Bài giảng Phân tích tài chính - Chương 3: Tổng quan về hệ thống tài chính
CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người đã
để giành nhiều vốn, vì họ chi tiêu nhiều hơn thu nhập của họ. Chức năng này được trình bày ở
dạng sơ đồ trên Hình 3.1. Những người đã tiết kiệm và đang cho vay vốn, người cho vay/người
tiết kiệm, ở bên trái, và những người phải vay vốn để tài trợ chi tiêu của họ, người vay/người chi
tiêu ở bên phải. Những người cho vay/người tiết kiệm chủ yếu là những hộ gia đình, các hãng
kinh doanh và chính phủ (đặc biệt chính quyền bang và chính quyền địa phương) cũng như
những người nước ngoài và các chính phủ của họ đôi khi cũng thấy bản thân họ thừa vốn và như
vậy đưa chúng ra cho vay. Những người vay/người chi tiêu quan trọng nhất là các doanh nghiệp
kinh doanh và chính phủ, nhưng các gia đình và người nước ngoài cũng vay để tài trợ cho việc
mua xe hơi, đồ đạc và nhà cửa. Các mũi tên cho thấy rằng dòng vốn từ những người cho
vay/người tiết kiệm đi tới những người vay/người chi tiêu qua hai con đường
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Phân tích tài chính - Chương 3: Tổng quan về hệ thống tài chính
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 1 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành CHƯƠNG 3 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH LỜI DẪN Inez, nhà phát minh đã thiết kế một rô-bốt giá rẻ, rô-bốt này lau nhà (ngay cả lau cửa sổ), xếp vải và rửa ô-tô, nhưng bà ta không có vốn để đưa phát minh kỳ diệu của mình vào sản xuất. Walter, người góa vợ có nhiều món tiết kiệm do ông ta và vợ đã tích lũy trong nhiều năm. Nếu chúng ta có thể ghép Inez và Walter với nhau để Walter có thể cung cấp vốn cho Inez, rồi sau đó rô-bốt của Inez sẽ ra đời và nền kinh tế sẽ tốt lên : chúng ta sẽ có những ngôi nhà được lau chùi, những xe hơi bóng loáng và nhiều vải đẹp. Thị trường tài chính (thị trường trái phiếu và cổ phiếu) và những tổ chức trung gian tài chính ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu) có chức năng cơ bản là ghép những người như Inez và Walter lại với nhau bằng cách chuyển vốn từ những người có dư vốn (Walter) tới những người thiếu vốn (Inez). Một cách thực tế hơn, khi IBM phát minh ra một máy tính tốt hơn, hãng có thể cần vốn để đưa nó ra thị trường, hoặc một chính phủ địa phương có thể cần vốn để xây một con đường hay một trường học. Các thị trường tài chính và những tổ chức trung gian tài chính hoạt đông tốt là rất cần thiết để cải thiện đời sống kinh tế của chúng ta và đấy là cốt lõi cho sức mạnh kinh tế của chúng ta. Để nghiên cứu những tác dụng của thị trường tài chính và tổ chức trung gian tài chính đối với nền kinh tế, trước hết chúng ta phải có được một sự hiểu biết về cấu trúc tổng thể và hoạt động của những đối tượng vừa nêu. Ở chương này, chương mở đầu để đi tới vấn đề về những người trung gian tài chính và những công cụ tài chính chủ yếu được mua bán trong thị trường tài chính. Ngoài ra, chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu kỹ xem họ được điều hành như thế nào và vì sao lại như vậy. Chương này được dự tính mang lại một cái nhìn chung mở đầu cho những nghiên cứu đầy cuốn hút về thị trường tài chính và những tổ chức tài chính. Chúng ta sẽ quay lại nghiên cứu chi tiết hơn về việc điều hành, cấu trúc và những thay đổi của thị trường tài chính từ Chương 8 tới Chương 13. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Thị trường tài chính thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người đã để giành nhiều vốn, vì họ chi tiêu nhiều hơn thu nhập của họ. Chức năng này được trình bày ở dạng sơ đồ trên Hình 3.1. Những người đã tiết kiệm và đang cho vay vốn, người cho vay/người tiết kiệm, ở bên trái, và những người phải vay vốn để tài trợ chi tiêu của họ, người vay/người chi tiêu ở bên phải. Những người cho vay/người tiết kiệm chủ yếu là những hộ gia đình, các hãng kinh doanh và chính phủ (đặc biệt chính quyền bang và chính quyền địa phương) cũng như những người nước ngoài và các chính phủ của họ đôi khi cũng thấy bản thân họ thừa vốn và như vậy đưa chúng ra cho vay. Những người vay/người chi tiêu quan trọng nhất là các doanh nghiệp kinh doanh và chính phủ, nhưng các gia đình và người nước ngoài cũng vay để tài trợ cho việc Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 2 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành mua xe hơi, đồ đạc và nhà cửa. Các mũi tên cho thấy rằng dòng vốn từ những người cho vay/người tiết kiệm đi tới những người vay/người chi tiêu qua hai con đường. Hình 3.1. Những dòng vốn đi qua hệ thống tài chính Trong tài chính trực tiếp (con đường ở phía dưới đáy Hình 3.1) những người đi vay vốn trực tiếp từ người cho vay trong các thị trường tài chính bằng cách bán cho họ những chứng khoán (cũng còn gọi những công cụ tài chính – financial instruments), những chứng khoán này là những trái quyền (quyền được hưởng) đối với thu nhập hoặc tài sản trong tương lai của người vay. Trong khi chứng khoán là tài sản có đối với người mua, thì chúng lại là tài sản nợ (một khoản nợ hay giấy nợ) đối với những người hay tổ chức phát hành. Ví dụ, nếu General Motors cần vay vốn để tài trợ cho một nhà máy mới nhằm sản xuất loại xe hơi mới, hãng có thể phải vay vốn của người tiết kiệm bằng cách bán cho người này một trái phiếu, tức là một chứng khoán trong đó công ty có lời hứa thanh toán một cách định kỳ trong một khoảng thời gian nhất định. Vì sao việc dẫn vốn như thế này từ người tiết kiệm đến người chi tiêu lại quan trọng đến như vậy đối với nền kinh tế? Câu trả lời là những người có khoản tiết kiệm thường thường không phải cũng là người sẵn có cơ hội đầu tư sinh lợi. Trước hết chúng ta hãy suy nghĩ vấn đề này ở mức độ cá nhân. Giả sử bạn để dành được 1000 đô-la năm nay, nhưng không có thể vay và cho vay bởi vì không có thị trường tài chính. Nếu bạn không có cơ hội đầu tư để qua đó bạn có thể thu nhập nhờ món tiết kiệm này, bạn chỉ còn cách giữ nguyên 1000 đô-la và không có lãi. Mặt khác, Carl, người thợ mộc có cách dùng sinh lợi cho món 1000 đô-la của bạn: anh ta có thể dùng nó để mua một dụng cụ mới giúp anh ta rút ngắn thời gian mà anh ta cần để xây một ngôi nhà, nhờ vậy kiếm thêm được 200 đô-la mỗi năm. Nếu bạn có thể tiếp xúc được với Carl, rồi cho anh ta vay 1000 đô-la của bạn với một chi phí thuê tiền (tiền lãi) 100 đô-la mỗi năm thì cả hai bạn sẽ khá hơn. Bạn có thể kiếm được 100 đô-la/năm đối với 1000 đô-la của bạn thay cho việc bạn không nhận được đồng nào, trong khi Carl sẽ kiếm thêm được 100 đô-la/năm (món 200 đô-la kiếm thêm mỗi năm trừ 100 đô-la tiền thuê vốn). Những người cho vay (Người tiết kiệm) 1. Gia đình 2. Doanh nghiệp 3. Chính phủ 4. Người nước ngoài Các thị trường tài chính Những người vay (Người chi tiêu) 1. Doanh nghiệp 2. Chính phủ 3. Gia đình 4. Người nước ngoài Vốn Vốn Tổ chức trung gian tài chính Vốn Vốn Vốn TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 3 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành Nếu không có thị trường tài chính, bạn và Carl có thể chẳng bao giờ gặp nhau. Không có thị trường tài chính, sẽ có khó khăn trong việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư tới người có; cả hai sẽ tồi tệ hơn. Sự tồn tại của thị trường tài chính cũng là điều có lợi ngay cả khi một người vay cho một mục đích khác chứ không phải để tăng năng suất trong một doanh nghiệp. Ví dụ, gần đây bạn đã lập gia đình, có một việc làm tốt và muốn mua một ngôi nhà. Bạn có đồng lương khá, nhưng do bạn mới bắt đầu đi làm, bạn còn chưa dành dụm được nhiều. Qua thời gian dài bạn sẽ có thể tiết kiệm đủ để mua ngôi nhà mà bạn mơ ước, nhưng lúc đó bạn già rồi, tóc bị hoa râm và sẽ không còn có được niềm vui trọn vẹn với ngôi nhà. Không có thị trường tài chính, bạn bị bối rối: bạn không thể mua ngôi nhà và sẽ tiếp tục sống trong căn hộ nhỏ bé của bạn. Nếu một thị trường tài chính được thiết lập sao cho những người đã để giành được những món tiết kiệm có thể cho bạn vay tiền để mua nhà, bạn sẽ vui lòng trả họ một khoản lãi để sở hữu ngôi nhà trong khi bạn hãy còn đủ trẻ để thích thú với ngôi nhà. Như thế, khi bạn đã tiết kiệm đủ vốn, bạn sẽ thanh toán trả món vay của bạn. Toàn bộ kết quả là bạn sẽ khá lên cũng như những người đã cho bạn vay tiền. Nay họ nhận được một khoản lãi, trái lại họ sẽ không có nếu thị trường tài chính không tồn tại. Bây giờ, chúng ta có thể thấy vì sao thị trường tài chính có một chức năng quan trọng đến thế trong nền kinh tế. Nó cho phép vốn chuyển từ những người không có cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có những cơ hội như thế. Làm việc này, thị trường tài chính đã giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. Nó cung cấp vốn cho những người trẻ tuổi mua cái họ cần và có thể cuối cùng có đủ khả năng thanh toán trả mà không buộc họ phải chờ cho đến khi họ tiết kiệm đủ món tiền để mua. Thị trường tài chính lúc đang hoạt động hữu hiệu sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội. CẤU TRÚC CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Đến đây chúng ta đã hiểu chức năng của thị trường tài chính, chúng ta sẽ nghiên cứu sâu hơn cấu trúc của nó. Tiếp theo là một vài phân loại khác nhau, mỗi phân loại minh họa những đặc điểm cốt lõi của thị trường này. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần Có hai cách để một doanh nghiệp hay một cá nhân có thể vay vốn trong một thị trường tài chính. Phương pháp chung nhất là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ một trái khoán hay một món vay thế chấp, chúng là sự thỏa thuận có tính chất hợp đồng, trong đó người vay thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoảng thời gian đều đặn (thanh toán lãi) cho tới một thời điểm qui định trước (ngày đáo hạn) là lúc đợt thanh toán cuối cùng được thực hiện. Kỳ hạn của một công cụ nợ là thời gian tính tới ngày kết thúc của công cụ. Một công cụ vay nợ là ngắn hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 1 năm hay ít hơn và là dài hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 10 năm hoặc lâu hơn. Công cụ vay nợ có kỳ hạn thanh toán giữa 1 và 10 năm được gọi là trung hạn. Phương pháp thứ hai để vay vốn là phát hành những cổ phần ví dụ như cổ phiếu thường. Chúng là những quyền được đòi chia phần trong thu nhập ròng (sau khi trừ chi phí và thuế) và tài sản của một hãng kinh doanh. Nếu bạn sở hữu một cổ phần trong một công ty đã phát hành 1 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 4 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành triệu cổ phần, thì bạn được quyền có 1 phần triệu của thu nhập ròng của công ty và 1 phần triệu tài sản của công ty. Cổ đông thường được thanh toán định kỳ (lãi cổ phần) và những cổ phần vốn đó được coi là những chứng khoán dài hạn vì chúng không có ngày đáo hạn. Điều bất tiện chính của việc sở hữu những cổ phần vốn của một công ty khác với cho công ty vay một món nợ là ở chỗ một cổ đông là một người có quyền đòi hưởng sau cùng, tức là công ty phải thanh toán cho tất cả những chủ nợ trước khi thanh toán cho những cổ đông của công ty. Lợi ích của việc giữ các cổ phần vốn là ở chỗ cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận và hoặc giá trị tài sản của công ty tăng lên vì các cổ phần vốn ban quyền chủ sở hữu cho những cổ đông. Những chủ nợ sẽ không chia phần các món lợi nhuận này vì các khoản thanh toán tiền của họ đã cố định. Chúng ta sẽ xem xét những thuận lợi và trở ngại của công cụ vay nợ so với công cụ cổ phần vốn một cách chi tiết hơn khi chúng ta tới Chương 8, chương này cung cấp một phân tích kinh tế về cấu trúc tài chính. Tổng giá trị của cổ phần ở Mỹ nói chung dao động giữa một ngàn và năm ngàn tỉ đô-la trong 20 năm qua, tùy theo giá cổ phần. Mặc dù một người trung lưu chú ý nhiều đến thị trường cổ phiếu hơn là bất kỳ thị trường tài chính nào khác, tầm cỡ của thị trường vay nợ vượt xa tầm cỡ thị trường cổ phiếu : Giá trị của các công cụ nợ (11,1 ngàn tỉ đô-la vào cuối năm 1990) cao gấp hơn 2 lần so với giá trị của cổ phần vốn (4,2 ngàn tỉ đô-la vào cuối năm 1990). Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Thị trường sơ cấp là một thị trường tài chính trong đó những phát hành mới của một chứng khoán như một trái phiếu hoặc một cổ phiếu được người vay vốn (ví dụ như một công ty hay chính phủ) bán cho người đầu tiên mua nó. Thị trường thứ cấp là thị trường tài chính trong đó những chứng khoán đã được phát hành từ trước (nghĩa là đã qua mua bán) có thể được bán lại. Thị trường sơ cấp của chứng khoán là loại thị trường mà công chúng không biết rõ bởi vì việc bán các chứng khoán cho người đầu tiên mua nó diễn ra trong phòng kín. Sở giao dịch chứng khoán Mỹ và New York (The New York & American Stock Exchanges), trong đó những cổ phiếu đã phát hành từ trước được đem ra mua bán, là một ví dụ quen biết nhất về thị trường thứ cấp. Tuy thế, những thị trường trái phiếu (bond markets), trong đó những trái phiếu do những công ty lớn và chính phủ phát hành từ trước được mua và bán, thực tế có khối lượng mua bán lớn hơn. Những ví dụ khác của thị trường thứ cấp là các thị trường hối đoái, thị trường hợp đồng tương lai (future markets) là thị trường quyền chọn. Khi một cá nhân mua một chứng khoán ở thị trường thứ cấp thì cá nhân - người vừa bán nó nhận được tiền bán, nhưng công ty – người đã phát hành chứng khoán, không thu được tiền nữa. Một công ty thu được vốn mới chỉ khi những chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp thực hiện hai chức năng: Thứ nhất, nó tạo dễ dàng để bán những công cụ tài chính này nhằm thu tiền mặt, tức là nó làm tăng tính thanh khoản cho những công cụ tài chính này. Tính thanh khoản tăng lên của những công cụ này khiến chúng được ưa chuộng hơn và như thế làm cho công ty phát hành bán chúng một cách dễ dàng hơn ở thị trường sơ cấp. Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của mỗi chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường sơ cấp. Những tổ chức mua các chứng khoán ở thị trường sơ cấp sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng khoán này. Giá chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thì giá mà một công ty phát hành sẽ nhận được cho Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 5 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành các chứng khoán của mình ở thị trường sơ cấp sẽ càng cao và vì vậy, công ty phát hành nhận được tổng vốn đầu tư cao hơn. Những điều kiện trong thị trường sơ cấp do vậy là thích hợp nhất cho công ty phát hành các chứng khoán. Chính vì lý do này mà những cuốn sách tương tự sách này, khi nghiên cứu thị trường tài chính, tập trung vào phương thức diễn biến của các thị trường thứ cấp nhiều hơn là các thị trường sơ cấp. Các sở giao dịch và thị trường phi tập trung Thị trường thứ cấp có thể được tổ chức theo hai cách. Thứ nhất là tổ chức ra các sở giao dịch, ở đó người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một vị trí trung tâm để tiến hành buôn bán. Thị trường Giao dịch chứng khoán Mỹ và New York là nơi dành cho cổ phiếu và Sở giao dịch thương mại Chicago dành cho hàng hóa (lúa mì, ngô, bạc). Đó là những ví dụ về giao dịch có tổ chức. Một phương pháp khác để tổ chức một thị trường thứ cấp là có một thị trường phi tập trung (Over-the-Counter Market), trong đó các nhà tự doanh chứng khoán tại các địa điểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn sàng mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến với họ và có ý định chấp nhận giá ... trường tiền tệ chịu mức dao động giá ít và do đó là loại đầu tư rủi ro thấp nhất. Những loại công cụ chủ yếu ở thị trường tiền tệ được liệt kê ở Bảng 3.3 cùng với tổng giá trị dư nợ vào cuối thập niên 1970, 1980 và 1990. Bảng 3.3. Những công cụ tài chính chủ yếu trong thị trường tiền tệ Loại công cụ Tổng giá trị dư nợ (tỉ đô-la, cuối năm) 1970 1980 1990 Chứng chỉ tiền gửi bán lại được của ngân hàng (mệnh giá lớn) Tín phiếu kho bạc Mỹ Phiếu nợ thương mại Hối phiếu được ngân hàng chấp thuận Hợp đồng mua lại chứng khoán Euro đô-la Vay tiền ngân hàng 65 81 33 7 3 2 16 317 216 122 42 57 55 18 543 527 557 52 144 92 61 Tín phiếu kho bạc Mỹ. Những công cụ vay nợ ngắn hạn này của chính phủ Mỹ được phát hành với kỳ hạn 3, 6, và 12 tháng. Chúng được thanh toán một khoản định sẵn khi đáo hạn và không có một khoản lãi nào. Nhưng thực tế, chúng được thanh toán lãi do việc bán lần đầu có chiết khấu, tức là, với giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn. Ví dụ, bạn có thể mua một tín phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm trong tháng 5/1992 với số tiền 9.000 đô-la, tín phiếu này có thể được thanh toán 10.000 đô-la vào tháng 5/1993. Tín phiếu kho bạc Mỹ là loại công cụ thanh khoản nhất trong tất cả các loại công cụ thị trường tiền tệ bởi vì chúng được mua bán nhiều nhất. Chúng cũng là loại công cụ an toàn nhất trong tất cả các loại công cụ ở thị trường tiền tệ vì không có khả năng xảy ra vỡ nợ, tức là tình trạng trong đó bên phát hành công cụ vay nợ (trường hợp này là chính phủ liên bang) không có khả năng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 13 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành thực hiện việc thanh toán lãi hoặc thanh toán toàn bộ số tiền của người sở hữu khi công cụ đó đáo hạn. Chính phủ liên bang luôn đáp ứng được các món nợ phải trả vì chính phủ có thể tăng thuế hoặc phát hành giấy bạc để thanh toán hết nợ của mình. Tín phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng nắm giữ, tuy một lượng nhỏ do các gia đình, các công ty và những tổ chức trung gian tài chính khác nắm giữ. Chứng chỉ tiền gửi bán lại được của ngân hàng. Một chứng chỉ tiền gửi (CD) là một công cụ vay nợ do ngân hàng bán cho người gửi tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản đã định và khi đến kỳ hạn thanh toán, thì hoàn trả hết giá mua ban đầu. Trước 1961, CD không thể bán lại được, tức là, chúng không thể được bán lại cho người khác và không thể được hoàn trả trước kỳ hạn nếu không chịu một khoản phạt đáng kể. Năm 1966, nhằm làm cho CD thanh khoản hơn và hấp dẫn những người đầu tư hơn, Citibank đã lần đầu phát hành CD bán lại được đối với mệnh giá lớn (trên 100.000 đô-la). Chúng có thể bán lại ở thị trường thứ cấp. Hiện nay, công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được thành công to lớn, với tổng dư nợ gần đây vượt quá số dư của tín phiếu kho bạc Mỹ. Chúng là nguồn vốn đặc biệt quan trọng mà những ngân hàng thương mại nhận từ những công ty, quỹ đầu tư thị trường tiền tệ, các tổ chức từ thiện và các cơ quan của chính phủ. Phiếu nợ thương mại. Phiếu nợ thương mại (commercial paper) là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi tiếng phát hành, ví dụ General Motors hoặc AT & T. Trước những năm 1960, các công ty thường vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng, nhưng sau đó họ dựa chủ yếu vào việc bán phiếu nợ thương mại của họ cho các tổ chức trung gian tài chính và các công ty khác để vay vốn tức thời; tức là, họ đã thực hiện công việc tài chính trực tiếp. Thị trường phiếu nợ thương mại có tốc độ tăng trưởng rất lớn: Tổng dư nợ của phiếu nợ thương mại đã tăng hơn 1500% (từ 33 tỉ đô-la lên 557 tỉ đô-la) trong thời gian 1970 – 1990. Hối phiếu được ngân hàng chấp thuận. Những công cụ thị trường tiền tệ này được lập ra trong quá trình mậu dịch quốc tế và đã được dùng từ hàng trăm năm nay. Một hối phiếu được ngân hàng chấp thuận là một hối phiếu ngân hàng (một sự hứa hẹn thanh toán tương tự một tấm séc) do một công ty phát hành, được thanh toán trong thời gian sắp tới và được ngân hàng đảm bảo với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng đóng dấu “đã chấp thuận” lên hối phiếu. Công ty phát hành công cụ đó phải gửi món tiền bắt buộc vào tài khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. Nếu công ty không làm được như vậy, thì sự bảo đảm của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng buộc phải bồi thường số tiền của hối phiếu. Lợi ích cho công ty này là ở chỗ hối phiếu đó có thêm khả năng được chấp thuận khi mua hàng hóa ở nước ngoài vì nhà xuất khẩu ngoại quốc biết rằng ngay cả trường hợp công ty mua hàng hóa đã phá sản thì hối phiếu ngân hàng vẫn được thanh toán đủ. Các hối phiếu “đã chấp thuận” này thường được bán lại ở thị trường thứ cấp bằng cách chiết khấu và như vậy, có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc. Nói chung, những hối phiếu ngân hàng này được nhiều tổ chức trong số những tổ chức đã nắm giữ các tín phiếu kho bạc nắm giữ và tổng dư nợ cũng đã tăng đáng kể, tăng 600% (từ 7 tỉ đô-la lên 52 tỉ đô-la) từ 1970 tới 1990. Hợp đồng mua lại chứng khoán (Repurchase Agreement – RP). Hợp đồng mua lại chứng khoán thực tế là những món vay ngắn hạn (thường với kỳ hạn ít hơn hai tuần) trong đó các tín phiếu kho bạc được dùng làm vật bảo đảm một tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán được nợ. RP được tạo ra như sau: Một công ty lớn ví dụ General Motors, có thể có một số vốn nhàn rỗi trong tài khoản ngân hàng, ví dụ 1 tỉ đô-la. Công ty muốn đem cho Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 14 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành vay ngắn hạn. GM dùng 1 tỉ đô-la này để mua các tín phiếu kho bạc ở một ngân hàng nào đồng ý sẽ mua lại chúng vào sáng hôm sau với một giá cao hơn một chút so với giá mà GM đã mua. Tác dụng của sự thỏa thuận này là ở chỗ GM cho ngân hàng vay 1 tỉ đô-la và GM giữ số tín phiếu kho bạc 1 tỉ đô-la của ngân hàng cho đến khi ngân hàng mua lại số tín phiếu này để thanh toán hết món nợ. RP hoàn toàn là một khám phá mới đây (1969) trong thị trường tài chính. Hợp đồng mua lại chứng khoán này là một nguồn vốn quan trọng đối với các ngân hàng (trên 140 tỉ đô-la), và người cho vay quan trọng nhất ở thị trường này là các công ty lớn. Vay liên ngân hàng. Đây là những món vay nợ ngắn hạn điển hình giữa các ngân hàng bằng những món tiền gửi của họ tại Quỹ Dự trữ liên bang. Được gọi với cái tên tiếng Anh là “Quỹ Liên bang” (Federal Funds) là có sự hơi lầm lẫn bởi vì các món cho vay này không phải là món của chính phủ liên bang hay Cục Dự trữ Liên bang cho vay mà do những ngân hàng này cho những ngân hàng kia vay. Một lý do khiến vì sao một ngân hàng có thể vay trong thị trường liên ngân hàng là khi ngân hàng đó thấy tiền gửi của mình ở Fed không đạt mức quy định phải có. Khi ấy, ngân hàng có thể vay tiền gửi ở đây của những ngân hàng khác; những ngân hàng này chuyển tiền gửi tới ngân hàng muốn vay bằng hệ thống chuyển khoản điện tử của Fed. Thị trường này rất nhạy cảm đối với những nhu cầu tín dụng của các ngân hàng khiến cho lãi suất của những khoản vay này, được gọi là lãi suất liên ngân hàng, là một phong vũ biểu để đo mức căng thẳng của thị trường tín dụng trong hệ thống ngân hàng; lãi suất cao nghĩa là các ngân hàng đang bị sức ép về vốn, còn lãi suất thấp, là nhu cầu tín dụng của các ngân hàng thấp. EuroĐô-la. Những đồng đô-la Mỹ được gửi tại các ngân hàng ngoại quốc ở bên ngoài nước Mỹ hoặc tại những chi nhánh ở ngoại quốc của những ngân hàng Mỹ, được gọi là Euro đô-la. Các ngân hàng Mỹ có thể vay những khoản tiền gửi này của những ngân hàng khác hoặc của các chi nhánh ở ngoại quốc thuộc sở hữu của họ khi họ cần vốn. Euro đô-la đã trở thành một nguồn vốn quan trọng đối với các ngân hàng (trên 90 tỷ đô-la). Thị trường tiền tệ đã trải qua những thay đổi lớn trong 30 năm qua, với những công cụ tài chính mới xuất hiện với tốc độ nhanh hơn nhiều so với những thời kỳ khác. Vì sao điều này đang diễn ra lâu nay sẽ là một vấn đề hấp dẫn mà chúng ta sẽ nghiên cứu ở Chương 13, tại đó chúng ta sẽ xem xét những động lực đang thúc đẩy nhịp điệu đổi mới nhanh chóng trong 30 năm trở lại đây. Các công cụ ở thị trường vốn Công cụ thị trường vốn là công cụ nợ và cổ phần với kỳ hạn trên một năm. Chúng có dao động giá lớn hơn nhiều so với công cụ thị trường tiền tệ và được coi là những đầu tư thực sự có rủi ro. Những loại công cụ thị trường vốn chủ yếu được liệt kê trong Bảng 3.4 với tổng dư nợ vào cuối thập niên 1970, 1980 và 1990. Cổ phiếu. Cổ phiếu là trái quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công ty. Giá trị của chúng trên 4 ngàn tỉ đô-la vào cuối năm 1990 vượt quá giá trị của bất kỳ kiểu chứng khoán nào trong thị trường vốn. Tổng số phát hành cổ phiếu mới trong bất kỳ năm nào vừa qua cũng rất nhỏ, nhỏ hơn 1% giá trị tổng dư nợ của vốn cổ phần. Các cá nhân giữ trên 60% giá trị cổ phiếu, phần còn lại do các quỹ lương hưu, quỹ đầu tư chung và những công ty bảo hiểm nắm. Vay thế chấp mua bất động sản. Vay thế chấp mua bất động sản là những khoản tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để mua nhà, đất hoặc những công trình kiến trúc thực khác, trong đó các công trình kiến trúc và đất được dùng làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Thị Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 15 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành trường vay thế chấp là thị trường nợ lớn nhất ở Mỹ, với tổng số dư của các khoản nợ thế chấp nhà ở (dùng để mua nhà ở) gấp hơn ba lần tổng số dư của các món vay thế chấp thương mại và thế chấp nông trại. Những công ty tiết kiệm và cho vay và những ngân hàng tiết kiệm tương hỗ đã là những người cho vay hàng đầu trong thị trường cho vay thế chấp nhà ở, tuy rằng các ngân hàng thương mại cũng đã bắt đầu đi vào thị trường này một cách mạnh mẽ hơn. Đa số những món cho vay thế chấp thương mại và nông trại do các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm thực hiện. Chính phủ liên bang đã đóng vai trò tích cực trong thị trường vay thế chấp mua bất động sản thông qua ba cơ quan chính phủ (FNMA – Hiệp hội vay thế chấp quốc gia liên bang, GNMA – Hiệp hội vay thế chấp quốc gia của chính phủ, FHLMC – Công ty vay thế chấp mua nhà của liên bang). Những tổ chức này cung cấp vốn cho thị trường vay thế chấp mua bất động sản bằng cách bán trái phiếu và dùng tiền thu được để cho vay thế chấp. Trái phiếu công ty. Đây là loại trái phiếu dài dạn do các công ty phát hành với mức tín nhiệm rất cao. Một trái phiếu công ty thông thường mang lại cho người sở hữu một khoản lãi trả hai lần mỗi năm và thanh toán hết mệnh giá khi đáo hạn. Một số trái phiếu công ty được gọi là trái phiếu có khả năng chuyển đổi, do có đặc điểm phụ thêm là cho phép người giữ chuyển đổi nó thành một số cổ phần vào bất cứ lúc nào cho tới khi đáo hạn. Đặc điểm này khiến các trái phiếu chuyển đổi thêm hấp dẫn đối với những nhà đầu tư so với những trái phiếu không có khả năng chuyển đổi, và cho phép công ty giảm chi phí trả lãi vì các trái phiếu này có thể tăng giá trị nếu giá cổ phiếu tăng lên nhiều. Do tổng dư nợ của cả trái phiếu chuyển đổi và không chuyển đổi đối với một công ty xác định nào đó là nhỏ, chúng gần như không thanh khoản bằng các chứng khoán khác ví dụ các trái phiếu chính phủ Mỹ. Bảng 3.4. Những công cụ tài chính chủ yếu ở thị trường vốn: Tổng số dư Loại công cụ Tổng giá trị dư nợ (tỉ đô-la, cuối năm) 1970 1980 1990 Cổ phiếu công ty (giá trị thị trường) Vay thế chấp mua bất động sản Trái phiếu công ty Chứng khoán chính phủ Mỹ (dài hạn và có thể mua bán lại) Trái phiếu chính quyền tiểu bang và địa phương Trái phiếu các cơ quan thuộc chính phủ Mỹ Vay thương mại ngân hàng Vay tiêu dùng Vay thế chấp thương mại và thế chấp nông trại 906 355 167 160 146 51 152 134 116 1634 1099 366 407 279 193 457 355 353 4165 2924 987 1653 640 412 815 809 846 Nguồn: Federal Reserve Flow of Fund accounts, Federal Reserve Bulletin, & Banking and Monetary Statistics 1941-70. Quy mô thị trường trái phiếu công ty nhỏ hơn nhiều so với thị trường cổ phiếu. Tổng trị trái phiếu công ty nhỏ hơn ¼ tổng giá trị cổ phiếu. Nhưng, tổng giá trị trái phiếu mới được phát hành mỗi năm lớn hơn nhiều so với tổng giá trị cổ phiếu mới phát hành. Do vậy, đối với các quyết định về tài chính doanh nghiệp, diễn biến của thị trường trái phiếu công ty có thể quan trọng hơn nhiều so với diễn biến của thị trường cổ phiếu. Những người mua trái phiếu công ty quan trọng là công ty bảo hiểm nhân thọ, quỹ lương hưu và hộ gia đình. Chứng khoán chính phủ Mỹ. Những công cụ nợ dài hạn này do Kho bạc Mỹ phát hành để huy động tiền nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách liên bang. Do là những trái phiếu được mua bán rộng rải nhất ở Mỹ ( tổng số giao dịch tính trung bình vượt quá 100 tỉ mỗi ngày), chúng là chứng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Phân tích tài chính Bài đọc Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và - 4st ed. Ch.3: Tổng quan về hệ thống tài chính Frederic S. Mishkin 16 Dịch: NXB Khoa học & Kỹ thuật Hiệu đính: Xuân Thành khoán thanh khoản nhất được mua bán trên thị trường vốn. Chúng được Quỹ Dự trữ Liên bang, các ngân hàng, các hộ gia đình và người nước ngoài nắm giữ. Chứng khoán các cơ quan thuộc chính phủ Mỹ. Đây là những trái phiếu dài hạn do nhiều cơ quan thuộc chính phủ Mỹ phát hành. Nhiều chứng khoán được chính phủ Mỹ bảo đảm và do vậy chúng có tác dụng rất giống như các trái phiếu Chính phủ Mỹ, và cũng do các thành phần tương tự nắm giữ. Trái phiếu chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương. Trái phiếu này còn được gọi là trái phiếu đô thị, là những công cụ tài chính dài hạn do chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương phát hành để huy động vốn đầu tư trường học, đường sá.v.v Một đặc điểm nổi bật của loại trái phiếu này là tiền thanh toán lãi của chúng không phải đóng thuế thu nhập liên bang và cả thuế thu nhập tại bang phát hành. Các ngân hàng thương mại, với mức thuế thu nhập cao, là những người mua quan trọng nhất đối với các chứng khoán này, và sở hữu trên một nữa tổng số dư nợ. Nhóm nắm giữ lớn thứ hai là các cá nhân giàu có đang chịu mức thuế thu nhập cao, và sau nữa là các công ty bảo hiểm. Vay thương mại ngân hàng và vay tiêu dùng. Đây là những món vay dành cho người tiêu dùng và cho những công ty kinh doanh, và chủ yếu do ngân hàng cho vay. Nhưng trường hợp các món vay của người tiêu dùng, cũng còn do những công ty tài chính cho vay. Thường không có thị trường thứ cấp cho những món vay này và do vậy chúng kém thanh khoản nhất trong các công cụ thị trường vốn liệt kê ở Bảng 3.4.
File đính kèm:
- phan_tich_tai_chinh_chuong_3_tong_quan_ve_he_thong_tai_chinh.pdf