Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam - Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường

Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và

đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và

ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của

con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới

ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển

“ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó

với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều

quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc

bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn

đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và

kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân

hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện

nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.

Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các

chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào

tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và

các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành

chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức

và trình độ của nhân viên về hoạt động này

pdf 9 trang yennguyen 5440
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam - Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam - Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường

Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam - Trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường
17
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 190- Tháng 3. 2018
Phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam- trách 
nhiệm xã hội trong việc bảo vệ môi trường
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Nguyễn Thị Đoan Trang
Ngày nhận: 09/10/2017 Ngày nhận bản sửa: 24/11/2017 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018
Việc phát triển kinh tế mà không quan tâm tới môi trường đã và 
đang dẫn tới sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và 
ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của 
con người. Do đó, khi phát triển kinh tế, các quốc gia trên thế giới 
ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển bền vững. Việc phát triển 
“ngân hàng xanh” là một giải pháp quan trọng, góp phần ứng phó 
với biến đổi khí hậu và đảm bảo phát triển kinh tế bền vững mà nhiều 
quốc gia đang áp dụng để thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc 
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên ở Việt Nam, “ngân hàng xanh” là vấn 
đề còn khá mới mẻ. Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước và 
kinh nghiệm của một số nước, cũng như thực trạng hoạt động “ngân 
hàng xanh” của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện 
nay để đề xuất định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. 
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cần ban hành các 
chính sách hỗ trợ phát triển ngân hàng xanh, tổ chức hội thảo và đào 
tạo chuyên gia về ngân hàng xanh để hướng dẫn cho các NHTM; và 
các NHTM cần phát triển các sản phẩm ngân hàng xanh, ban hành 
chính sách tín dụng xanh, tăng cường đào tạo để nâng cao nhận thức 
và trình độ của nhân viên về hoạt động này
Từ khóa: Bảo vệ môi trường; ngân hàng xanh; tín dụng xanh
1. Giới thiệu
iến đổi khí hậu, 
cạn kiệt tài nguyên 
thiên nhiên, môi 
trường ô nhiễm 
đang ảnh hưởng 
tới sự ổn định môi trường 
sống của con người và là vấn 
đề khiến hầu hết các quốc gia 
trên thế giới quan tâm. Tại 
Việt Nam, từ tháng 9/2012, 
Thủ tướng Chính phủ đã phê 
duyệt “Chiến lược quốc gia về 
tăng trưởng xanh thời kì 2011- 
2020 và tầm nhìn đến 2050”, 
nhằm góp phần ứng phó với 
biến đổi khí hậu, giảm nghèo 
và đảm bảo phát triển kinh tế 
bền vững, và hệ thống ngân 
hàng là một mắt xích trong 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
việc thực hiện chiến lược quốc 
gia này thông qua việc thực 
hiện “ngân hàng xanh”. Tuy 
nhiên hiện nay “ngân hàng 
xanh” ở Việt Nam còn khá 
mới mẻ. Vì vậy việc nghiên 
cứu để đưa ra các giải pháp 
nhằm phát triển hoạt động 
ngân hàng xanh, góp phần vào 
sự phát triển bền vững của hệ 
thống ngân hàng cũng như của 
nền kinh tế Việt Nam là rất 
cần thiết. 
2. Cơ sở lý thuyết và 
phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Khái niệm ngân hàng 
xanh
Ngân hàng xanh đề cập đến 
hoạt động thúc đẩy môi 
trường thân thiện và giảm 
lượng khí thải cac-bon từ hoạt 
động ngân hàng (Bihari và 
Bhavna 2015, 2). Đây là một 
hình thức ngân hàng đảm bảo 
ít sử dụng các nguồn lực tự 
nhiên và giảm tối ưu về lãng 
phí giấy và khí thải cac-bon. 
Biswas định nghĩa ngân hàng 
xanh là sự kết hợp và thúc đẩy 
các hoạt động môi trường thân 
thiện và giảm lượng khí thải 
cac-bon (carboon footprint1- 
hay còn được gọi là dấu chân 
cac-bon) từ hoạt động ngân 
hàng (Biswas 2016, 43). Ngân 
hàng xanh đề cập đến các hoạt 
động kinh doanh ngân hàng 
tiến hành trong các lĩnh vực 
và theo cách thức giúp giảm 
1 Theo https://en.wikipedia.org/
wiki/Carbon_footprint, Dấu chân 
carbon được nghĩa là toàn bộ 
nhóm phát thải khí nhà kính gây ra 
bởi một cá nhân, sự kiện, tổ chức, 
hoặc sản phẩm được mô tả qua 
lượng CO2 tương đương . 
khí thải cac-bon bên ngoài và 
giảm khí thải cac-bon trong 
hoạt động nội bộ ngân hàng. 
Theo bà Vũ Xuân Nguyệt 
Hồng- đại diện Viện Nghiên 
cứu quản lý kinh tế Trung 
ương (CIEM), “ngân hàng 
xanh là các hoạt động, nghiệp 
vụ của hệ thống ngân hàng 
nhằm khuyến khích các hoạt 
động vì môi trường và giảm 
phát thải cac-bon” (Đỗ Lê 
2013).
Như vậy, khái niệm về ngân 
hàng xanh đều hướng đến các 
vấn đề chính: (i) Giảm phát 
thải cac-bon trong hoạt động 
nội bộ ngân hàng; (ii) phát 
triển các sản phẩm, dịch vụ 
xanh và (iii) thúc đẩy hoạt 
động vì môi trường thông qua 
chính sách tín dụng xanh... 
Cụ thể, các ngân hàng giảm 
thải cac-bon thông qua việc 
giảm thiểu tác động của 
những hoạt động trong ngân 
hàng ảnh hưởng đến môi 
trường như việc sử dụng 
điện, nước, giấy, vật dụng 
văn phòng Do đó các ngân 
hàng hướng tới giảm số lượng 
các chi nhánh, văn phòng, 
xây dựng các cơ sở hạ tầng 
“xanh”, sử dụng những trang 
thiết bị ít gây ảnh hưởng đến 
môi trường, sử dụng tiết kiệm 
các nguồn năng lượng, 
Đồng thời, họ cũng phát triển 
các sản phẩm, dịch vụ xanh 
là phát triển các sản phẩm 
dịch vụ có thể giảm lượng 
các-bon, như các dịch vụ 
ngân hàng điện tử (phone 
banking, internet banking, 
mobile banking), dịch vụ 
thanh toán tự động, thanh 
toán không dùng tiền mặt, 
chủ yếu là thanh toán qua thẻ. 
Bên cạnh đó, các ngân hàng 
cũng khuyến khích khách 
hàng quan tâm môi trường 
bằng việc áp dụng chính sách 
tín dụng xanh- chính sách có 
những ưu đãi đối với các dự 
án thân thiện môi trường, dự 
án bảo vệ môi trường, thực 
hiện thẩm định rủi ro môi 
trường- xã hội trong hoạt 
động cấp tín dụng
2.1.2. Các nghiên cứu về ngân 
hàng xanh
Nghiên cứu của Biswas 
(Biswas 2011) làm nổi bật 
những lợi ích chính, những 
thách thức, các khía cạnh 
chiến lược của ngân hàng 
xanh. Nghiên cứu cũng trình 
bày tình trạng của các ngân 
hàng Ấn Độ và khuyến nghị 
các ngân hàng phải đóng vai 
trò chủ động đưa ra vấn đề 
môi trường và sinh thái như là 
một phần của nguyên tắc cho 
vay của họ, nhờ đó sẽ buộc 
các ngành công nghiệp đầu 
tư cho quản lý môi trường, sử 
dụng công nghệ và hệ thống 
quản lý phù hợp để thúc đẩy 
ngân hàng xanh vì sự phát 
triển bền vững của quốc gia.
Rahman và các cộng sự 
(Rahman et al 2013) nghiên 
cứu về ngân hàng xanh ở 
Bangladesh cho thấy các ngân 
hàng có thể trở nên “xanh” 
thông qua thực hiện những 
thay đổi trong 6 lĩnh vực 
chính trong hoạt động ngân 
hàng, đó là: quản lý đầu tư, 
quản lý tiền gửi, văn phòng 
xanh, quy trình tuyển dụng 
và phát triển nguồn nhân lực, 
trách nhiệm xã hội, và nhận 
thức của khách hàng.
Sudhalakshmi và Chinnadorai 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
(2014) đã thấy rằng mặc dù 
các ngân hàng ở Ấn Độ đóng 
vai trò chủ động trong nền 
kinh tế mới nổi của Ấn Độ 
nhưng vẫn chưa có sự dẫn đầu 
trong vấn đề ngân hàng xanh. 
Nhóm tác giả cũng đưa ra các 
định hướng để các ngân hàng 
trở nên “xanh” như dựa vào 
các giao dịch online để giảm 
sử dụng giấy càng nhiều càng 
tốt, áp dụng các tiêu chuẩn về 
môi trường trong cho vay, coi 
vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên 
nhiên là nguyên tắc coi trọng 
trong đánh giá khoản cho 
vay và có sự hợp tác của các 
khách hàng trong việc giảm 
cac-bon, chủ động theo đuổi 
các chương trình xanh vì sự 
phát triển bền vững. 
Nghiên cứu của Raad Mozib 
Lalon (2015) tập trung vào 
các hoạt động ngân hàng 
xanh của các ngân hàng ở 
Bangladesh và so sánh những 
hoạt động của ngân hàng xanh 
của các NHTM. Đồng thời 
nghiên cứu này cũng thảo luận 
về các quy định liên quan đến 
ngân hàng xanh ở đất nước 
này. Từ đó, tác giả đưa ra các 
khuyến nghị như ngân hàng 
Bangladesh phải theo dõi các 
hoạt động ngân hàng xanh của 
các ngân hàng; Chính phủ nên 
khuyến khích và cố gắng để 
tạo ra nhận thức về ngân hàng 
xanh, có sự phối hợp của các 
đơn vị có liên quan để chia sẻ 
kiến thức và bí quyết kỹ thuật, 
cũng như có cơ sở dữ liệu để 
hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn 
thực hành ngân hàng xanh một 
cách có hiệu quả.
Gần đây nhất, Biswas (2016) 
đã tìm hiểu tầm quan trọng 
của ngân hàng xanh, xem xét 
kinh nghiệm quốc tế và rút ra 
những bài học quan trọng để 
phát triển bền vững ở Ấn Độ. 
Ở Việt Nam, đã có nghiên 
cứu của Nguyễn Hữu Huân 
(2014) về xây dựng ngân 
hàng xanh ở Việt Nam, chỉ ra 
sự quan trọng của nghiệp vụ 
ngân hàng xanh, tham khảo 
những kinh nghiệm quốc tế và 
những bài học cho hoạt động 
của ngân hàng Việt Nam và 
sự phát triển bền vững ở Việt 
Nam. 
Nghiên cứu của Vũ Thị Kim 
Oanh (2015) cũng phân tích 
kinh nghiệm của một số quốc 
gia trên thế giới trong việc 
xây dựng và phát triển ngân 
hàng xanh, trên cơ sở đó đưa 
ra những khuyến nghị để phát 
triển ngân hàng xanh ở Việt 
Nam như hệ thống ngân hàng 
phải có những hành động thiết 
thực triển khai ngân hàng 
xanh và tín dụng xanh nhằm 
hướng tới phát triển bền vững, 
nếu không hệ thống ngân hàng 
và nền kinh tế sẽ trả những cái 
giá rất đắt.
2.2. Phương pháp nghiên 
cứu
Nghiên cứu này áp dụng 
phương pháp phân tích nội 
dung và số liệu liên quan ngân 
hàng xanh từ các báo cáo 
thường niên năm 2016 của các 
ngân hàng được công bố trên 
các trang thông tin điện tử của 
ngân hàng. Đồng thời, nghiên 
cứu này cũng phân tích các 
thông tin liên quan hoạt động 
ngân hàng xanh từ các tạp chí 
chuyên ngành và trang thông 
tin điện tử của các tạp chí để 
tìm hiểu về kinh nghiệm của 
một số quốc gia khi triển khai 
chính sách về ngân hàng xanh 
và để có những thông tin cập 
nhật về thực trạng hoạt động 
ngân hàng xanh ở Việt Nam.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả
3.1.1. Kinh nghiệm của một số 
quốc gia trên thế giới
Trên thế giới đã có khá nhiều 
quốc gia triển khai chính sách 
về ngân hàng xanh. 
Trung Quốc đẩy mạnh hoạt 
động ngân hàng xanh thông 
qua chính sách “Tín dụng 
Xanh”. Chính sách này của 
Trung Quốc được ban hành 
vào tháng 07/2007 nhằm 
khuyến khích các ngân hàng 
Trung Quốc thực hiện cấp 
tín dụng cho các dự án ít gây 
ô nhiễm, thân thiện với môi 
trường hay sử dụng năng 
lượng tái tạo. Chính sách Tín 
dụng xanh cũng đã đạt được 
những kết quả ban đầu khá ấn 
tượng với sự gia tăng đáng kể 
nguồn vốn vào các dự án xanh 
tại Trung Quốc Tuy nhiên, 
Trung Quốc đã mất gần 5 năm 
kể từ khi bắt đầu ra chính sách 
cho đến khi xây dựng được 
một hướng dẫn tương đối chi 
tiết để thực hiện chính sách 
này (tháng 02/2012). Một 
trong những khó khăn lớn 
nhất của việc thực hiện chính 
sách này là việc thiếu đi một 
hệ thống đánh giá đáng tin cậy 
về các ngành nghề và các cơ 
sở gây ô nhiễm môi trường để 
làm căn cứ cho các ngân hàng 
phân loại dự án, đặc biệt là 
khi nhiều ngành gây ô nhiễm 
cũng đang là những ngành 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
mang lại lợi nhuận cao cho 
nhiều địa phương. 
Ở Mỹ đã có quy định về trách 
nhiệm đối với môi trường 
không chỉ của doanh nghiệp 
gây ô nhiễm mà còn của các 
bên liên quan khác, trong 
đó có thể bao gồm cả ngân 
hàng cho vay vốn cho các 
công trình, dự án gây ô nhiễm 
khi thông qua Đạo luật Bồi 
hoàn Môi trường Toàn diện 
(CERCLA- Comprehensive 
Environmental Response, 
Compensation, and Liability 
Act) năm 1980. Mặc dù Đạo 
luật này có miễn trừ trách 
nhiệm của người cho vay, 
nhưng những trường hợp 
người cho vay có tham gia 
một mức nhất định đến việc 
đảm bảo an toàn môi trường, 
xã hội của công trình hay dự 
án gây ô nhiễm thì cũng phải 
nộp phạt một khoản phí không 
nhỏ. Bên cạnh đó, những 
quy định nghiêm ngặt của 
CERCLA về bồi hoàn môi 
trường cũng tác động gián tiếp 
đến các ngân hàng vì nếu phải 
bồi hoàn môi trường thì chủ 
đầu tư dự án sẽ mất khả năng 
trả nợ cho ngân hàng. 
Tại châu Âu, năm 1989, Ủy 
ban Châu Âu (EC) đưa ra một 
bản dự thảo Chỉ thị về trách 
nhiệm dân sự đối với những 
tổn hại do rác thải. Tuy nhiên, 
đến năm 2004, Chỉ thị này 
mới được chính thức đưa ra 
sau khi EC thu hẹp bớt những 
quy định về người chịu trách 
nhiệm với cơ sở gây ô nhiễm 
do các ngân hàng châu Âu 
lo ngại đây sẽ trở thành một 
CERCLA thứ hai. Sau khi Chỉ 
thị này có hiệu lực (từ tháng 
4/2004), các nước thành viên 
của EC có ba năm để xây 
dựng luật tại quốc gia mình. 
Tuy nhiên, đến tháng 07/2010 
việc này mới được hoàn tất 
nên đánh giá về hiệu quả thực 
hiện còn hạn chế. 
Bên cạnh việc luật hóa trách 
nhiệm như các ví dụ ở trên, 
có một số nỗ lực khác ngoài 
nhà nước nhằm thúc đẩy trách 
nhiệm của ngành ngân hàng 
đối với môi trường và xã hội, 
như: Sáng kiến tài chính của 
chương trình môi trường Liên 
Hiệp Quốc (UNEPFI), Cam 
kết hiệp ước toàn cầu của Liên 
Hiệp Quốc (UNGC), Nguyên 
tắc đầu tư có trách nhiệm của 
Liên Hiệp Quốc, Nguyên tắc 
xích đạo (EP), Nguyên tắc 
Các-bon, Nguyên tắc khí hậu, 
ISO 26000 và một số sáng 
kiến, dự án khác. Trong đó, 
EP- thỏa thuận không cho 
tài trợ trực tiếp các dự án mà 
chủ đầu tư dự án không hoặc 
không thể tuân thủ các chính 
sách và quy trình về quản lý 
rủi ro môi trường và xã hội, là 
bộ chuẩn mực được chính các 
tổ chức tài chính xây dựng và 
cam kết thực hiện. EP được 
chính thức ra đời năm 2003 và 
đến nay đã có 78 tổ chức tài 
chính tham gia cam kết. Hiện 
nay, EP được xem như bộ 
chuẩn mực tự nguyện mang 
tính hướng dẫn tốt nhất đối 
với các nhà đầu tư tài chính.
3.1.2. Thực trạng ngân hàng 
xanh ở Việt Nam
Vấn đề giảm thải khí cac-
bon trong hoạt động nội bộ 
ngân hàng: Hiện nay, quy 
mô ngày càng tăng của các 
ngân hàng làm tăng lượng khí 
thải cac-bon ra môi trường 
xung quanh. Chỉ tính đến 
thời điểm tháng 10/2016, hệ 
thống NHTM Việt Nam đã có 
10.203 chi nhánh, phòng giao 
dịch phủ khắp các tỉnh thành 
trong nước2. Với số lượng các 
chi nhánh khổng lồ như vậy, 
khi hoạt động, các ngân hàng 
sẽ làm tăng đáng kể lượng khí 
thải cac-bon vào môi trường 
do sử dụng nhiều năng lượng, 
máy điều hòa, thiết bị in ấn... 
Qua đó, tác động xấu đến 
môi trường, làm ảnh hưởng 
đến nguồn không khí và môi 
trường tự nhiên xung quanh.
Về việc phát triển các sản 
phẩm, dịch vụ xanh: Hiện nay, 
các ngân hàng đều đang phát 
triển các dịch vụ ngân hàng 
điện tử- một trong những hoạt 
động làm xanh hóa hoạt động 
ngân hàng. Từ đó khuyến 
khích người dân sử dụng các 
phương tiện thanh toán không 
dùng tiền mặt. Phó Giám đốc 
NHNN Chi nhánh TP Hồ Chí 
Minh Trần Ðình Cường cho 
biết: “Theo thống kê, đã có 
65 NHTM cung ứng dịch vụ 
internet banking, 35 NHTM 
cung ứng dịch vụ mobile 
banking và nhiều tổ chức 
trung gian cung ứng các dịch 
vụ thanh toán điện tử. Nhờ sự 
phát triển nhanh của dịch vụ 
thanh toán điện tử, tỷ trọng 
thanh toán bằng tiền mặt trên 
tổng phương tiện thanh toán 
giảm còn khoảng 12%, từ mức 
hơn 14% của năm 2010” 3. Cụ 
2 Số liệu từ 
lienvietpostbank.com.vn/tin-tuc-
su -k ien / t i n - l i env ie tpos tbank /
n o i - d u n g / 3 1 - 1 0 - 2 0 1 6 -
lienvietpostbank-co-mang-luoi-
rong-nhat-viet-nam
3 https://www.baomoi.com/ngan-
hang-day-manh-phat-trien-dich-
vu-truc-tuyen/c/23438367.epi 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
thể, theo thống kê của NHNN, 
từ đầu năm đến tháng 7/2017, 
tỷ trọng tiền mặt lưu thông 
trên tổng phương tiện thanh 
toán có xu hướng giảm dần, từ 
14,68% xuống còn 11,35%4. 
T ...  những vụ 
kiện tụng của người dân liên 
quan đến dự án này. Bên cạnh 
đó, một số NHTM không ưu 
tiên các dự án tiết kiệm năng 
lượng, dự án thân thiện với 
môi trường vì đây là những 
dự án sử dụng công nghệ mới, 
cần một lượng vốn đầu tư 
lớn, thời gian thu hồi vốn dài. 
Đương nhiên, cùng một khối 
tài sản thế chấp, ngân hàng 
sẽ cảm thấy an toàn hơn nếu 
cung cấp tín dụng cho các dự 
án cần ít vốn đầu tư hơn, thời 
gian thu hồi vốn nhanh hơn. 
Do đó, các ngân hàng chưa 
sẵn sàng đánh đổi giữa các 
lợi ích kinh tế từ những dự án 
gây tác động môi trường và 
việc trở thành một ngân hàng 
“xanh hơn” với những lợi ích 
còn chưa nhìn thấy được. 
Tóm lại, với số lượng chi 
nhánh ngân hàng lớn, thiếu 
cơ sở hạ tầng cho phát triển 
các dịch vụ ngân hàng “xanh” 
hiện đại, các ngân hàng Việt 
Nam chưa thực sự quan tâm 
đến việc phát triển ngân hàng 
xanh nên kết quả thực hiện 
ngân hàng xanh ở Việt Nam 
còn hạn chế. 
4. Kiến nghị và kết luận
Trên cơ sở phân tích thực 
trạng và kinh nghiệm của một 
số nước như trên, để phát triển 
ngân hàng xanh tại Việt Nam, 
cần xây dựng một kế hoạch 
của ngành ngân hàng bao 
gồm hệ thống các hành động, 
giải pháp toàn diện từ cơ chế, 
chính sách đến các chương 
trình ngân hàng xanh cụ thể, 
cũng như có sự phối hợp giữa 
các bộ, ngành, các tổ chức 
có liên quan có các cơ chế 
khuyến khích, tăng cường vốn 
và năng lực, nhằm hỗ trợ 
các ngân hàng thực hiện, triển 
khai ngân hàng xanh. 
Trước hết về phía Chính phủ, 
cần có những chính sách hỗ 
trợ phát triển ngân hàng xanh 
như:
- Thiết kế một khung pháp 
lí chặt chẽ về trách nhiệm 
môi trường và xã hội của hệ 
thống ngân hàng trong việc 
cấp phát tín dụng, kiến nghị 
Quốc hội bổ sung trong Luật 
Bảo vệ môi trường, Bộ luật 
Hình sự những quy định trách 
nhiệm của những đơn vị tài 
trợ, những ngân hàng cho vay 
đối với các dự án tác động xấu 
đến môi trường. Qua đó, các 
ngân hàng mới thấy rõ trách 
nhiệm trong việc quan tâm 
đến vấn đề rủi ro môi trường- 
xã hội khi cấp tín dụng. 
- Có các chính sách hỗ trợ, 
khuyến khích để phát triển các 
dịch vụ ngân hàng hiện đại 
cũng như khuyến khích người 
dân sử dụng các dịch vụ này 
bằng cách phát triển cơ sở hạ 
tầng công nghệ, nhất là vùng 
nông thôn, đảm bảo an toàn 
trong thanh toán điện tử 
- Có chính sách giảm thuế, phí 
và hỗ trợ lãi suất đối với các 
NHTM triển khai chiến lược 
ngân hàng xanh. 
Về phía NHNN, là cơ quan 
quản lý trực tiếp các NHTM 
cần:
- Xây dựng và ban hành thông 
tư quy định về đánh giá rủi ro 
môi trường và xã hội để quy 
định bắt buộc tất cả các tổ 
chức tín dụng trong hệ thống 
áp dụng áp dụng các nguyên 
tắc chung quản lý rủi ro môi 
trường, xã hội trong hoạt động 
cấp tín dụng và đầu tư, tạo 
cơ sở pháp lý cho các ngân 
hàng thực hiện tín dụng xanh. 
Việc cho ra đời Thông tư này 
là điều cần thiết để góp phần 
giúp thực hiện được các chiến 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
lược về tín dụng xanh, vì nếu 
thiếu các quy định được áp 
dụng trên toàn hệ thống thì có 
thể các ngân hàng sẽ không 
thấy trách nhiệm phải tuân 
thủ. Ngược lại, nếu có các quy 
định, hướng dẫn cụ thể trong 
hệ thống tài chính thì mọi 
thành phần tham gia sẽ đều 
thấy trách nhiệm của mình.
- Phối hợp với các bộ, ngành 
liên quan để phổ biến bộ chỉ 
tiêu về đánh giá rủi ro môi 
trường và xã hội đối với một 
số ngành kinh tế cụ thể có 
nguy cơ rủi ro cao để để các 
ngân hàng xác định các rủi ro 
môi trường và xã hội khi thẩm 
định đơn xin cấp tín dụng cho 
một số ngành cụ thể. Bên cạnh 
đó, NHNN cũng cần tổ chức 
một số lớp đào tạo về sử dụng 
các công cụ quản lý rủi ro môi 
trường và xã hội cho cán bộ 
nòng cốt về quản lý rủi ro môi 
trường và xã hội và thẩm định 
tín dụng tại các ngân hàng. 
- Tuyên truyền về các lợi ích 
của việc thực hiện ngân hàng 
xanh, có chính sách khuyến 
khích các ngân hàng phát triển 
ngân hàng xanh. Điều này sẽ 
không chỉ giúp cho nền kinh 
tế- xã hội trong định hướng 
phát triển xanh nói chung, 
mà còn tốt cho chính từng 
ngân hàng và khách hàng của 
họ nói riêng xét cả về uy tín 
thương hiệu và những giá trị 
khác mang lại. 
- Tiếp tục hợp tác với các 
tổ chức tài chính phát triển 
quốc tế có nhiều kinh nghiệm 
trong lĩnh vực đầu tư bền 
vững, tín dụng xanh để xây 
dựng một đội ngũ giảng viên 
có kiến thức, hiểu biết về tín 
dụng xanh và quản lý rủi ro 
môi trường và xã hội, từ đó 
tổ chức các lớp đào tạo, các 
buổi hội thảo, tọa đàm để trao 
đổi kinh nghiệm nhằm nâng 
cao năng lực chuyên môn cho 
nhân lực ngành ngân hàng 
trong lĩnh vực khá mới mẻ đối 
với thị trường Việt Nam.
Về phía các NHTM, là đơn vị 
trực tiếp triển khai ngân hàng 
xanh, cần chú trọng những 
giải pháp sau: 
- Phát triển hơn nữa các dịch 
vụ ngân hàng hiện đại, trong 
đó cần chú trọng vấn đề an 
toàn, bảo mật trong thanh toán 
điện tử để khách hàng yên 
tâm sử dụng các dịch vụ ngân 
hàng hiện đại. Nhờ đó, giảm 
thiểu lượng phát thải cac-bon 
do ngân hàng có thể giảm 
số lượng các chi nhánh cũng 
như giảm lượng giấy sử dụng 
trong giao dịch của khách 
hàng. 
- Chủ động tiếp cận nguồn 
vốn quốc tế xanh thông qua 
các bộ/ban/ngành đầu mối, 
hoặc tiếp cận trực tiếp các 
định chế tài chính, tổ chức phi 
chính phủ, Quỹ tín thác tín 
dụng xanh để có nguồn vốn hỗ 
trợ cho các dự án xanh. 
- Nghiên cứu và triển khai 
các sản phẩm dịch vụ ngân 
hàng xanh, tín dụng xanh; 
có chính sách khuyến khích 
cho vay các dự án, phương án 
kinh doanh thân thiện với môi 
trường như ưu đãi lãi suất, 
thời hạn cho vay Do những 
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng 
xanh còn khá mới mẻ ở thị 
trường Việt Nam nên các ngân 
hàng bên cạnh việc đa dạng 
hóa sản phẩm dịch vụ, cần chú 
trọng hoạt động marketing 
những sản phẩm mới này. 
Điều này không những nhằm 
quảng bá sản phẩm mà còn 
góp phần nâng cao ý thức bảo 
vệ môi trường của người dân 
trong việc lựa chọn sản phẩm, 
hàng hóa, dịch vụ.
- Thực hiện nghiêm túc quy 
trình thẩm định. Theo đó, 
ngân hàng phải đánh giá 
tác động của dự án đến môi 
trường, xã hội, thẩm định yếu 
tố rủi ro về môi trường và an 
sinh xã hội của dự án trước 
khi cấp tín dụng, kiểm tra 
trong hồ sơ xin vay vốn phải 
có bản đánh giá tác động môi 
trường đã được phê duyệt; 
loại trừ hoặc hạn chế cấp tín 
dụng đối với các dự án có 
khả năng ảnh hưởng lớn và 
nghiêm trọng đến môi trường 
xã hội.
- Nâng cao trình độ thẩm định 
về rủi ro môi trường xã hội. 
Ngân hàng cần cử cán bộ tín 
dụng tham gia các khóa học 
liên quan đến đánh giá về rủi 
ro môi trường- xã hội để nâng 
cao trình độ, năng lực thẩm 
định của họ, giúp ngân hàng 
đánh giá đúng về rủi ro môi 
trường- xã hội của các dự án 
và có quyết định cấp tín dụng 
phù hợp đối với các dự án đó.
- Thực hiện việc giảm thiểu 
tác động đến môi trường bằng 
cách kiểm soát chặt chẽ chi 
phí vận hành và sử dụng hiệu 
quả nguồn lực sẵn có với các 
biện pháp như sử dụng bóng 
đèn tiết kiệm điện, các thiết 
bị văn phòng có dán nhãn tiết 
kiệm năng lượng hoặc nhãn 
không khí thải các bon, vòi 
tiết kiệm nước, sử dụng các 
công cụ giao tiếp hiện đại để 
hạn chế di chuyển 
- Nâng cao nhận thức cho cán 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
bộ, nhân viên về hoạt động 
ngân hàng xanh- tín dụng 
xanh thông qua tổ chức đào 
tạo, tuyên truyền; nâng cao 
ý thức sử dụng hiệu quả, tiết 
kiệm năng lượng, các nguồn 
tài nguyên thiên nhiên và bảo 
vệ môi trường.
Như vậy, để phát triển ngân 
hàng xanh, bên cạnh những 
Tài liệu tham khảo
1. Bihari, Suresh Chandra, and Bhavna Pandey (2015), Green Banking in India, Journal of Economics and International 
Finance, 7, 1, 1-17.
2. Biswas, Debasish (2016), A Study of Conceptual Framework on Green Banking, Journal of Commerce and Management 
Thought, 7, 1, 39-53.
3. Biswas, Nigamananda (2011), Sustainable Green Banking Approach: The Need of the Hour, Business Spectrum, 1, 1, 32-38.
4. Đỗ Lê (2013), “Tài chính và Ngân hàng xanh- Ai cũng muốn, làm có dễ”, Thời báo ngân hàng. Truy cập ngày 5/6/2016. 
5. Lê Hà (2015), “Ngân hàng tính đường phát triển tín dụng xanh”, Vietnamnet. Truy cập ngày 5/6/2016. 
vn/kinh-doanh/242165/ngan-hang-tinh-duong-phat-trien-tin-dung-xanh.html.
6. Nguyễn Hữu Huân (2014), “Xây dựng ngân hàng xanh tại Việt Nam”, Phát triển và hội nhập, số 14, tr.4-9.
7. PanNature, ““Xanh hóa” ngành ngân hàng: Áp dụng chuẩn mực bắt buộc hay khuyến khích tham gia tự nguyện”. Truy cập 
ngày 5/6/2016. 
8. 
9. Raad Mozib Lalon (2015), Green banking: Going green, International Journal of Economics, Finance and Management 
Sciences, 3, 1, 34-42. 
10. Rahman, Md, Md Ali Ahsan, Md Hossain, and Meem Rafiul Hoq (2013), Green Banking Prospects in Bangladesh, Asian 
Business Review, 2, 2, 59-63.
11. Sudhalakshmi, K, and K Chinnadorai (2014), Green Banking Practices in Indian Banks, International Journal of 
Management and Commerce Innovations, 2, 1, 232-35.
12. Thành Long (2015), “Tín dụng ngân hàng hướng đến phát triển kinh tế xanh”, Đại Kỷ Nguyên. Truy cập ngày 5/6/2016. 
13. Vũ Thị Kim Oanh (2015), “Ngân hàng xanh, Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam”, Thị trường Tài chính tiền 
tệ, số 16, tr.21-24.
Thông tin tác giả
Nguyễn Thị Đoan Trang, Thạc sĩ
Đại học Ngân hàng Tp.HCM
Email: trangntd@buh.edu.vn
Summary
Developing green banking in Vietnam- social responsibility in environmental protection
Nowadays, economic development without environmental protection leads to climate change, depletion of natural 
resources, environmental pollution, and then seriously affects human life. Therefore, when developing economic, 
many countries pay much more attention to the sustainable development. “Green banking” development activities 
adopted by a wide range of economies are considered as important solutions to cope with climate change and 
ensure sustainable economic development for their social responsibility in environmental protection. However, 
the term “green banking” is a new initiative and not developed in Vietnam. As a result, based on the review 
of the previous studies and the experiences of some countries, as well as the status of the green banking 
activities of commercial banks in Vietnam, this paper aims to propose some solutions to develop green banking in 
Vietnam. The State Bank of Vietnam should regulate to support the development of green banking, and organize 
workshops, train specialists on green banking to provide guidance for commercial banks; and commercial banks 
are encouraged to develop green banking products, motivate green credit policies, and conduct staff training in 
raising the awareness of the issue.
Keywords: Environmental protection; green banking; green credit. 
Trang Thi Doan Nguyen, MEc
Banking University of Ho Chi Minh City
chính sách hỗ trợ của Chính 
phủ thì NHNN cần ban hành 
những quy định bắt buộc về 
quản lý rủi ro môi trường xã 
xem tiếp trang 43
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
Email: minhnd@hvnh.edu.vn
Summary
Barriers to Vietnamese enterprises in joining global textile and garment supply chain
Vietnam textile and garment industry is one of the most important sectors which have contributed significantly to 
the country’s economic growth and export value while playing a key role in creating employment. However, most 
international transactions in this sector are based on processing contracts in which materials are imported that 
will make it difficult for the industry to achieve sustainable growth. For years, Vietnamese textile and garment 
enterprises have struggled to answer the question about their positions among such a global competitive market 
with many well-established key players from America, China, Europe, etc. This study will focus on positioning 
Vietnamese textile and garment industry in the international market as well as point out their barriers in joining 
global textile and garment supply chain.
Keywords: textile, garment, value chain, Vietnamses enterprises, globalization. 
Minh Duong Ngo
Banking Academy
hội cũng như có những hướng 
dẫn, hỗ trợ đào tạo nhân lực 
và tuyên truyền về ngân hàng 
xanh. Nhưng quan trọng hơn 
hết là các NHTM phải chủ 
động đẩy mạnh các dịch vụ 
ngân hàng hiện đại, xây dựng 
chính sách tín dụng xanh, tìm 
các nguồn tài trợ để nghiên 
cứu và triển khai các sản 
phẩm dịch vụ ngân hàng xanh, 
thực hiện nghiêm túc việc 
thẩm định rủi ro môi trường- 
xã hội khi cấp tín dụng, đồng 
thời ngân hàng cũng phải nâng 
cao nhận thức cũng như trình 
độ của cán bộ, nhân viên về 
ngân hàng xanh.
Kinh nghiệm của Trung Quốc 
phải mất 5 năm mới xây dựng 
thành công chính sách tín 
dụng xanh. Do vậy, Việt Nam 
cũng không thể mong đợi việc 
phát triển ngân hàng xanh nói 
chung và tín dụng xanh nói 
riêng có thể thành công nhanh 
chóng mà cần có lộ trình và 
thời gian thực hiện. Với sự 
thống nhất từ chủ trương đến 
chính sách và sự phối hợp của 
các ban ngành và các ngân 
hàng, doanh nghiệp, ngân 
tiếp theo trang 24 hàng xanh sẽ sớm đạt được 
những kết quả khả quan, thể 
hiện trách nhiệm xã hội của 
ngành ngân hàng, góp phần 
vào sự phát triển bền vững của 
ngành và của đất nước. ■
accessibility to formal credit 
of rural households in Tra 
Vinh province as follows:
Local governments should 
develop forms of groups or 
associations in the community 
through local official 
associations such as farmers 
groups, women groups, and 
so on to support each other 
in terms of information, 
production techniques, women 
right protection... At the same 
time, participating in these 
social groups, households, 
especially female household 
heads would be easier to get 
loans thanks to the guarantee 
of these groups.
The government and local 
authorities should pay 
attention to the dissemination 
of production techniques 
(through extension activities) 
and the development of 
infrastructure for production, 
tiếp theo trang 7
development and replication of 
production models. Providing 
advanced training and support 
for additional occupations 
to help farmers improve 
production efficiency, increase 
incomes and repayment 
ability.
Credit institutions should 
focus on the ability of 
households to repay their loans 
through other sources such as 
income, the guarantee of social 
groups rather than just focus 
on the value of collateral, so 
that households can borrow 
more capital to better serve 
production needs.
Improve the level of education 
for households, especially 
children in households as 
these are the main sources of 
labor of the household in the 
future. Promote the upgrading, 
expansion and construction of 
new schools, the strengthening 
of supplementary education 
for many age groups, the 
exemption from tuition 
fees and the strengthening 
of contributions for the 
dissemination of education to 
farmers; rural farmer children. 
■

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_ngan_hang_xanh_o_viet_nam_trach_nhiem_xa_hoi_tron.pdf