Phân tích một số nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn tái cơ cấu

BViệt Nam có thể tác động tới hiệu quả sinh lời của các ngân hàng trong giai đoạn tái ài báo đi sâu phân tích một số nhân tố bên trong hệ thống ngân hàng thương mại

cơ cấu. Sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu từ 2011 đến 2015, tác giả chỉ ra các nhân tố bao

gồm cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, mức độ nợ xấu và quy mô tài sản có tác động đáng kể

tới khả năng sinh lời các ngân hàng. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao

khả năng sinh lời của hệ thống NHTM.

pdf 8 trang yennguyen 8400
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích một số nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn tái cơ cấu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích một số nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn tái cơ cấu

Phân tích một số nhân tố tác động tới hiệu quả tài chính hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn tái cơ cấu
1. Đặt vấn đề 
Các ngân hàng thương mại Việt Nam có 
tầm quan trọng đặc biệt đối với khu vực tài 
chính nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói 
chung. Hệ thống các NHTM đã và đang là trụ 
cột của hệ thống tài chính khi là kênh huy 
động và cung ứng vốn chủ đạo phục vụ tăng 
trưởng kinh tế. Theo chiến lược phát triển thị 
trường tài chính đến năm 2020, giá trị vốn 
hóa thị trường cổ phiếu phải đạt mức 70% 
GDP, tuy nhiên tính đến cuối năm 2015 mới 
đạt 34%. Đến năm 2020, dư nợ thị trường trái 
phiếu phải đạt 38% GDP nhưng tính đến năm 
2015 mới đạt mức 24,6%. Với sự phát triển 
thiếu cân bằng của thị trường tài chính, đến 
nay hệ thống ngân hàng cùng với các tổ chức 
tín dụng khác đang chiếm tới 96% tổng giá trị 
tài sản của hệ thống tài chính (UBGSTCQG, 
2016). Do đó, hiệu quả hoạt động khu vực 
ngân hàng đóng vai trò then chốt trong chiến 
lược phát triển kinh tế quốc gia. Giai đoạn 
trước và sau khi gia nhập WTO chứng kiến sự 
phát triển nóng của toàn hệ thống song không 
đi liền với nâng cao hiệu quả và chất lượng 
quản trị. Hệ quả là chất lượng tài sản và tín 
dụng các ngân hàng thương mại giảm sút, nợ 
xấu tăng cao. 
15

Sè 127/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
PHÂN TÍCH MỘT SỐ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG 
TỚI HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH 
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 
TRONG GIAI ĐOẠN TÁI CƠ CẤU
Lê Thanh Phương 
Trường đại học Hàng hải Việt Nam 
Email: phuonglt@vimaru.edu.vn
Ngày nhận: 19/02/2019 Ngày nhận lại: 06/03/2019 Ngày duyêt đăng: 12/03/2019 
B ài báo đi sâu phân tích một số nhân tố bên trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tác động tới hiệu quả sinh lời của các ngân hàng trong giai đoạn tái 
cơ cấu. Sử dụng mô hình hồi quy với dữ liệu từ 2011 đến 2015, tác giả chỉ ra các nhân tố bao 
gồm cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, mức độ nợ xấu và quy mô tài sản có tác động đáng kể 
tới khả năng sinh lời các ngân hàng. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao 
khả năng sinh lời của hệ thống NHTM.
Từ khóa: hiệu quả tài chính, tái cơ cấu, ngân hàng thương mại.
Nhận thức được tính cấp thiết của việc cơ 
cấu lại hệ thống TCTD, NHNN đã chủ động 
yêu cầu toàn ngành Ngân hàng phát huy nội 
lực để triển khai các biện pháp cơ cấu lại ngay 
khi Đề án được ban hành. NHNN đã trình 
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 
454/QĐ-TTg ngày 13/03/2013 và Quyết định 
363/QĐ-TTg ngày 11/03/2014 thành lập Ban 
chỉ đạo liên ngành triển khai Đề án. Về phía 
ngành Ngân hàng, Thống đốc NHNN đã ban 
hành Quyết định số 734/QĐ-NHNN ngày 
18/04/2012 về việc ban hành Kế hoạch hành 
động của ngành Ngân hàng, làm cơ sở để 
triển khai thực hiện Đề án. Trên cơ sở đó và 
trước áp lực từ phía thị trường, bản thân các 
NHTM cũng chủ động xây dựng và triển khai 
đề án tái cơ cấu cho riêng mình. 
Giai đoạn 2011-2015, hệ thống ngân hàng 
Việt Nam đã thực hiện đề án tái cơ cấu theo 
quyết định 254 ngày 01/3/2012 của Thủ 
tướng Chính phủ với nhiều biện pháp như: 
yêu cầu các ngân hàng thương mại tăng vốn; 
đưa các ngân hàng cổ phần yếu kém vào diện 
kiểm soát và bảo đảm thanh khoản; cho phép 
sáp nhập và mua lại; NHNN mua lại các ngân 
hàng yếu kém với giá 0 đồng; xử lý nợ xấu 
và thành lập công ty quản lý tài sản (VAMC). 
Các biện pháp đã nêu có tác động lớn tới hệ 
thống NHTM trong ngắn hạn cũng như dài 
hạn, đặc biệt là khả năng sinh lời của các 
ngân hàng. Các biện pháp tái cơ cấu đòi hỏi 
các NHTM phải tuân thủ các quy định chặt 
chẽ hơn trong cho vay, giới hạn tăng trưởng 
tín dụng bị giảm, nợ xấu phải được giải quyết 
dựa trên cơ sở trích lập dự phòng rủi ro tín 
dụng chính những điều này tác động 
không nhỏ tới lợi nhuận và khả năng sinh lời 
các NHTM. 
Nghiên cứu các nhân tố tác động tới khả 
năng sinh lời của NHTM sẽ giúp các nhà 
hoạch định chính sách bao gồm Chính phủ và 
Ngân hàng Nhà nước đề ra các chính sách 
nhằm gia tăng năng lực hoạt động và khả 
năng sinh lời của các ngân hàng. Bên cạnh đó, 
nghiên cứu cũng giúp các nhà quản trị ngân 
hàng nhận biết các nhân tố bên trong hệ thống 
NHTM có thể tác động tới hoạt động và khả 
năng sinh lời, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng 
cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả tài chính 
hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay. 
2. Tổng quan nghiên cứu 
Nghiên cứu về hệ thống ngân hàng Việt 
Nam thu hút tương đối nhiều các tác giả với 
các nội dung liên quan tới tác động của tự do 
hóa tài chính đến các NHTM, nghiên cứu về 
năng suất và hiệu quả hệ thống, tác động của 
rủi ro tín dụng tới hoạt động các ngân hàng. 
Nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng (2007) 
về hiệu quả và năng suất của ngân hàng 
thương mại Việt Nam giai đoạn từ 2001 - 
2003 với 13 ngân hàng. Sử dụng phương 
pháp phân tích bao dữ liệu, tác giả phát hiện 
hiệu quả chi phí trung bình là 60.6%. Chỉ số 
năng suất Malmquist giảm qua các năm. Các 
kết quả dựa trên quy mô mẫu tương đối nhỏ 
và khung thời gian ngắn, do đó độ tin cậy 
trong các kết quả không cao. 
Nguyễn Hồng Vinh (2012) sử dụng kỹ 
thuật phân tích bao dữ liệu giản đơn để đo 
lường hiệu quả và năng suất của các ngân 
hàng giai đoạn 2007-2010, sử dụng mẫu gồm 
20 ngân hàng. Tác giả cho rằng hiệu quả liên 
tục tăng trong giai đoạn nghiên cứu. Tuy 
nhiên, phần phân tích các nhân tố tác động tới 
hiệu quả và năng suất các ngân hàng chưa 
được đề cập. 
Sè 127/201916
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Tác giả Nguyễn Khắc Minh và cộng sự 
(2013) ước lượng hiệu quả của khu vực ngân 
hàng Việt Nam sử dụng mẫu gồm 32 ngân 
hàng giai đoạn 2001-2005. Sử dụng mô hình 
Slack-based DEA với giả thiết hiệu suất thay 
đổi theo quy mô (VRS). Điểm hiệu quả trung 
bình ở mức 80% và có xu hướng tăng trong 
giai đoạn nghiên cứu. Bên cạnh đó một số 
nhân tố tác động tới hiệu quả các ngân hàng 
bao gồm: dạng sở hữu, quy mô, chất lượng 
lao động và thị phần, được xem xét thông qua 
mô hình hồi quy Tobit. 
Võ Xuân Vinh (2015) phân tích mối quan 
hệ giữa hiệu quả kỹ thuật (TE), hiệu quả kỹ 
thuật thuần (PTE) và hiệu quả quy mô (SE) 
theo biến số tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân 
hàng Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng hiệu quả 
theo quy mô có tác động đáng kể tới tỷ suất 
sinh lời của cổ phiếu. 
Nguyễn Phương Anh và Michel Simioni 
(2015) sử dụng chỉ số Färe-Primont để đo 
lường năng suất khu vực ngân hàng Việt 
Nam giai đoạn 2008-2012. Kết quả chỉ ra 
rằng khu vực ngân hàng chịu sự suy giảm 
năng suất mặc dù có nhiều đổi mới công 
nghệ quan trọng. Sự suy giảm về hiệu quả 
theo qui mô và hiệu quả theo phạm vi là 
nguyên nhân cơ bản dẫn tới suy giảm năng 
suất của các ngân hàng. 
Các nghiên cứu về tái cấu trúc hệ thống 
ngân hàng: 
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hướng 
tới ba mục tiêu bao gồm: 1) tăng cường hiệu 
quả hoạt động của hệ thống; 2) cải thiện 
năng lực của các tổ chức tài chính và 3) 
phục hồi niềm tin của công chúng (Nguyễn 
Hồng Sơn và cộng sự, 2014). Các nghiên 
cứu về quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân 
hàng thu hút được sự quan tâm của nhiều 
nhà nghiên cứu. 
William và Nguyễn Nghĩa (2005) nghiên 
cứu tác động của thay đổi quản trị lên hiệu 
quả ngân hàng tại các quốc gia Đông Nam Á 
giai đoạn từ 1990 đến 2003, giai đoạn chứng 
kiến quá trình tự do hóa hệ thống ngân hàng, 
khủng hoàng tài chính Châu Á và các 
chương trình tái cấu trúc. Nghiên cứu khẳng 
định tác động tích cực của chương trình tư 
nhân hóa và sở hữu nước ngoài lên hiệu quả 
các ngân hàng. 
Banker và cộng sự (2010) nghiên cứu tác 
động của cải cách hệ thống ngân hàng lên 
năng suất các ngân hàng tại Hàn Quốc giai 
đoạn 1996-2005. Nghiên cứu chỉ ra rằng 
những thay đổi liên quan tới cấu trúc vốn và 
quản lý rủi ro tác động khác nhau tới năng 
suất hệ thống và những thay đổi này có tác 
động đáng kể tới các ngân hàng có ưu thế về 
vốn và nhận ưu đãi từ phía chính phủ. 
Hệ thống ngân hàng Việt Nam được tái cấu 
trúc từ năm 2011 theo Quyết định 254 của 
Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, các nghiên 
cứu về tác động của chương trình tái cấu trúc 
còn rất hạn chế và chỉ dừng ở mức định tính 
(như nghiên cứu của Nguyễn Hồng Sơn và 
cộng sự, 2014). Đề xuất nghiên cứu của 
chúng tôi đi tiên phong trong việc đánh giá 
một cách định lượng với bằng chứng khoa 
học về tác động của các biện pháp tái cấu trúc 
lên hoạt động của hệ thống ngân hàng. Kết 
quả của nghiên cứu sẽ mang đến cho các nhà 
hoạch định chính sách, các nhà quản lý ngân 
hàng và công chúng một đánh giá khách quan 
về tác động của các biện pháp tái cấu trúc đã 
thực hiện. 
17

Sè 127/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
3. Các nhân tố tác động tới hiệu quả tài 
chính các NHTM 
Các biện pháp trong giai đoạn tái cơ cấu 
tác động đáng kể tới hoạt động NHTM, làm 
thay đổi cấu trúc nguồn vốn và cơ cấu nợ của 
NHTM. Bên cạnh đó, cấu trúc tài sản, quy mô 
tài sản của NHTM cũng thay đổi đáng kể khi 
mà hoạt động cho vay bị kiểm soát chặt chẽ 
hơn, do đó việc đa dạng hóa danh mục tài sản 
nhằm giảm tỷ trọng tài sản cho vay và tăng 
khả năng sinh lời là hướng ưu tiên của các 
ngân hàng. 
Những thay đổi kể trên trong hoạt động 
của hệ thống ngân hàng tác động ra sao tới 
khả năng sinh lời của các ngân hàng? Điều 
này cần phải được làm rõ thông qua xây dựng 
các biến đại diện (proxy) và mô hình hồi quy 
thích hợp (regression models). 
Để phản ánh khả năng sinh lời của 
NHTM, hai biến bao gồm tỷ suất sinh lời trên 
vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời trên 
tài sản (ROA) được sử dụng trong nghiên 
cứu. Các biến đại diện cho sự thay đổi trong 
hoạt động của các ngân hàng giai đoạn tái cơ 
cấu bao gồm: 
(1) Thay đổi trong cấu trúc vốn (Equity on 
Asset ratio_EA): biến đại diện EA cho biết 
trong tổng quy mô nguồn vốn, bao nhiêu 
phần trăm thuộc về chủ sở hữu ngân hàng. 
Khi giá trị EA tăng thì khả năng chống đỡ với 
những rủi ro mất vốn cũng tăng lên, tuy nhiên 
biến này chịu ảnh hưởng lớn từ biến động trên 
thị trường chứng khoán. Nếu thị trường tăng 
trưởng tốt, các NHTM sẽ phát hành thêm cổ 
phiếu và việc gia tăng EA sẽ dễ dàng hơn và 
ngược lại. Mối quan hệ giữa EA và khả năng 
sinh lời được xem là thuận chiều, bởi khi EA 
tăng sẽ có nhiều cổ đông tham gia vào ngân 
hàng do đó làm gia tăng sự kiểm soát đối với 
hoạt động của Hội đồng quản trị cũng như 
Ban giám đốc, từ đó làm tăng hiệu quả kinh 
doanh và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động 
điều hành ngân hàng. 
(2) Thay đổi trong cấu trúc tài sản (Loan 
on Asset ratio_LA): biến đại diện LA cho biết 
trong tổng quy mô tài sản có bao nhiêu phần 
trăm là các khoản cho vay. Hoạt động cho vay 
được xem là hoạt động kinh doanh truyền 
thống của NHTM, tuy nhiên phụ thuộc quá 
nhiều vào hoạt động này nhằm tạo lợi nhuận 
sẽ dẫn tới gia tăng rủi ro về nợ xấu. Các biện 
pháp tái cơ cấu đòi hỏi các ngân hàng phải 
thận trọng hơn trong cho vay đồng thời đi 
kèm các biện pháp kiểm soát và xử lý các 
khoản nợ xấu. Các ngân hàng trong giai đoạn 
tái cơ cấu nếu đa dạng hóa danh mục tài sản 
và từ đó làm giảm tỷ lệ LA được kỳ vọng sẽ 
có khả năng sinh lời cao hơn. 
(3) Tỷ trọng chi phí trích lập rủi ro tín 
dụng trên tổng quy mô nợ (Loan-loss 
Provisioning Cost on Total Loan_LP): biến 
LP cho biết mức độ nợ xấu trên tổng quy 
mô cho vay của ngân hàng. Ngân hàng có 
mức độ nợ xấu càng cao thì tỷ lệ LP càng 
lớn và làm xói mòn khả năng sinh lời của 
các NHTM. 
(4) Quy mô tài sản (Log of Total 
Asset_LogA): biến logA phản ánh quy mô 
tài sản dưới dạng logarit. Theo lý thuyết 
kinh tế về hiệu suất theo quy mô, quy mô tài 
sản càng lớn khả năng sinh lời càng cao do 
tiết kiệm các khoản định phí. Bên cạnh đó, 
trong hoạt động ngân hàng quy mô tài sản 
càng lớn thì khả năng đa dạng hóa danh mục 
cho vay sẽ tốt hơn và do đó làm giảm rủi ro 
tín dụng. Vậy biến LogA được kỳ vọng có 
Sè 127/201918
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
quan hệ cùng chiều với khả năng sinh lời của 
các NHTM. 
Căn cứ vào các biến đại diện được xác 
định ở trên, các mô hình hồi quy được xây 
dựng như sau: 
Mô hình 1: 
ROE=a+αEA+βLA+γLP+δLogA+ε 
Mô hình 2: 
ROA=b+κEA+λLA+μLP+νLogA+ε 
Để ước lượng mô hình 1 và 2, tác giả sử 
dụng phương pháp hồi quy OLS. 
4. Dữ liệu 
Trong giai đoạn tái cơ cấu 2011-2015, hệ 
thống NHTM nước ta có những thay đổi đáng 
kể. Một số ngân hàng quy mô nhỏ, hoạt động 
không hiệu quả buộc phải sáp nhập với ngân 
hàng lớn, như ngân hàng Phát triển nhà Đồng 
bằng sông Cửu Long sáp nhập với ngân hàng 
Đầu tư và Phát triển Việt Nam; ngân hàng 
Phát triển nhà Hà Nội sáp nhập với ngân hàng 
Sài Gòn - Hà Nội. Bên cạnh đó, Ngân hàng 
Nhà nước tiến hành mua lại một số ngân hàng 
hoạt động quá yếu kém, không có khả năng 
tái cơ cấu, bao gồm ngân hàng Dầu khí toàn 
cầu, ngân hàng Đại Dương và ngân hàng Xây 
dựng. Tính đến cuối năm 2018, hệ thống ngân 
hàng của Việt Nam bao gồm 7 ngân hàng 
thuộc sở hữu nhà nước hoặc nhà nước nắm cổ 
phần chi phối, 31 ngân hàng cổ phần, 09 ngân 
hàng nước ngoài và 02 ngân hàng liên doanh. 
Để phân tích tác động của các nhân tố tới 
hiệu quả tài chính hệ thống ngân hàng thương 
mại Việt Nam giai đoạn tái cơ cấu, tác giả thu 
thập dữ liệu của 28 ngân hàng trong giai đoạn 
từ 2011 đến 2015. Các dữ liệu được sàng lọc 
và lựa chọn dựa trên các bảng cân đối kế toán 
và báo cáo thu nhập chi phí của các ngân 
hàng. Thống kê mô tả về các biến giải thích 
và biến độc lập được trình bày trong Bảng 1. 
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời có 
sự biến động đáng kể giữa các ngân hàng 
trong giai đoạn 2011-2015. Cụ thể, tỷ suất 
sinh lời trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng 
đạt mức cao nhất 41.47% trong khi đó ngân 
hàng đạt mức lợi nhuận thấp nhất là 0,01%. 
Điều này cho thấy, trong giai đoạn tái cơ cấu 
vẫn có những ngân hàng làm ăn tốt, trong 
điều kiện các biện pháp tái cơ cấu tác động 
đáng kể tới chi phí và khả năng sinh lời các 
ngân hàng. 
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản 
trung bình ở mức 11,38%, về cơ bản đạt yêu 
cầu của NHNN. Tuy nhiên, ở nhiều ngân 
hàng, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần 
chuyển đổi từ ngân hàng nông thôn thì tỷ lệ 
này không đạt. 
Tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản đạt ở mức 
53,16%, đặc biệt có những ngân hàng tỷ lệ 
này còn cao ở mức trên 75%. Điều này cho 
thấy các ngân hàng chưa thật sự đa dạng 
trong cấu trúc tài sản và rủi ro tín dụng vẫn 
còn tiềm ẩn. 
Tỷ lệ chi phí trích lập dự phòng rủi ro trên 
tổng quy mô nợ ở mức trung bình là 1,57%. 
Tỷ lệ này khá cao nếu so sánh với thời kỳ 
trước, cá biệt có những ngân hàng chi phí dự 
phòng chiếm đến gần một nửa tổng quy mô 
nợ. Chính sách mới về trích lập dự phòng rủi 
ro tác động rất lớn đến chi phí và lợi nhuận 
của các ngân hàng và là yếu tố cơ bản quyết 
định lợi nhuận các ngân hàng. Cho dù các 
ngân hàng bán tài sản cho VAMC song vẫn 
phải trích lập dự phòng trên cơ sở số nợ xấu 
đã bán. 
Quy mô tài sản các ngân hàng có sự biến 
động khá lớn giữa các nhóm ngân hàng. Các 
19

Sè 127/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
NHTM thuộc sở hữu nhà nước hoặc nhà nước 
nắm cổ phần chi phối có quy mô rất lớn lên 
đến hàng trăm nghìn tỷ đồng, trong khi đó các 
ngân hàng nước ngoài hay cổ phần thì giá trị 
tài sản đôi khi chỉ ở mức vài nghìn tỷ đồng. 
Các ngân hàng với quy mô tài sản nhỏ gặp 
khó khăn trong đa dạng hóa danh mục tài sản 
và dễ bị rủi ro. Do đó, sáp nhập các ngân hàng 
nhỏ lại với nhau là biện pháp thích hợp giúp 
hạn chế rủi ro, giảm chi phí và tăng khả năng 
cạnh tranh (bảng 1). 
5. Phân tích kết quả 
Bảng 2 trình bày kết quả hồi quy với hai 
biến độc lập phản ánh khả năng sinh lời của 
các NHTM trong giai đoạn tái cơ cấu (2011-
2015) với một số kết quả đáng chú ý như sau. 
Một là, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng 
nguồn vốn (EA) có quan hệ ngược chiều với 
biến tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu 
(ROE). Như vậy, các ngân hàng có mức độ an 
toàn về vốn cao hơn lại đạt mức sinh lời trên 
vốn chủ sở hữu thấp hơn.Điều này được giải 
thích là do yêu cầu tăng tỷ lệ an toàn vốn từ 
phía NHNN trong bối cảnh thị trường chứng 
khoán đi xuống, buộc các NHTM phải tăng 
vốn bằng lợi nhuận để lại. 
Hai là, tỷ trọng tài sản cho vay trên tổng 
tài sản (LA) càng cao thì tỷ suất lợi nhuận 
trên vốn chủ sở hữu hoặc tỷ suất lợi nhuận 
trên tổng tài sản càng cao. Phát hiện này cho 
thấy vai trò của cấu trúc tài sản đối với khả 
năng sinh lời hệ thống NHTM Việt Nam. 
Trong đó, các ngân hàng vẫn phụ thuộc đáng 
kể vào các khoản cho vay để tạo ra lợi 
nhuận. Đa dạng hóa danh mục tài sản và 
tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng sẽ đảm 
bảo tăng trưởng lợi nhuận bền vững cho các 
ngân hàng. 
Sè 127/201920
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 1: Thống kê mô tả các biến độc lập và biến giải thích 
(Nguồn: Bảng cân đối tài sản, báo cáo thu nhập - chi phí các ngân hàng) 
Teân bieán 
Kyù 
hieäu 
Min Max Trung bình 
Ñoä leäch 
chuaån 
Bieán ñoäc laäp 
Tyû suaát sinh lôøi treân voán chuû sôû 
höõu 
ROE 0,0001 0,4147 0,1083 0,0841 
Tyû suaát sinh lôøi treân taøi saûn ROA 0,000 0,0369 0,0110 0,0086 
Bieán giaûi thích 
Tyû leä voán chuû sôû höõu treân toång 
taøi saûn 
EA 0,0421 0,7983 0,1138 0,0786 
Tyû leä taøi saûn cho vay treân toång 
taøi saûn 
LA 0,1982 0,8095 0,5316 0,1329 
Tyû troïng chi phí döï phoøng tín duïng 
treân toång quy moâ nôï 
LP 0,0086 0,5397 0,0157 0,0450 
Quy moâ taøi saûn (ÑVT: trieäu ñoàng) A 2.337.884 741.815.049 101.421.243 153.082.576 
Ba là, tỷ trọng chi phí dự phòng rủi ro tín 
dụng trên tổng nợ các ngân hàng có mối quan 
hệ nghịch chiều với các chỉ tiêu phản ánh khả 
năng sinh lời. Tuy về mặt thống kê mối quan 
hệ tương quan này không có ý nghĩa, song về 
mặt thực tiễn lại có ý nghĩa đáng kể. Cụ thể là 
chi phí dự phòng rủi ro tín dụng là nhân tố tác 
động lớn tới hai chỉ tiêu ROE và ROA. Các 
chính sách của chính phủ trong việc tăng 
cường kiểm soát rủi ro và yêu cầu các NHTM 
trích lập đầy đủ chi phí dự phòng đã phát huy 
tích cực. Ngân hàng nào cho vay nhiều song 
không quản lý tốt rủi ro sẽ dẫn tới tăng chi phí 
dự phòng và hệ quả làm giảm lợi nhuận cũng 
như khả năng sinh lời. 
Bốn là, kết quả với biến Log(A) trong 
Bảng 2 chỉ ra mối quan hệ nghịch chiều giữa 
quy mô tài sản và khả năng sinh lời của tài 
sản. Điều này một lần nữa cho thấy chất 
lượng tài sản mới là yếu tố quyết định khả 
năng tạo lợi nhuận của các NHTM. Nếu chất 
lượng tài sản không tốt, nhiều nợ xấu thì càng 
tăng quy mô tài sản thì càng làm tăng các 
khoản chi phí dự phòng; hệ quả là lợi nhuận 
và tỷ suất lợi nhuận giảm. 
6. Kết luận và kiến nghị 
Sau giai đoạn tăng trưởng nóng và thiếu 
bền vững, hệ thống NHTM Việt Nam bước 
vào giai đoạn tái cơ cấu với mục tiêu ổn định 
và phát triển bền vững. Hàng loạt biện pháp 
tái cơ cấu được triển khai như sáp nhập và 
mua lại với các ngân hàng yếu kém, thành lập 
công ty mua bán nợ (VAMC), tăng cường các 
tiêu chuẩn hoạt động Các biện pháp này tác 
động lớn tới toàn hệ thống cũng như khả năng 
sinh lời của các ngân hàng trong giai đoạn tái 
cơ cấu. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi 
sâu phân tích bốn nhân tố cơ bản có thể tác 
động tới lợi nhuận của các NHTM, bao gồm: 
cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản, tác động 
của nợ xấu và quy mô tài sản. Các kết quả 
nghiên cứu chỉ ra rằng: (1) tỷ lệ vốn chủ sở 
hữu trên tài sản có tác động nghịch chiều với 
lợi nhuận; (2) tỷ trọng tài sản cho vay trên 
21

Sè 127/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 2: Kết quả hồi quy 
Trong đó: ROE là tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu; ROA là tỷ suất sinh lời trên tài 
sản; EA là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản; LA là tỷ lệ tài sản cho vay trên tổng tài sản; 
LP là tỷ trọng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng nợ; Log(A) là log của tổng tài sản. 
Ký hiệu *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. 
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
 ROE ROA 
EA -0,1923** 
(0,1023)
0,0102
(0,01)
LA 0,0847* 
(0,0543)
0,0155***
(0,005)
LP -0,1223 
(0,1557)
-0,0147
(0,0151)
Log(A) 0,0024 
(0,0006)
-0,002***
(0,0006)
tổng tài sản tác động cùng chiều với khả năng 
sinh lời; (3) Nợ xấu tác động tiêu cực tới lợi 
nhuận và (4) quy mô tài sản tác động nghịch 
chiều với khả năng sinh lời trên tài sản. 
Từ những kết quả và phân tích được 
trình bày ở trên, tác giả đề xuất một số kiến 
nghị nhằm tăng khả năng sinh lời của hệ 
thống NHTM Việt Nam. Một là gia tăng sự 
đóng góp vốn của các cổ đông nhằm đảm 
bảo tỷ lệ an toàn về vốn. Hai là các ngân 
hàng cần đa dạng hóa danh mục tài sản, 
trách phụ thuộc quá nhiều vào tài sản cho 
vay. Ba là chất lượng tài sản mới là yếu tố 
quyết định tới khả năng sinh lời của ngân 
hàng, do đó NHNN cũng như các NHTM 
cần chú trọng công tác quản lý rủi ro, đặc 
biệt là rủi ro tín dụng, nhằm nâng cao chất 
lượng các khoản nợ. 
Tài liệu tham khảo: 
1. Trúc, L. T., & Danh, V. T. (2012), 
Phân tích hoạt động kinh doanh của hệ 
thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt 
Nam, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần 
Thơ, 21, 158-168. 
2. Đình Bảo, Hồ., & Thanh Tùng, 
Nguyễn (2016), Ứng dụng phương pháp 
bao dữ liệu trong đánh giá và phân loại 
hiệu quả - Rủi ro các ngân hàng tại Việt 
Nam giai đoạn 2008-2012, Tạp chí Kinh tế 
& Phát triển, 199, 46-52. 
3. Tô Ngọc Hưng (2017), Tái cơ cấu hệ 
thống ngân hàng thương mại Việt Nam hướng 
tới phát triển bền vững, Tạp chí Ngân hàng. 
4. Le, Phuong Thanh, Charles Harvie, and 
Amir Arjomandi. (2017), Testing for differ-
ences in technical efficiency among groups 
within an industry, Applied Economics 
Letters, vol 24 no 3, pp 159-162. 
5. Le, Thanh Phuong, and Minh Thuy Do. 
(2017), A productivity analysis of the 
Vietnamese banking sector using non-per-
forming loans as a bad output, Scholars 
Journal of Economics, Business and 
Management vol 8B, no 4: pp 532-540. 
6. Vietnam National Assembly Economic 
Commission (NAEC) (2012), From 
Macroeconomic Turbulent to Restructuring, 
(Giau, NV, Chairperson), Hanoi. 
7. Vo Tri, T & Nguyen Anh, D (2009), 
Vietnam after Two Years of Wto Accession: 
What Lessons Can Be Learnt?, ASEAN 
Economic Bulletin, vol. 26, no. 1, pp. 115-123. 
Summary 
The article analyzes some of the internal 
factors within Vietnamese commercial bank-
ing system that may affect the profitability of 
banks during the restructuring period. Using 
regression model with data collecting from 
2011 to 2015, the author points out factors 
which have significant impacts on the prof-
itability, including asset structure, capital 
structure, bad debt level and asset scale. Since 
then, the author proposed a number of solu-
tions to improve the profitability of the com-
mercial banking system. 
Sè 127/201922
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_mot_so_nhan_to_tac_dong_toi_hieu_qua_tai_chinh_he.pdf