành “Dù kê” 
(tiếng Khmer viết là Dur-Kêrti)3. Tên gọi dù trong 
tiếng Khmer có nghĩa là gom góp, vớt vát, sửa đổi; 
còn kê nghĩa là kế thừa, sợi dây nối dài4. 
Ban đầu khi mới thành lập, sân khấu Dù kê 
còn được gọi là Sân khấu giàn bầu (Lo-khôn Trơn 
Khlôk). Các vở diễn đầu tiên của Dù kê thường lấy 
truyện tích Ấn Độ như Ream kê, Chia Đok (tích 
Phật). Về sau, các nghệ sĩ Khmer liên tục soạn 
thảo và đã trình làng nhiều vở diễn mới: “Satra 
Rương” khot Bondam Xây; Túp Xăng Wa thu 
3 Sang Sết. 2013. “Nghệ thuật sân khấu Dù kê là di sản văn 
hóa”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer 
Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc. Trường Đại học Trà Vinh 
xuất bản nội bộ. tr.13 – 14. 
4 Thạch Ba Xuyên . 2013. “Từ múa Rô-băm đến diễn xướng 
Dù kê của người Khmer Nam Bộ”. Kỷ yếu Hội thảo Nghệ 
thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân 
tộc. Trường Đại học Trà Vinh xuất bản nội bộ. tr. 306
hút số đông khán giả xem và ủng hộ nhiệt tình. Lối 
diễn ban đầu của Dù kê là Àpei (hay À pêk) và diễn 
viên toàn là nam (vai nữ cũng do nam đóng giả).
Đến những năm 30, do tác động của cuộc 
khủng hoảng kinh tế và cao trào Xô Viết - Nghệ 
Tĩnh đang diễn ra ở Bắc Trung Bộ, các đoàn nghệ 
thuật Dù kê đã di chuyển sang Campuchia vì 
cho rằng vùng này khá yên bình, có thể trú chân 
được5. Người dân xứ Chùa Tháp vì yêu mến loại 
hình nghệ thuật mới này nên họ đã đặt tên rất gần 
gũi, thân quen là Lo-khon Bassac (kịch hát miền 
sông Hậu). Vào thời gian này (1930 – 1970), đã 
có 16 đoàn Dù kê6 hoạt động rải rác trên hai tỉnh 
Trà Vinh và Sóc Trăng. Các đoàn hát mạnh nhất 
và có ảnh hưởng nhất là gánh Tự Lập Ban của Xã 
Kọl, Tự Lập Thành của Tà Tia (em trai Xã Kọl) và 
Nhật Nguyệt Quang của ông Sơn Kưu (tách khỏi 
gánh Tự Lập Thành). Các đoàn hát này đã làm việc 
không biết mệt mỏi và cho ra đời nhiều tác phẩm 
có chất lượng và một dàn diễn viên diễn xuất rất 
tuyệt vời. 
Đến thời kháng Mỹ, nghệ thuật sân khấu Dù kê 
vẫn phát triển; mạnh nhất ở vùng phía Nam sông 
Hậu. Tại đây, đoàn nghệ thuật Khmer Ánh Bình 
Minh được thành lập (tháng 4/1963, Trà Vinh) và 
hoạt động mạnh mẽ, cổ vũ nhân dân miền Nam 
5 Thời đó, Campuchia bị Pháp thống trị từ lâu. Khi các đoàn 
nghệ thuật Dù kê Khmer di chuyển sang đây, người Pháp 
đã đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Preivieng - Congpong 
Ch’nang (1925) nên Campuchia khá yên bình nên các đoàn 
Dù kê Khmer qua là một điều tất yếu. 
6 16 đoàn Dù kê là:
- Trà Vinh là đoàn Tự Lập Ban của Xã Kọl (1919 - 1944, xã 
An Ninh, huyện Mỹ Tú), Tự Lập Ban của bà Lý Thị Sô Phi 
(1946 - 1972), con Xã Kọl); đoàn Tổ Lập Thành của Tà Thại 
(1934 - 1943), Tổ Lập Thành của Xã Tỷ (1934 - 1945, Vũng 
Thơm), đoàn Ánh Sáng cùa Tà Kươn (1946 - 1968, xã Đại 
Tâm, huyện Mỹ Xuyên).
- Sóc Trăng: đoàn Bà Bầu (1926, xã Nguyệt Hóa), Xã 
Nhượng (1929, Tri Tân), Quản Sách (1930, xã Lương Hòa), 
Tà Chuôl (xã Tập Ngãi), Tà Tưng – Tà Mục (xã Long Đức), 
Tà Yên (huyện Càng Long), Tự Lập Thành của Tà Tia (xã Lưu 
Nghiệp Anh, huyện Trà Cú), Võ Lập Thành (do 2 gánh Tự Lập 
Thành – Tà Yên sát nhập), Hoa Long Thành của Thạch Hoa 
(1934), Nhật Nguyệt Quang của Sơn Kưu – Đại An (1930 – 
1975,  ... biết, Sâm-phôn là các làn điệu tả khung cảnh 
biệt ly, hay bị đánh đập (nó có 3 điệu: phân, 
toeng và thu).
- Angkoreach: dành cho tâm trạng buồn 
thảm (hơn cả Sâm-phôn). 
- Sầm chriêng pôn, Tăng-sầm pôn Thu: 
làn điệu hát có giọng cao và thấp, thường dùng vào 
vai Công chúa.
- Mahôri: giọng nữ buồn
- Chriêng bompeKôn: các làn điệu ru con
- Che chông: làn điệu hát của trai gái yêu 
nhau (hát huê tình). 
- Phách chê và Xen trea: những làn 
điệu giận dữ, khỏe mạnh thường dùng cho vai 
Chằn, Phù thủy và Thợ săn trong những trường 
hợp đối địch.
Trong mỗi bản nhạc của bốn giai điệu trên, 
còn chia nhiều tiểu bản nhỏ và một số giai điệu 
phụ khác. Các làn điệu chính được sử dụng trong 
hát Dù kê là: Sâm-phôn, Angkoreach, Mahôri và 
Phách chê7. Qua tư liệu tổng kết của Trường Đại 
học Văn hóa – Hoàng gia Campuchia, bài bản sử 
7 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại. 
Hà Nội. tr. 246. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014174 Soá 13, thaùng 3/2014 175
dụng trong Dù kê có 160 bài8, bao gồm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 32 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 90 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
Đặc điểm thứ sáu là về múa. Thời gian đầu 
sau khi Dù kê ra đời, các diễn viên đều múa theo 
kiểu múa truyền thống Khmer. Sắm cùng một vai, 
nhưng vai này sẽ múa khác vai kia (thậm chí có 
vai thì múa, có vai thì không múa). Vai Chằn là vai 
hoạt động mạnh nên múa nhiều nhất, nói chính xác 
là hoạt động hình thể nhiều nhất.
Múa Dù kê có hai loại: múa cho vai chính diện 
và múa cho vai phản diện. Với vai chính diện là 
vua, hoàng tử, công chúa, các diễn viên múa theo 
kiểu vũ đạo cổ điển. Họ múa rất mềm với tiết điệu 
dịu dàng, vừa phải. Trang phục của các nhân vật 
chính diện thường theo kiểu trang phục truyền 
thống Khmer, được hóa trang đẹp mắt nhiều màu 
sắc, nhiều vật trang trí lung linh huyền ảo. 
Trong khi đó với vai phản diện (Chằn tinh), 
diễn viên Dù kê múa kiểu khác. Động tác múa của 
Chằn rất sinh động, nhất là nét mặt. Khi diễn, tùy 
theo thời điểm mà nét mặt của chằn có biểu hiện 
khác nhau: hung dữ, giận dữ rất thật và cuốn hút 
người xem phải chú ý đến tình tiết của vở diễn. 
8 Thông tin này là ý kiến trong tham luận “Nghệ thuật sân 
khấu Dù kê là di sản văn hóa” của Sang Sết, Kỷ yếu hội 
thảo, tr. 15. Soạn giả Huỳnh Thanh Tuấn trong tham luận 
“Nét độc đáo của sân khấu Dù kê”, Kỷ yêu Hội thảo, tr. 155 
– 156 lại viết: bài bản sử dụng trong Dù kê có 155 bài, chia 
thành 4 nhóm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 28 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 89 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
 Sơn Lương trong Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù 
kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng, Nxb Hội Văn hóa 
nghệ thuật Sóc Trăng, tr. 194 - 202, viết: “bài bản trong Dù 
kê có 34 bài hát của Dù kê Khmer Nam Bộ chính thống, 22 
bài có nguồn gốc từ kịch Tiều, 16 bài có ảnh hưởng châu Âu, 
91 bài chịu ảnh hưởng Campuchia, Lào, Thái Lan, Singapore, 
Miến Điện”. 
 Trong tham luận “Những đặc trưng cơ bản về âm nhạc trong 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ”, Kỷ yếu, tr. 209; 
Sơn Ngọc Hoàng cũng viết: “bài bản của Dù kê có 163 bài 
chia thành 5 nhóm: hát tập thể, hát khi nhân vật vui, hát khi 
nhân vật buồn, hát tỏ tỉnh, hát khi nhân vật giận hờn”.
 Hiện chúng tôi chưa rõ vi sao có sự khác nhau này. Xin ghi 
lại đây tham khảo. 
Các động tác cơ thể họ di chuyển mạnh mẽ, phần 
chân tay xoay chuyển rộng và khoa trương để tạo 
uy thế, vì Chằn luôn dùng võ lực để áp đảo đối 
phương. Trang phục của Chằn trông thô kệch, dữ 
tợn. Tướng ác, mồm ngậm hai nanh dài, dùng lưỡi 
điều khiển, diễn, nói và múa khoa trương tùy vào 
hoàn cảnh nhân vật trong vở diễn. 
Đặc điểm thứ bảy, đó là về nơi diễn xuất. 
Giống như Cải lương, Dù kê cũng được diễn xuất 
ở các rạp lớn. Các rạp sân khấu lớn ở Trà Vinh, Sóc 
Trăng với hình ảnh, đạo cụ, màu sắc trang trí trong 
rạp thu hút sự chú ý của người xem. Khi đoàn 
Dù kê diễn kịch trên sân khấu của rạp, hệ thống 
đèn chiếu đủ màu sắc cùng với dàn âm thanh lớn 
(trong đó cũng phải nói đến dàn âm thanh trong 
nhạc cụ cổ truyền Dù kê mà các nhạc công đang 
làm ở bên dưới sân khấu). Tất cả những cái đó đã 
hòa nhập vào nhau, tạo nên sự sống động trong vở 
diễn Dù kê và được khán giả hưởng ứng nhiệt liệt. 
Chị Thạch Thị Sao, phường 7, TP Trà Vinh, nói: 
“Nghe nhạc điệu của Dù kê cất lên là tôi nôn nao 
cả người, cỡ nào cũng phải đi cho bằng được”. 
Chùa Khmer cũng là nơi để diễn xuất trong 
nghệ thuật sân khấu Dù kê. Trong tâm thức của 
người Khmer, chùa chính là trung tâm văn hóa 
– xã hội, nơi sinh hoạt tôn giáo. Hầu hết các gia 
đình người Khmer đều gắn cuộc đời, hoạt động 
của mình trong chùa; thường xuyên đi chùa để 
cầu phúc, cầu an. Ngoài ra, chùa còn là nơi diễn 
ra các hoạt động văn hóa mà hát Dù kê là ví dụ 
cụ thể. Trong các lễ hội lớn như lễ Dolta, lễ Ok 
Om Bok, lễ Mừng năm mới (Tết Chôl - chnăm – 
thmây), các đoàn Dù kê đều tới hát làm phước ở 
chùa Khmer. Họ hát để “nhờ” khán giả làm phước 
cúng chùa cầu an, cầu phúc; hát để mong muốn sự 
thái bình, yên vui.
3. Kết luận
Tóm lại có thể nói, Dù kê là một loại nghệ 
thuật rất đặc biệt của người Khmer. Việc Dù kê ra 
đời như một cuộc cách tân quan trọng, đánh dấu 
sự chuyển biến về hình thức lẫn nội dung và cách 
thức của người biểu diễn từ cái cũ – cái truyền 
thống chuyển sang một cái mới mẻ hơn, sáng tỏ 
hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, một thực tế hiện 
nay đó là sân khấu Dù kê hiện nay đang bị mai 
một rất nhiều, mà phần lớn là do thiếu một lớp 
diễn viên trẻ tài năng trong khi diễn viên gạo cuội 
lùi dần (bằng chứng là các đoàn Dù kê ít dần, 
không còn nhiều như lúc trước), nội dung vở diễn 
Dù kê không đổi mới và sự quan tâm không sâu 
sắc của chính quyền địa phương với Dù kê, đã vô 
tình làm nó bị mai một đi. Do đó, một trong những 
nhiệm vụ của chúng ta (nhất là những người làm 
bên Dù kê) là – làm thế nào để vực dậy nền sân 
khấu Dù kê vốn sắp suy tàn và biến mất này? 
Theo chúng tôi, tạm thời sẽ có ba giải pháp: thực 
hiện đãi ngộ thỏa đáng với nghệ sĩ Dù kê; đầu tư 
thỏa đáng cho các đoàn để họ còn có đất để diễn; 
thực hiện phối hợp cơ quan chức năng chuyên 
ngành văn hóa với chính quyền địa phương để 
đề ra biện pháp bảo vệ nó. Tuy nhiên, như thế 
cũng chưa hẳn là đủ. Rồi đây sẽ còn có thêm, có 
nhiều hơn nữa những biện pháp để cứu vãn một 
nền nghệ thuật sân khấu Khmer dần mai một này; 
để đưa văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa 
phong phú, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo
A history of Cambodia. 1862 – 1945. Federal Publication.
Bùi Công Ba. 2011. Nghệ thuật Dù kê của người Khmer. Báo Dân tộc và phát triển. Số ra tháng 
8/2011. 
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại. Hà Nội.
Huỳnh Ngọc Trảng. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long xuất bản.
Nguyễn Đức Hòa. 2011. Lịch sử văn minh thế giới, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
Nhiều tác giả. 2013. Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - di sản văn hóa dân tộc, Kỷ yếu 
Hội thảo khoa học. Trường Đại học Trà Vinh. 
Phan Thị Phương Hạnh. 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ - nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam, 
NXB Chính trị Quốc gia. Sự thật. Hà Nội. 
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc 
Trăng. NXB Hội Văn hóa Nghệ thuật Sóc Trăng. 
Tiến Trình. 2013. Những truyền nhân cuối cùng - Chằn tinh bên bờ... tuyệt chủng, Báo Thanh niên. 
Số ra tháng 10/2013. 
Trần Minh Thương. 2012. Nghệ thuật hát Dù kê của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Phật 
giáo, số ra ngày 15/6/2012. 
Trường Lưu. 1993. Văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội. 
Viện Văn hóa. 1986. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. Hậu Giang. 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014174 Soá 13, thaùng 3/2014 175
dụng trong Dù kê có 160 bài8, bao gồm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 32 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 90 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
Đặc điểm thứ sáu là về múa. Thời gian đầu 
sau khi Dù kê ra đời, các diễn viên đều múa theo 
kiểu múa truyền thống Khmer. Sắm cùng một vai, 
nhưng vai này sẽ múa khác vai kia (thậm chí có 
vai thì múa, có vai thì không múa). Vai Chằn là vai 
hoạt động mạnh nên múa nhiều nhất, nói chính xác 
là hoạt động hình thể nhiều nhất.
Múa Dù kê có hai loại: múa cho vai chính diện 
và múa cho vai phản diện. Với vai chính diện là 
vua, hoàng tử, công chúa, các diễn viên múa theo 
kiểu vũ đạo cổ điển. Họ múa rất mềm với tiết điệu 
dịu dàng, vừa phải. Trang phục của các nhân vật 
chính diện thường theo kiểu trang phục truyền 
thống Khmer, được hóa trang đẹp mắt nhiều màu 
sắc, nhiều vật trang trí lung linh huyền ảo. 
Trong khi đó với vai phản diện (Chằn tinh), 
diễn viên Dù kê múa kiểu khác. Động tác múa của 
Chằn rất sinh động, nhất là nét mặt. Khi diễn, tùy 
theo thời điểm mà nét mặt của chằn có biểu hiện 
khác nhau: hung dữ, giận dữ rất thật và cuốn hút 
người xem phải chú ý đến tình tiết của vở diễn. 
8 Thông tin này là ý kiến trong tham luận “Nghệ thuật sân 
khấu Dù kê là di sản văn hóa” của Sang Sết, Kỷ yếu hội 
thảo, tr. 15. Soạn giả Huỳnh Thanh Tuấn trong tham luận 
“Nét độc đáo của sân khấu Dù kê”, Kỷ yêu Hội thảo, tr. 155 
– 156 lại viết: bài bản sử dụng trong Dù kê có 155 bài, chia 
thành 4 nhóm:
- Bài ca Ba Sắc chính thống: 28 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ nhạc Mahôri: 89 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Quảng, Triều: 22 bài
- Bài ca Ba Sắc có gốc từ Pháp, Anh: 16 bài
 Sơn Lương trong Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù 
kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng, Nxb Hội Văn hóa 
nghệ thuật Sóc Trăng, tr. 194 - 202, viết: “bài bản trong Dù 
kê có 34 bài hát của Dù kê Khmer Nam Bộ chính thống, 22 
bài có nguồn gốc từ kịch Tiều, 16 bài có ảnh hưởng châu Âu, 
91 bài chịu ảnh hưởng Campuchia, Lào, Thái Lan, Singapore, 
Miến Điện”. 
 Trong tham luận “Những đặc trưng cơ bản về âm nhạc trong 
nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ”, Kỷ yếu, tr. 209; 
Sơn Ngọc Hoàng cũng viết: “bài bản của Dù kê có 163 bài 
chia thành 5 nhóm: hát tập thể, hát khi nhân vật vui, hát khi 
nhân vật buồn, hát tỏ tỉnh, hát khi nhân vật giận hờn”.
 Hiện chúng tôi chưa rõ vi sao có sự khác nhau này. Xin ghi 
lại đây tham khảo. 
Các động tác cơ thể họ di chuyển mạnh mẽ, phần 
chân tay xoay chuyển rộng và khoa trương để tạo 
uy thế, vì Chằn luôn dùng võ lực để áp đảo đối 
phương. Trang phục của Chằn trông thô kệch, dữ 
tợn. Tướng ác, mồm ngậm hai nanh dài, dùng lưỡi 
điều khiển, diễn, nói và múa khoa trương tùy vào 
hoàn cảnh nhân vật trong vở diễn. 
Đặc điểm thứ bảy, đó là về nơi diễn xuất. 
Giống như Cải lương, Dù kê cũng được diễn xuất 
ở các rạp lớn. Các rạp sân khấu lớn ở Trà Vinh, Sóc 
Trăng với hình ảnh, đạo cụ, màu sắc trang trí trong 
rạp thu hút sự chú ý của người xem. Khi đoàn 
Dù kê diễn kịch trên sân khấu của rạp, hệ thống 
đèn chiếu đủ màu sắc cùng với dàn âm thanh lớn 
(trong đó cũng phải nói đến dàn âm thanh trong 
nhạc cụ cổ truyền Dù kê mà các nhạc công đang 
làm ở bên dưới sân khấu). Tất cả những cái đó đã 
hòa nhập vào nhau, tạo nên sự sống động trong vở 
diễn Dù kê và được khán giả hưởng ứng nhiệt liệt. 
Chị Thạch Thị Sao, phường 7, TP Trà Vinh, nói: 
“Nghe nhạc điệu của Dù kê cất lên là tôi nôn nao 
cả người, cỡ nào cũng phải đi cho bằng được”. 
Chùa Khmer cũng là nơi để diễn xuất trong 
nghệ thuật sân khấu Dù kê. Trong tâm thức của 
người Khmer, chùa chính là trung tâm văn hóa 
– xã hội, nơi sinh hoạt tôn giáo. Hầu hết các gia 
đình người Khmer đều gắn cuộc đời, hoạt động 
của mình trong chùa; thường xuyên đi chùa để 
cầu phúc, cầu an. Ngoài ra, chùa còn là nơi diễn 
ra các hoạt động văn hóa mà hát Dù kê là ví dụ 
cụ thể. Trong các lễ hội lớn như lễ Dolta, lễ Ok 
Om Bok, lễ Mừng năm mới (Tết Chôl - chnăm – 
thmây), các đoàn Dù kê đều tới hát làm phước ở 
chùa Khmer. Họ hát để “nhờ” khán giả làm phước 
cúng chùa cầu an, cầu phúc; hát để mong muốn sự 
thái bình, yên vui.
3. Kết luận
Tóm lại có thể nói, Dù kê là một loại nghệ 
thuật rất đặc biệt của người Khmer. Việc Dù kê ra 
đời như một cuộc cách tân quan trọng, đánh dấu 
sự chuyển biến về hình thức lẫn nội dung và cách 
thức của người biểu diễn từ cái cũ – cái truyền 
thống chuyển sang một cái mới mẻ hơn, sáng tỏ 
hơn và đa dạng hơn. Tuy nhiên, một thực tế hiện 
nay đó là sân khấu Dù kê hiện nay đang bị mai 
một rất nhiều, mà phần lớn là do thiếu một lớp 
diễn viên trẻ tài năng trong khi diễn viên gạo cuội 
lùi dần (bằng chứng là các đoàn Dù kê ít dần, 
không còn nhiều như lúc trước), nội dung vở diễn 
Dù kê không đổi mới và sự quan tâm không sâu 
sắc của chính quyền địa phương với Dù kê, đã vô 
tình làm nó bị mai một đi. Do đó, một trong những 
nhiệm vụ của chúng ta (nhất là những người làm 
bên Dù kê) là – làm thế nào để vực dậy nền sân 
khấu Dù kê vốn sắp suy tàn và biến mất này? 
Theo chúng tôi, tạm thời sẽ có ba giải pháp: thực 
hiện đãi ngộ thỏa đáng với nghệ sĩ Dù kê; đầu tư 
thỏa đáng cho các đoàn để họ còn có đất để diễn; 
thực hiện phối hợp cơ quan chức năng chuyên 
ngành văn hóa với chính quyền địa phương để 
đề ra biện pháp bảo vệ nó. Tuy nhiên, như thế 
cũng chưa hẳn là đủ. Rồi đây sẽ còn có thêm, có 
nhiều hơn nữa những biện pháp để cứu vãn một 
nền nghệ thuật sân khấu Khmer dần mai một này; 
để đưa văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa 
phong phú, đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo
A history of Cambodia. 1862 – 1945. Federal Publication.
Bùi Công Ba. 2011. Nghệ thuật Dù kê của người Khmer. Báo Dân tộc và phát triển. Số ra tháng 
8/2011. 
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại. Hà Nội.
Huỳnh Ngọc Trảng. 1987. Người Khmer Cửu Long. Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long xuất bản.
Nguyễn Đức Hòa. 2011. Lịch sử văn minh thế giới, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
Nhiều tác giả. 2013. Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - di sản văn hóa dân tộc, Kỷ yếu 
Hội thảo khoa học. Trường Đại học Trà Vinh. 
Phan Thị Phương Hạnh. 2011. Văn hóa Khmer Nam Bộ - nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam, 
NXB Chính trị Quốc gia. Sự thật. Hà Nội. 
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc 
Trăng. NXB Hội Văn hóa Nghệ thuật Sóc Trăng. 
Tiến Trình. 2013. Những truyền nhân cuối cùng - Chằn tinh bên bờ... tuyệt chủng, Báo Thanh niên. 
Số ra tháng 10/2013. 
Trần Minh Thương. 2012. Nghệ thuật hát Dù kê của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Phật 
giáo, số ra ngày 15/6/2012. 
Trường Lưu. 1993. Văn hóa Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Văn hóa dân tộc. Hà Nội. 
Viện Văn hóa. 1986. Tìm hiểu vốn văn hóa Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang. Hậu Giang. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_dac_diem_cua_nghe_thuat_du_ke_khmer_nam_bo.pdf