Nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ

Tóm tắt: Trong những năm qua, nguồn nhân lực nữ trí thức có sự phát triển không

ngừng cả về số lượng và chất lượng, luôn được coi là bộ phận quan trọng của nguồn

nhân lực chất lượng cao, đóng vai trò đáng kể vào nền kinh tế tri thức của đất nước.

Bằng cách tiếp cận xã hội học, bài viết cung cấp một số kết quả nghiên cứu về khả

năng và cơ hội tham gia một số hoạt động khoa học của nữ trí thức dưới tác động

của các nhân tố ảnh hưởng nhằm làm rõ hơn đặc trưng của đối tượng này trong

hoạt động khoa học và công nghệ(***).

 

pdf 8 trang yennguyen 3180
Bạn đang xem tài liệu "Nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ

Nữ trí thức trong hoạt động khoa học và công nghệ
 Nữ trớ thức trong hoạt động khoa học và cụng nghệ 
Nguyễn Thị Việt Thanh(*), 
Bùi Văn Tuấn(**) 
Tóm tắt: Trong những năm qua, nguồn nhân lực nữ trí thức có sự phát triển không 
ngừng cả về số l−ợng và chất l−ợng, luôn đ−ợc coi là bộ phận quan trọng của nguồn 
nhân lực chất l−ợng cao, đóng vai trò đáng kể vào nền kinh tế tri thức của đất n−ớc. 
Bằng cách tiếp cận xã hội học, bài viết cung cấp một số kết quả nghiên cứu về khả 
năng và cơ hội tham gia một số hoạt động khoa học của nữ trí thức d−ới tác động 
của các nhân tố ảnh h−ởng nhằm làm rõ hơn đặc tr−ng của đối t−ợng này trong 
hoạt động khoa học và công nghệ(***). 
Từ khóa: Nữ trí thức, Nguồn nhân lực, Nguồn nhân lực nữ trí thức, Khoa học và 
công nghệ, Dự án 
1.(*)Một số thành tựu cơ bản của nữ trí thức trong 
lĩnh vực khoa học công nghệ (**) 
Việt Nam hiện có khoảng trên 
500.000 nữ trí thức, chiếm 42% tổng số 
trí thức của cả n−ớc. Sự phân bố của đội 
ngũ nữ trí thức khá đa dạng, ở hầu 
khắp các lĩnh vực hoạt động trong đời 
sống xã hội. Tỷ lệ nữ trí thức trong lĩnh 
vực giáo dục và đào tạo chiếm 64%, 
khoa học xã hội và nhân văn chiếm 
58%, khoa học sự sống chiếm 55%, báo 
chí, thông tin và chế tạo, chế biến chiếm 
46%... Nữ trí thức ít tham gia trong các 
lĩnh vực nh− an ninh, quốc phòng 
(3,0%), vận tải (10,4%), mỏ và khai thác 
(10,6%), xây dựng và kiến trúc (12%). 
(*) PGS. TS., Viện Việt Nam học và Khoa học 
phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội; email: 
thanhntv@vnu.edu.vn. 
(**) ThS., Viện Việt Nam học và Khoa học phát 
triển, Đại học Quốc gia Hà Nội; email: 
tuanivides@gmail.com. 
Sự khác biệt này phản ánh quan niệm 
của xã hội về loại hình nghề nghiệp phù 
hợp với phụ nữ, về sự phân công lao 
động theo giới trong xã hội (Hoàng Bá 
Thịnh, 2010). (***) 
(***) Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu của Đề 
tài “Phát huy nguồn nhân lực nữ trí thức trong 
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n−ớc 
và hội nhập quốc tế”, mã số: KX.03.07/11-15 và 
một số t− liệu khác. Đề tài tiến hành khảo sát tại 
5 tỉnh/thành phố, với dung l−ợng mẫu là 4.020 
trí thức: Hà Nội (35,7%), Tp. Hồ Chí Minh (29%), 
Huế (12,4%), Đà Nẵng (12,6%) và Cần Thơ 
(10,3%), trong đó nam (30%) và nữ (70%) hiện 
đang làm việc trong các lĩnh vực nh− giáo dục và 
đào tạo; khoa học và công nghệ; y tế, chăm sóc 
sức khỏe cộng đồng và dịch vụ xã hội; doanh 
nghiệp và tài chính ngân hàng. Với cơ cấu học 
hàm, học vị: Giáo s− (0,1%), Phó giáo s− (0,6%), 
Tiến sĩ (3%), Thạc sĩ (21,5%), Đại học (74,9%). Độ 
tuổi từ 21 đến 67. Ngoài ra, Đề tài còn tiến hành 
khảo sát ở một số lĩnh vực khác nh− văn hóa, 
nghệ thuật, an ninh, quốc phòng nhằm nghiên 
cứu so sánh đối chứng nguồn nhân lực nữ trí 
thức hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề. 
20 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2015 
 Trong số các lĩnh vực đ−ợc coi là 
khá phù hợp với phụ nữ, phải kể đến 
lĩnh vực khoa học và công nghệ. Sự phù 
hợp này tr−ớc hết thể hiện về mặt số 
l−ợng. Ngoài hai trung tâm nghiên cứu 
lớn nhất Việt Nam là Viện Hàn lâm 
KHXH Việt Nam và Viện Hàn lâm 
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, còn 
có nhiều viện và trung tâm nghiên cứu 
thuộc các tr−ờng đại học, các bộ ngành 
trung −ơng, các tổ chức chính phủ và 
phi chính phủ tập trung một lực l−ợng 
đông đảo trí thức đang triển khai các 
hoạt động nghiên cứu thuộc lĩnh vực 
khoa học cơ bản, khoa học công nghệ và 
ứng dụng, trong đó các nhà khoa học nữ 
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tổng số 
các nhà khoa học làm việc tại đây. Theo 
số liệu của Viện Hàn lâm Khoa học và 
Công nghệ Việt Nam, năm 2005 các nhà 
khoa học nữ chiếm 27,2% thì đến năm 
2014 đã tăng lên 36,73% (Viện Hàn lâm 
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
2005). Đối với Viện Hàn lâm KHXH 
Việt Nam, nếu nh− năm 2000 tỷ lệ các 
nhà khoa học nữ chiếm 49,44%, năm 
2005 là 51,78%, năm 2008 là 53,62% thì 
hiện nay (tháng 6/2015) đã tăng lên 
61,4%. Các đơn vị có tỷ lệ nữ cao trên 
65% là Viện Thông tin KHXH, Nhà xuất 
bản KHXH, Viện Nghiên cứu Trung 
Quốc và Ban hợp tác quốc tế. Bên cạnh 
đó, còn có các đơn vị có số l−ợng cán bộ 
nữ chiếm tỷ lệ rất cao nh− Viện Gia 
đình và Giới chiếm (86,67%), Viện Tâm 
lý học (72,72%) (Viện Hàn lâm KHXH 
Việt Nam, 2014). 
Không chỉ về mặt số l−ợng, vai trò 
của nguồn lực nữ trí thức còn thể hiện ở 
chất l−ợng hoạt động nghiên cứu nh− 
việc nữ trí thức tham gia vào vị trí chủ 
trì các ch−ơng trình, đề tài khoa học lớn. 
Trong 3 năm (2007-2009), các nhà khoa 
học nữ đã chủ trì thành công 42 đề tài 
thuộc các ch−ơng trình khoa học công 
nghệ cấp nhà n−ớc, 25 đề tài độc lập cấp 
nhà n−ớc và 18 đề tài, dự án hợp tác 
quốc tế theo Nghị định th− (chiếm 
khoảng 12,1%) (Vũ Minh Giang, 2010). 
Đến năm 2014, theo số liệu của Bộ Khoa 
học và Công nghệ, tỷ lệ các nhà khoa 
học nữ chủ trì các đề tài cấp nhà n−ớc 
đã tăng lên 24,80% (Bộ Khoa học và 
Công nghệ, 2015). 
Xét trong t−ơng quan chung, tỷ lệ 
trên vẫn hết sức khiêm tốn, song đây là 
b−ớc tiến quan trọng so với khoảng 10 -
15 năm tr−ớc. Tại Báo cáo của Ban vì sự 
tiến bộ phụ nữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
10 năm tr−ớc các nhà khoa học nữ phần 
lớn chỉ chủ trì đề tài nghiên cứu khoa 
học cấp cơ sở, một số ít chủ trì cấp Đại 
học Quốc gia Hà Nội (t−ơng đ−ơng cấp 
Bộ), thì tại năm 2014 có 1/3 đề tài trọng 
điểm của Đại học Quốc gia Hà Nội do 
phụ nữ chủ trì, trong đó 7 ng−ời chủ trì 
đề tài cấp nhà n−ớc (Đại học Quốc gia Hà 
Nội, 2014). Số l−ợng các công trình đ−ợc 
công bố trong và ngoài n−ớc là tiêu chí 
quan trọng đánh giá hiệu quả và chất 
l−ợng của các hoạt động nghiên cứu 
khoa học. Theo số liệu của Viện Hàn 
lâm KHXH Việt Nam, trong số các bài 
báo đăng trên các tạp chí khoa học 
trong n−ớc, tác giả nữ chiếm 37,4%; trên 
các tạp chí quốc tế chỉ có 3,1%. Trong 
tổng số sách chuyên khảo đã đ−ợc công 
bố, 14,1% là của các nhà khoa học nữ 
(Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2008). 
Con số này tuy ch−a cao nh−ng đã phản 
ánh sự nỗ lực to lớn của các nữ trí thức 
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. 
Nhiều nữ trí thức đã đ−ợc Đảng và Nhà 
n−ớc trao tặng những giải th−ởng cao 
quý vì giá trị khoa học và thực tiễn của 
các công trình nghiên cứu. Không ít nhà 
Nữ trí thức trong hoạt động 21 
khoa học nữ đ−ợc cấp bằng lao động 
sáng tạo. 
Theo số liệu của Hội đồng chức danh 
Giáo s− nhà n−ớc, tỷ lệ nữ trí thức trong 
số những nhà khoa học đ−ợc nhận chức 
danh phó giáo s− trong hơn 20 năm qua 
đã tăng đáng kể, từ 3,5% năm 1984 lên 
đến 25,47% năm 2014 (Hội đồng chức 
danh Giáo s− nhà n−ớc, 2014). Đây là 
một trong những minh chứng thuyết 
phục về sự phát triển không chỉ về số 
l−ợng mà còn về chất l−ợng của nữ trí 
thức với t− cách là một nguồn lực khoa 
học và công nghệ. 
Mặc dù những thành tựu của đội 
ngũ nữ trí thức với t− cách là một nguồn 
lực khoa học và công nghệ là không thể 
phủ nhận, song vẫn còn một số hạn chế 
bị quy định bởi đặc điểm về giới. Cơ cấu 
đội ngũ còn ch−a đều ở các ngành nghề; 
bộ phận nữ trí thức ở vị trí chuyên gia 
đầu ngành còn rất hạn chế; càng ở bậc 
đào tạo cao tỷ lệ phụ nữ càng thấp; tỷ lệ 
sản phẩm khoa học, đặc biệt ở bậc cao, 
do nữ trí thức đảm nhiệm còn khiêm tốn 
nhiều so với năng lực thực tế. 
2. Nữ trí thức với cơ hội tham gia các đề tài 
nghiên cứu khoa học và dự án triển khai 
Kết quả khảo sát của nhóm nghiên 
cứu cho thấy, 57,3% nữ trí thức thuộc 
phạm vi nghiên cứu đã hoặc đang tham 
gia các đề tài nghiên cứu khoa học hoặc 
dự án triển khai, 42,7% ch−a từng tham 
gia. Các nữ trí thức tham gia phân bố 
không đều theo phạm vi nghề nghiệp, 
trong đó nhiều nhất thuộc lĩnh vực giáo 
dục và đào tạo (38,4%), tiếp đó thuộc các 
cơ sở nghiên cứu (32,7%), 26,1% còn lại 
phân bố cho các lĩnh vực khác. Việc tham 
gia các đề tài/dự án phân bố theo hai t− 
cách chủ yếu là chủ trì và thành viên 
tham gia các đề tài/dự án thuộc các cấp 
quản lý khác nhau. 
Nữ trí thức tham gia với t− cách chủ 
trì các đề tài/dự án 
Trong số 2.814 nữ trí thức đ−ợc 
khảo sát, có 57,7% ng−ời ch−a từng đảm 
nhiệm c−ơng vị chủ trì đề tài, 42,3% đã 
từng hoặc đang đảm nhiệm c−ơng vị 
này. Tỷ lệ đối với các cấp đề tài không 
giống nhau: 31,9% chủ trì đề tài cấp cơ 
sở, 8,3% chủ trì đề tài cấp bộ, 2,1% chủ 
trì đề tài cấp nhà n−ớc hoặc t−ơng 
đ−ơng (một khách thể chỉ tính ở cấp đề 
tài cao nhất). 
Đối với đề tài cấp cơ sở: đây là cấp 
đề tài mà nữ trí thức đ−ợc giữ c−ơng vị 
chủ trì nhiều nhất, và cũng nhiều hơn 
so với nam giới (theo số liệu khảo sát, 
lần l−ợt là 71,5% và 28,5%). Trình độ tối 
thiểu khi họ đảm nhiệm c−ơng vị này là 
thạc sĩ (chiếm 65,1%) với thâm niên 
công tác từ 5 đến 20 năm. T− liệu khảo 
sát ghi nhận 1,9% khách thể ở vị trí tập 
sự cũng đ−ợc tham gia. 46,8% khách thể 
đảm đ−ơng vị trí này cho biết họ đồng 
thời giữ c−ơng vị quản lý, lãnh đạo. 
Lĩnh vực công tác của nhóm khách thể 
này chủ yếu tập trung trong lĩnh vực 
giáo dục và đào tạo (36,4%), khoa học và 
công nghệ (32,7%). Hà Nội và Đà Nẵng 
là 2 thành phố dẫn đầu về tỷ lệ nữ trí 
thức từng đảm nhận vị trí chủ trì đề tài 
cấp cơ sở (37,5% và 25,6%). 
Đối với đề tài cấp bộ, tỷ lệ nữ trí 
thức làm chủ trì đề tài, dự án cấp bộ 
cũng có xu h−ớng cao hơn so với các 
nam trí thức (theo số liệu khảo sát, lần 
l−ợt là 55,9% và 44,1%). Tuy nhiên, ở 
cấp này, trình độ cơ bản hiện tại của 
khách thể là từ tiến sĩ trở lên (36,1%,) 
với thâm niên công tác từ 10 năm trở 
lên. Giáo dục và đào tạo, khoa học và 
công nghệ vẫn là 2 lĩnh vực có số l−ợng 
trí thức từng làm chủ trì đề tài cấp bộ 
22 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2015 
nhiều nhất so với các lĩnh vực khác. Hà 
Nội và Đà Nẵng cũng vẫn là 2 tỉnh 
thành dẫn đầu về tỷ lệ nữ trí thức từng 
tham gia vị trí chủ trì đề tài cấp bộ. 
Quan hệ có ý nghĩa giữa cơ hội làm chủ 
trì đề tài và chức vụ quản lý, lãnh đạo 
đ−ợc khẳng định hơn khi 75% ng−ời cho 
biết họ có đảm nhiệm chức vụ quản lý, 
lãnh đạo khi thực hiện đề tài. 
Đối với đề tài cấp nhà n−ớc, tỷ lệ nữ 
trí thức từng tham gia đề tài cấp nhà 
n−ớc hoặc t−ơng đ−ơng chỉ chiếm 4,87% 
trong số những ng−ời đã từng chủ trì đề 
tài. Trong số các khách thể thuộc nhóm 
này, chúng tôi nhận thấy sự v−ợt trội 
của lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa 
học và công nghệ so với các lĩnh vực 
khác, tập trung chủ yếu ở nhóm đối 
t−ợng có thâm niên công tác từ 25 năm 
trở lên. Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh có 
tỷ lệ nữ trí thức làm chủ trì đề tài cấp 
nhà n−ớc cao hơn. 
Đối với đề tài, dự án n−ớc ngoài, số 
liệu nghiên cứu cho thấy nam trí thức có 
xu h−ớng v−ợt trội trong vai trò chủ trì 
đề tài các dự án/đề tài hợp tác với n−ớc 
ngoài theo tỷ lệ 3:1 và chủ yếu lực l−ợng 
khách thể có trình độ tiến sĩ ở vị trí chủ 
trì đề tài. Đặc biệt, đối với loại đề tài 
này có sự xuất hiện của lĩnh vực an 
ninh - quốc phòng bên cạnh lĩnh vực 
giáo dục và đào tạo. Phải chăng do đặc 
thù của lĩnh vực này nên tỷ lệ nam trí 
thức giữ vị trí chủ trì đề tài có xu h−ớng 
cao hơn so với các nữ trí thức. 
Nữ trí thức tham gia với t− cách 
thành viên các đề tài/dự án 
Số liệu khảo sát cho thấy, tỷ lệ nữ 
trí thức tham gia với t− cách là thành 
viên của đề tài/dự án có xu h−ớng giảm 
dần theo cấp độ của đề tài/dự án, càng 
đề tài/dự án thuộc cấp quản lý cao thì số 
l−ợng nữ trí thức tham gia càng ít. Cụ 
thể: đề tài cấp cơ sở là 59,2%, đề tài cấp 
bộ là 28,6% và chỉ còn 13,7% đối với đề 
tài cấp nhà n−ớc hoặc t−ơng đ−ơng. 
Nghiên cứu ghi nhận, 23,7% các đối 
t−ợng trên từng tham gia đề tài các cấp 
với t− cách là thành viên từ 3 đến 7 lần, 
thấp hơn so với nam trí thức trong cùng 
cơ hội (34,2%). Các đối t−ợng trên đều có 
trình độ từ tiến sĩ trở lên với thâm niên 
công tác trên 10 năm, phần lớn làm việc 
tại Hà Nội và Đà Nẵng. 
Qua số liệu khảo sát đề tài các cấp, 
chúng tôi nhận thấy nữ trí thức có xu 
h−ớng đảm nhận vị trí th− ký nhiều hơn 
so với các nam trí thức (59,5% và 40,5%). 
Có lẽ đặc điểm giới với phẩm chất tỉ mỉ, 
kiên nhẫn và chịu khó khiến nữ trí thức 
đ−ợc tín nhiệm nhiều hơn ở vị trí này. 
3. Nữ trí thức với cơ hội tham gia hội thảo khoa 
học, các khóa nghiệp vụ chuyên môn 
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, 
tham gia hội thảo khoa học và các khóa 
nghiệp vụ là một trong những hoạt động 
quan trọng, giúp các trí thức có điều 
kiện tiếp xúc, học hỏi các thông tin khoa 
học mới, tăng cơ hội tiếp xúc, trao đổi 
học thuật với các đồng nghiệp. 
Cơ hội tham gia hội thảo khoa học 
và các khóa nghiệp vụ trong n−ớc 
Kết quả phân tích số liệu và kiểm 
định khi bình ph−ơng chỉ ra không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam 
và nữ về số lần tham dự các hoạt động 
khoa học này. Theo đó, nữ và nam trí 
thức t−ơng đối bình đẳng nhau trong cơ 
hội tham gia hội thảo khoa học/khóa học 
nghiệp vụ trong n−ớc với trung bình số 
lần tham gia ở nữ là 2,59 và nam là 
2,43. Tuy vậy, đối với nhóm có số lần 
tham gia lớn (trên 20 lần) lại ghi nhận 
sự khác biệt nghiêng về phía nam giới 
(Biểu đồ 1). 
Nữ trí thức trong hoạt động 23 
Về trình độ, những khách thể tham 
dự các hội thảo khoa học trong n−ớc từ 1 
đến 4 lần chủ yếu là nhóm có trình độ 
đại học và thạc sĩ (76,1% đối với nữ và 
81,3% đối với nam), còn lại có trình độ 
tiến sĩ. Đối với nhóm từng tham gia từ 4 
đến 20 lần, có sự phân bố khá đồng đều 
ở nhóm có trình độ đại học (28,5%), thạc 
sĩ (42,9%) và tiến sĩ/tiến sĩ khoa học 
(28,6%). Còn đối với nhóm đã từng tham 
gia trên 20 lần hội thảo khoa học, chủ 
yếu tập trung ở những ng−ời có trình độ 
tiến sĩ/ tiến sĩ khoa học (trong đó nhiều 
ng−ời là giáo s−, phó giáo s−). 
Xét trên ph−ơng diện tỉnh/thành, 
kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nữ trí 
thức khẳng định từng tham dự hội thảo 
khoa học trong n−ớc từ 1 đến 3 lần phân 
bố không đồng đều giữa các tỉnh/thành, 
trong đó cao nhất là Cần Thơ và ít nhất 
là Hà Nội. Tuy nhiên, Hà Nội lại là nơi 
có tỷ lệ nữ trí thức tham dự từ 4 đến 20 
lần lớn nhất (40,2%), trong khi tỷ lệ ở 
Cần Thơ chỉ chiếm khoảng 1/2 so với 
Hà Nội. 
Số liệu khảo sát cũng cho phép 
chúng tôi đ−a ra nhận xét về mối liên 
hệ giữa lĩnh vực nghề nghiệp với số lần 
nữ trí thức tham dự các hội thảo khoa 
học trong n−ớc. Số nữ trí thức làm việc 
trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật có từ 
1 đến 3 lần tham dự các hoạt động này 
không khác nhiều so với các lĩnh vực 
khác. Song họ lại có tỷ lệ thấp nhất đối 
với nhóm từng tham gia từ 4 lần trở lên, 
khác với nhóm công tác tại lĩnh vực 
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào 
tạo, y tế. 
Cơ hội tham gia hội thảo khoa học 
và khóa nghiệp vụ ở n−ớc ngoài 
Bên cạnh hoạt động khoa học trong 
n−ớc, trong những năm gần đây, cơ hội 
đ−ợc ra n−ớc ngoài tham dự hoạt động 
khoa học tăng lên đáng kể. 31,4% khách 
thể cho biết đã từng có cơ hội này. Số 
liệu khảo sát cho thấy có mối liên hệ 
nhất định giữa yếu tố giới tính với số 
lần tham dự hội thảo khoa học ở n−ớc 
ngoài của các trí thức. Kiểm định khi 
bình ph−ơng cho phép chúng tôi khẳng 
định mối t−ơng quan có ý nghĩa thống 
kê giữa 2 biến số này (X2(5) = 14.160, p = 
0.015) (Biểu đồ 2). 
Theo số liệu thu đ−ợc, tỷ lệ các nữ trí 
thức tham dự hội thảo quốc tế từ 1 đến 3 
lần cao hơn nam trí thức, lần l−ợt là 
(84,7% và 73,3%), song tỷ lệ này thay đổi 
theo xu h−ớng ng−ợc lại khi số lần tham 
dự từ 4 lần trở lên (nam là 22,5% và nữ 
là 15,3%). Đặc biệt từ 21 lần trở lên thì 
số liệu thu đ−ợc không ghi nhận sự tham 
Biểu đồ 1: Số lần tham dự 
hoạt động khoa học trong n−ớc 
xét theo giới tính (%) 
Biểu đồ 2: Số lần tham dự 
hoạt động khoa học ở n−ớc ngoài 
xét theo giới tính (%) 
24 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2015 
gia của bất kỳ nữ trí thức nào. Phải 
chăng điều này là do các nữ trí thức kém 
hơn các nam trí thức trong việc khẳng 
định năng lực khoa học trên tr−ờng quốc 
tế hay do nam giới dễ dàng thu xếp công 
việc gia đình hơn nữ giới. Kết quả phân 
tích số liệu cũng cho phép chúng tôi 
nhận thấy mối liên hệ nhất định giữa 
yếu tố địa bàn tỉnh thành và số lần tham 
dự các hoạt động khoa học ở n−ớc ngoài 
của nhóm khách thể đ−ợc khảo sát (X2(20) 
= 55.626, p = 0.000). Kết quả nghiên cứu 
cho thấy số lần tham dự hoạt động khoa 
học ở n−ớc ngoài phân chia không đồng 
đều giữa các tỉnh/thành phố. 
Tìm hiểu mức độ quan hệ giữa cơ 
hội tham dự hoạt động khoa học ở n−ớc 
ngoài với trình độ hay chức danh khoa 
học của khách thể, kết quả nghiên cứu 
cho phép chúng tôi đ−a ra một số nhận 
xét về mối t−ơng quan có ý nghĩa thống 
kê giữa 2 biến số này (X2(20) = 72.938, p = 
0.000). Theo đó, những ng−ời từng 1 lần 
đi n−ớc ngoài dự các hội thảo khoa học 
chủ yếu tập trung ở nhóm trí thức có 
trình độ đại học (41,9%) và sau đại học 
(58,1%). Đa phần trí thức có trình độ 
tiến sĩ tham dự từ 2 lần trở lên. Số lần 
tham dự trên 4 lần chủ yếu tập trung ở 
nhóm có học hàm là phó giáo s− và giáo 
s−. Nh− vậy, có thể nói rằng bằng cấp, 
học hàm, học vị của trí thức thuộc nhóm 
khách thể nghiên cứu của đề tài có mối 
t−ơng quan thuận với số lần tham dự 
các hoạt động khoa học ở n−ớc ngoài của 
họ. Kết quả này t−ơng tự với vị trí công 
việc của ng−ời lao động trí óc. 
Trong mối liên hệ với lĩnh vực nghề 
nghiệp, chúng tôi thấy rằng, lĩnh vực 
khoa học và công nghệ có tỷ lệ trí thức 
tham dự các hoạt động khoa học ở n−ớc 
ngoài cao hơn các lĩnh vực khác, đồng 
thời cũng xuất hiện nhiều nhất trong 
nhóm từ 4 đến 20 lần. 
Việc nắm bắt cơ hội đào tạo chuyên 
môn của trí thức 
Kết quả xử lý số liệu cho thấy, 73,9% 
trong tổng số trí thức thuộc nhóm khách 
thể của đề tài nghiên cứu (cả nam và nữ) 
cho biết họ đã nắm bắt tốt các cơ hội 
đ−ợc đi đào tạo chuyên môn, còn hơn 1/4 
tổng số khách thể nghiên cứu (26,1%) 
cho biết họ ch−a thực hiện tốt điều này. 
 Lý do đầu tiên đ−ợc đa phần lực 
l−ợng trí thức thuộc nhóm khách thể 
nghiên cứu của đề tài lựa chọn là 
“không thu xếp đ−ợc công việc gia đình” 
chiếm tới 63,6% trong tổng số khách thể 
nghiên cứu. Trong đó, tỷ lệ nữ trí thức 
lựa chọn (75,4%) cao gấp 3 lần so với các 
nam trí thức (24,6%). Đặc biệt, trong số 
các nữ trí thức lựa chọn lý do “công việc 
gia đình” có 80,2% ng−ời đã lập gia 
đình, số l−ợng phụ nữ độc thân (ch−a 
kết hôn, ly hôn, ly thân hay góa chồng) 
chỉ chiếm 19,8%. Nh− vậy, rõ ràng, đối 
với phụ nữ, gánh nặng gia đình vẫn 
luôn là một trong những áp lực gây ảnh 
h−ởng không nhỏ tới quá trình hoàn 
thiện và nâng cao tay nghề về chuyên 
môn của họ. 
Đối với nhóm khách thể lựa chọn lý 
do “không phù hợp với chuyên môn” 
khiến họ không hiện thực hóa đ−ợc các 
cơ hội đi đào tạo chuyên môn, chúng tôi 
ghi nhận tỷ lệ nữ trí thức lựa chọn lý do 
này cũng cao hơn so với các nam trí thức 
(57,7% so với 42,3%). 
Khi xem xét yếu tố “ủng hộ của cơ 
quan”, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt 
rõ rệt giữa các loại hình cơ quan mà các 
trí thức đang công tác. Cụ thể: có tới 97% 
khách thể đang làm việc trong lĩnh vực 
nhà n−ớc cho biết họ không thể hiện thực 
Nữ trí thức trong hoạt động 25 
hóa các cơ hội đi đào tạo chuyên môn vì 
“cơ quan không ủng hộ”, trong khi tỷ lệ 
này chỉ là 3% đối với nhóm trí thức làm 
việc trong lĩnh vực ngoài nhà n−ớc. 
4. Một số kết luận 
Việc khảo sát nghiên cứu tập trung 
vào đối t−ợng nữ trí thức trong mối 
quan hệ với nam trí thức nhằm làm rõ 
những nhân tố ảnh h−ởng từ góc độ giới. 
Bên cạnh đó, nữ trí thức cũng đ−ợc xem 
xét trong mối quan hệ với các thông số 
nh− trình độ học vấn, tuổi tác, lĩnh vực 
nghề nghiệp, loại hình cơ quan, địa bàn 
công tác... nhằm làm rõ tác động tới 
hiệu quả trong hoạt động khoa học và 
công nghệ của nữ trí thức. 
Tỷ lệ trí thức tham gia các hoạt 
động khoa học d−ới hai hình thức đề tài 
nghiên cứu khoa học và tham dự hội 
thảo, tập huấn khoa học là t−ơng đối 
cao. Điều này thể hiện nhận thức cũng 
nh− ý thức của trí thức nói chung, trong 
đó có nữ trí thức về vai trò của hoạt 
động khoa học đối với việc phát triển 
năng lực chuyên môn của bản thân và 
tổ chức. Tuy vậy, mức độ tham gia hoạt 
động khoa học không đều ở các lĩnh vực 
nghề nghiệp. Hai lĩnh vực có tỷ lệ khách 
thể tham gia nhiều nhất là giáo dục và 
đào tạo, khoa học và công nghệ. 
Kết quả nghiên cứu cho phép nhìn 
nhận rõ hơn đặc điểm giới tác động tới 
nữ trí thức trong hoạt động khoa học nói 
chung và từng loại hoạt động nói riêng. 
Đối với vai trò chủ trì hoặc tham gia đề 
tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở cũng 
nh− đối với cơ hội tham gia hoạt động 
khoa học trong n−ớc, cơ hội d−ờng nh− 
bình đẳng đối với nam và nữ. Song đối 
với hoạt động khoa học đòi hỏi nhiều 
công sức hoặc thời gian hơn, khả năng 
tham gia của phụ nữ thấp hơn nam giới 
(chủ trì đề tài cấp bộ, cấp nhà n−ớc, 
tham dự hoạt động khoa học ở n−ớc 
ngoài). Kết quả khảo sát từ ý kiến của 
khách thể nghiên cứu cho thấy, khó 
khăn trong việc cân đối giữa thời gian 
cho gia đình và thời gian cho sự nghiệp 
ảnh h−ởng không nhỏ tới việc nắm bắt 
cơ hội hoạt động khoa học và tự nâng 
cao trình độ chuyên môn. Kết quả này 
phù hợp với ý kiến của một số tác giả 
nh− Lê Thị Quý (Lê Thị Quý, 1996), 
Thái Thị Băng Tâm (Thái Thị Băng 
Tâm, 2015) khi nghiên cứu vai trò của 
phụ nữ trong gia đình cũng nh− vấn đề 
công bằng và bình đẳng giới. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy quan 
hệ rất đáng l−u ý giữa cơ hội tham gia 
hoạt động khoa học ở các cấp cao với việc 
đồng thời giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo 
trong cùng lĩnh vực chuyên môn của trí 
thức nói chung, trong đó có nữ trí thức. 
C−ơng vị lãnh đạo quản lý cho phép tiếp 
cận dễ dàng hơn các cơ hội trong hoạt 
động khoa học, cho phép một ng−ời có 
thể nhiều lần chủ trì đề tài nghiên cứu 
khoa học các cấp, nhiều lần tham gia hội 
thảo khoa học trong và ngoài n−ớc hơn 
những ng−ời không đảm nhiệm c−ơng vị 
này. Một mặt, điều này có thể giải thích 
bằng thực trạng hiện nay là những ng−ời 
có trình độ chuyên môn giỏi th−ờng đ−ợc 
đề chọn vào c−ơng vị quản lý, lãnh đạo. 
Nh−ng mặt khác cũng khiến không ít 
ng−ời thắc mắc rằng dù tài giỏi, nh−ng 
làm sao một ng−ời có thể làm đ−ợc nhiều 
việc một lúc trong khi quỹ thời gian 
không đổi, hay họ chỉ “đứng tên” mà 
thôi. Thiết nghĩ đây là điều các nhà quản 
lý chính sách nên l−u ý, bởi lẽ không 
phải trí thức nào cũng có cơ hội/hoặc 
thích làm quản lý, lãnh đạo. Kết quả 
nghiên cứu cũng cho thấy cơ hội tham 
gia hoạt động khoa học của nữ trí thức ở 
26 Thông tin Khoa học xã hội, số 10.2015 
các địa bàn nghiên cứu không hoàn toàn 
nh− nhau. 
 Có mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ hội 
tham gia hoạt động khoa học với trình 
độ chuyên môn và thâm niên công tác. 
Càng có trình độ cao, đi kèm với thâm 
niên công tác cao, thì cơ hội cũng nh− 
khả năng tích tũy các kinh nghiệm 
trong hoạt động khoa học càng lớn. Tuy 
vậy, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 
xu h−ớng trẻ hóa đội ngũ nghiên cứu, 
khi nhiều ng−ời có trình độ chuyên môn 
ch−a cao (và còn trẻ) đã đ−ợc tín nhiệm 
giao chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học, 
hoặc khi tỷ lệ những ng−ời ở độ tuổi 40-
50 tham gia hoạt động khoa học ở n−ớc 
ngoài là lớn nhất. 
Tóm lại, trong sự nghiệp đổi mới, 
phát triển và hội nhập của đất n−ớc, 
Đảng, Nhà n−ớc đã khẳng định sự đóng 
góp quan trọng của các tầng lớp phụ nữ, 
trong đó có đội ngũ nữ trí thức. Với xu 
thế phát triển tất yếu của đội ngũ nữ trí 
thức với t− cách là một nguồn lực khoa 
học và công nghệ, việc xây dựng các chính 
sách hợp lý, tạo điều kiện về tinh thần và 
thực tiễn, quan tâm đến những đặc điểm 
về giới trong quản lý, ứng xử là những 
công việc các nhà quản lý cần chú ý 
nhằm nâng cao, phát huy hơn nữa vị 
thế, vai trò và đóng góp của đội ngũ này 
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất n−ớc và hội nhập quốc tế  
Tài liệu trích dẫn 
1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2015), 
Hồ sơ các đề tài, dự án thuộc các 
ch−ơng trình khoa học và công nghệ 
trọng điểm cấp nhà n−ớc giai đoạn 
2011-2015. 
2. Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Báo 
cáo tổng kết công tác năm 2014. 
3. Vũ Minh Giang (2010), Nữ trí thức 
trong sự nghiệp khoa học và đào tạo 
của đất n−ớc: Hiện trạng và giải 
pháp, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nữ 
trí thức Việt Nam lần thứ I. 
4. Hội đồng chức danh Giáo s− nhà 
n−ớc (2014), Báo cáo kết quả xét 
công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh 
giáo s−, phó giáo s− hàng năm. 
5. Lê Thị Quý (1996), Gia đình Việt 
Nam ngày nay, Nxb. Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
6. Thái Thị Băng Tâm (2015), Nữ trí 
thức và gia đình ngày nay, In trong: 
Nguyễn Thị Việt Thanh (chủ biên), Nữ 
trí thức với sự nghiệp phát triển đất 
n−ớc, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 
7. Hoàng Bá Thịnh (2010), Đặc điểm 
đội ngũ nữ trí thức Việt Nam hiện 
nay,  
print.asp?N7935 
8. Viện Hàn lâm Khoa học và công 
nghệ Việt Nam (2014), Báo cáo tổng 
kết công tác năm 2014. 
9. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 
(2008), Báo cáo tổng hợp kết quả 
khảo sát CBCC. 
10. Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam 
(2015), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2014 và triển khai nhiệm vụ 
năm 2015. 

File đính kèm:

  • pdfnu_tri_thuc_trong_hoat_dong_khoa_hoc_va_cong_nghe.pdf