Phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê qua du lịch

Tóm tắt

Bài viết đề cập đến hình thức diễn xướng nghệ thuật Dù kê của người Khmer Nam Bộ, qua đó thử

nêu lên một số suy nghĩ trong việc kết hợp loại hình diễn xướng này vào việc phục vụ du lịch, để có thể

giới thiệu ngày càng rộng hơn một nét văn hóa đặc sắc của người Khmer Nam Bộ.

Bài viết cũng thử nêu lên một cách thức thu hút khách du lịch của Thái Lan, thông qua hình thức

diễn xướng tạp kỷ của đoàn nghệ thuật Siam Niramit ở Thái, xem như là một cách gợi ý về việc tổ chức

biểu diễn Dù kê ở Tây Nam Bộ Việt Nam. Đó là kinh nghiệm rút ngắn nội dung vở diễn, là diễn tiết mục

Dù kê xen kẽ với các tiết mục khác, để tránh nhàm chán và có thể thu hút được khán giả trẻ

pdf 5 trang yennguyen 6460
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê qua du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê qua du lịch

Phát triển nghệ thuật sân khấu Dù kê qua du lịch
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014124 Soá 13, thaùng 3/2014 125
DẪN NHẬP
Với dân số 1.260.640 người2 trong toàn quốc, 
người Khmer đứng thứ hai sau người Kinh ở Đồng 
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Sống xen cư với 
các tộc người khác, nhưng người Khmer vẫn bảo 
tồn được đặc trưng văn hóa vốn có, được thể hiện 
trên nhiều lĩnh vực, trong phong tục tập quán của 
người Khmer nhiều năm qua, và đặc biệt là qua 
nghệ thuật sân khấu Dù kê.
Trong không gian mang tính khép kín của 
phum sróc, văn hóa được bảo tồn chặt chẽ, người 
Khmer có nhiều thuận lợi để phát triển một loại 
hình nghệ thuật sân khấu đại chúng như Dù kê, 
các quy chuẩn nghệ thuật sẵn có với những mô típ 
ổn định, cho phép việc thiết kế sân khấu, đạo cụ, 
phục trang có thể được thực hiện từ những bàn tay 
nghiệp dư.
Nghệ nhân Khmer thường sử dụng gam màu 
nguyên sắc và tương phản để tạo cảm giác mạnh. 
Điều có vẻ kỳ lạ là, một dân tộc hiền hòa và là 
1 Nghiên cứu sinh, Giảng viên Trường Đại học Văn Hóa 
TP.HCM.
2 Số liệu Tổng điều tra dân số năm 2009.
tín đồ Phật giáo bẩm sinh này lại yêu chuộng sự 
choáng lộn, dữ dội và ồn ào trong khuynh hướng 
nghệ thuật!
Bài viết đề cập đến hình thức diễn xướng nghệ 
thuật Dù kê của người Khmer, qua đó thử nêu lên 
một số suy nghĩ trong việc kết hợp loại hình diễn 
xướng này vào việc phục vụ du lịch, để có thể giới 
thiệu ngày càng rộng hơn một nét văn hóa đặc sắc 
của người Khmer Nam Bộ.
1. Sơ lược lịch sử hình thành nghệ thuật sân 
khấu Dù kê
Sân khấu ca kịch Dù kê là sản phẩm được sáng 
tạo ra đầu thế kỷ 20 (1921). Về nguồn gốc ra đời, 
có hai thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng chính 
ông Lý Kọn, một người Khmer ở xã An Ninh, huyện 
Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng là người sáng lập, đồng thời 
sau này đã tổ chức Dù kê lại thành nề nếp, mời thầy 
là Thạch Xua (Sour) tới dạy3. Thuyết khác, lại cho 
rằng Dù kê phát sinh đầu tiên là ở Trà Vinh, do ông 
Sơn Kưu (Kru Kưu) lập. Đồng tình với thuyết cho 
3 Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ. Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng. 
Tr.57-59.
PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ QUA DU LỊCH
Đặng Hoàng Lan1
Tóm tắt
Bài viết đề cập đến hình thức diễn xướng nghệ thuật Dù kê của người Khmer Nam Bộ, qua đó thử 
nêu lên một số suy nghĩ trong việc kết hợp loại hình diễn xướng này vào việc phục vụ du lịch, để có thể 
giới thiệu ngày càng rộng hơn một nét văn hóa đặc sắc của người Khmer Nam Bộ.
Bài viết cũng thử nêu lên một cách thức thu hút khách du lịch của Thái Lan, thông qua hình thức 
diễn xướng tạp kỷ của đoàn nghệ thuật Siam Niramit ở Thái, xem như là một cách gợi ý về việc tổ chức 
biểu diễn Dù kê ở Tây Nam Bộ Việt Nam. Đó là kinh nghiệm rút ngắn nội dung vở diễn, là diễn tiết mục 
Dù kê xen kẽ với các tiết mục khác, để tránh nhàm chán và có thể thu hút được khán giả trẻ.
Từ khóa: nghệ thuật diễn xướng Dù kê, Siam Niramit, du lịch
Abstract
This paper is to focus on Du ke art of Southern Khmer people, which is connected to tourism in 
order to widely introduce the orginal culture of the Southern Khmer.
The article also points out an effective way to attract tourists from Thailand by Thai’s Siam Niramit 
vaudeville performance, which is used as a reference for organizing Du ke performances in Southern 
Vietnam. The lesson learned includes the shortening of the play content by performing Du ke in an 
alternative way with other performing items in order to avoid boredom and attract young viewers.
Keywords: Du ke performing art, Siam Niramit, tourism
Dù kê hình thành ở Trà Vinh là ông Pic Tum Kro 
Val ở Campuchia và một số nhà nghiên cứu đều 
thừa nhận nơi khai sinh ra Dù kê là Trà Vinh4, với 
tên gọi đầu tiên là Lo Khôn trơn khlok (sân khấu 
giàn bầu).
 Buổi đầu, nhiều người gọi Dù kê là À Pê, Dù 
kê giàn bầu, Dù kê bột. Diễn viên toàn là nam. 
Nhạc cụ chỉ gồm trống một mặt và một đôi gõ 
bằng tre. “Năm 1930 mới bắt đầu có diễn viên nữ 
và các nhạc cụ phong phú hơn như: nhị, chà pây, 
khum, cồn lô; còn ánh sáng thì dùng dầu mù u và 
đu đủ tía, sau đó, khi có dầu lửa thì người ta thắp 
đèn măng-xông để sáng hơn”5. Do cơ sở vật chất 
thiếu thốn, trang thiết bị sơ sài, kịch hát Bassac 
phải diễn trên sân đất, dưới mái che bằng vật liệu 
như cành cây, giống như giàn bầu, nên được khán 
giả gọi tên là “kịch hát giàn bầu”6.
Ngay khi ra đời, Dù kê đã được công chúng 
khán giả Khmer Nam Bộ đón nhận. Đầu tiên, Dù 
kê, phát xuất từ Di Kê, tên gọi một loại hình sân 
khấu hát lâu đời tại đất nước Campuchia7. Dù, trong 
tiếng Khmer, có nghĩa là gom góp, sửa đổi, còn Kê 
là kế thừa sợi dây nối dài. Năm 1937, Dù kê đã có 
một bước tiến mới. Đoàn sang Campuchia diễn, 
gây thích thú cho khán giả. Người Campuchia gọi 
đó là “Lo khôn Bassac”, tức kịch múa của vùng 
sông Hậu. Lo khôn trong ngôn ngữ của người 
Khmer, bắt nguồn từ chữ Lô Khôn của người Java, 
có nghĩa là bước đi, chậm rãi, giản dị, cả ba hàm 
nghĩa đều đúng cho một loại hình nghệ thuật luôn 
biết tiếp nhận và dung hòa. 
Trước khi đạt đến một nền sân khấu hoàn chỉnh, 
người Khmer Nam Bộ đã có những hình thức diễn 
xướng dân gian sơ khai, như hát đối đáp, a day và 
rốp cây Còn đỉnh cao của nghệ thuật diễn xướng 
là Rô băm, cũng là hình thức sân khấu cổ nhất mà 
người Khmer của vùng ĐBSCL còn bảo lưu được. 
Nhưng do phát xuất từ cung đình, với những quy 
trình nghệ thuật chặt chẽ, ổn định, kịch bản quanh 
4 Sơn Lương. 2012. Sđd, tr. 59.
5 Quang Thạch. 1998. Nghệ thuật Dù kê. Trong sách: Về sân 
khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở VHTT tỉnh Sóc Trăng-
Phân viện Văn hóa nghệ thuật tại TP.HCM. tr. 146.
6 Ngô Khị. 1998. Nghệ thuật sân khấu Dù kê. Trong sách: Về 
sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở VHTT tỉnh Sóc 
Trăng-Phân viện Văn hóa nghệ thuật tại TP.HCM.. tr. 31.
7 Ngô Khị. 1998. Sđd . tr. 32.
quẩn vẫn chỉ là những hình tượng nhân vật anh 
hùng ca, nên Rô băm không có khả năng chuyển 
tải các đề tài đương đại và mất dần sức hấp dẫn. Dù 
kê đã ra đời như một sự kế thừa và phát triển nghệ 
thuật Rô băm, bằng cách thu nạp các yếu tố nghệ 
thuật Kinh – Hoa. Chính vì mang nghĩa tương tự 
như Cải lương của người Kinh, nên nhà thơ Khmer, 
trong bài Đưa em đi dự lễ Chơn chơ nam Thơ mây, 
đã viết: “Cô gái Kinh yêu trai Khmer, vậy mà chưa 
biết hát Dù kê, để anh giải thích em nghe nhé, cũng 
giống Cải lương vậy đó mà!”.
2. Nội dung loại hình sân khấu ca kịch Dù kê
Loại hình sân khấu ca kịch Dù kê của đồng 
bào Khmer có cốt truyện được xây dựng trên nền 
nhạc ca hát, đối thoại và các hình thái diễn xuất 
dân gian. Tương tự như Rô băm, tuồng tích biểu 
diễn của Dù kê cũng được rút ra từ các trường ca 
của Ấn Độ (Ramayana và Mahabharata), những 
truyền thuyết, huyền thoại dân tộc như “Linhthôn”, 
“Mapthiđongkeo”, “Sackinhni”..., đồng thời còn 
sử dụng cả những tuồng tích, điển tích của các 
dân tộc khác như “Thạch Sanh chém Chằn”, “Tấm 
Cám” (của người Kinh); “Phàn Lê Huê – Tiết Đinh 
San”, “Tam Tạng thỉnh kinh”, “Trụ Vương mê Đắc 
Kỷ” (của người Hoa)...
Đề tài và nội dung kịch bản của sân khấu Dù 
kê phong phú và mang tính giáo dục cao. “Ngoài 
đề tài Phật giáo, Bà La môn giáo, đề tài dân gian xã 
hội ngày càng được dung nạp. Vấn đề xã hội, đời 
sống dân dã như: giàu nghèo, tình vợ chồng, mẹ 
ghẻ con chồngđã được đặt ra và giải quyết, khác 
với trước đây chuyên thể hiện những con người, 
sự kiện, sự việc của thế giới thần linh, do trí tưởng 
tượng tạo nên”8.
Các tích truyện diễn ra trên sân khấu Dù kê, về 
cơ bản luôn đề cao đạo lý của con người. Vở diễn 
nào cũng mang tinh thần hướng thiện, ca ngợi cái 
tốt, cái đẹp, lên án cái ác, cái xấu. Cốt truyện của 
các vở diễn thường được rút ra từ thần thoại, cổ 
tích. Các vở diễn truyền thống bao giờ cũng kết 
thúc có hậu. Người không biết tiếng Khmer, khi 
8 Võ Hồng Quang. 1998. Sân khấu cổ truyền Khmer Nam 
Bộ, một giá trị văn hóa dân tộc độc đáo cần có những sáng 
tạo cho thời đại mới. Trong sách: Về sân khấu truyền thống 
Khmer Nam Bộ. Sở VHTT tỉnh Sóc Trăng-Phân viện Văn hóa 
nghệ thuật tại TP.HCM. tr.7.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014124 Soá 13, thaùng 3/2014 125
DẪN NHẬP
Với dân số 1.260.640 người2 trong toàn quốc, 
người Khmer đứng thứ hai sau người Kinh ở Đồng 
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Sống xen cư với 
các tộc người khác, nhưng người Khmer vẫn bảo 
tồn được đặc trưng văn hóa vốn có, được thể hiện 
trên nhiều lĩnh vực, trong phong tục tập quán của 
người Khmer nhiều năm qua, và đặc biệt là qua 
nghệ thuật sân khấu Dù kê.
Trong không gian mang tính khép kín của 
phum sróc, văn hóa được bảo tồn chặt chẽ, người 
Khmer có nhiều thuận lợi để phát triển một loại 
hình nghệ thuật sân khấu đại chúng như Dù kê, 
các quy chuẩn nghệ thuật sẵn có với những mô típ 
ổn định, cho phép việc thiết kế sân khấu, đạo cụ, 
phục trang có thể được thực hiện từ những bàn tay 
nghiệp dư.
Nghệ nhân Khmer thường sử dụng gam màu 
nguyên sắc và tương phản để tạo cảm giác mạnh. 
Điều có vẻ kỳ lạ là, một dân tộc hiền hòa và là 
1 Nghiên cứu sinh, Giảng viên Trường Đại học Văn Hóa 
TP.HCM.
2 Số liệu Tổng điều tra dân số năm 2009.
tín đồ Phật giáo bẩm sinh này lại yêu chuộng sự 
choáng lộn, dữ dội và ồn ào trong khuynh hướng 
nghệ thuật!
Bài viết đề cập đến hình thức diễn xướng nghệ 
thuật Dù kê của người Khmer, qua đó thử nêu lên 
một số suy nghĩ trong việc kết hợp loại hình diễn 
xướng này vào việc phục vụ du lịch, để có thể giới 
thiệu ngày càng rộng hơn một nét văn hóa đặc sắc 
của người Khmer Nam Bộ.
1. Sơ lược lịch sử hình thành nghệ thuật sân 
khấu Dù kê
Sân khấu ca kịch Dù kê là sản phẩm được sáng 
tạo ra đầu thế kỷ 20 (1921). Về nguồn gốc ra đời, 
có hai thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng chính 
ông Lý Kọn, một người Khmer ở xã An Ninh, huyện 
Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng là người sáng lập, đồng thời 
sau này đã tổ chức Dù kê lại thành nề nếp, mời thầy 
là Thạch Xua (Sour) tới dạy3. Thuyết khác, lại cho 
rằng Dù kê phát sinh đầu tiên là ở Trà Vinh, do ông 
Sơn Kưu (Kru Kưu) lập. Đồng tình với thuyết cho 
3 Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê 
Khmer Nam Bộ. Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng. 
Tr.57-59.
PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ QUA DU LỊCH
Đặng Hoàng Lan1
Tóm tắt
Bài viết đề cập đến hình thức diễn xướng nghệ thuật Dù kê của người Khmer Nam Bộ, qua đó thử 
nêu lên một số suy nghĩ trong việc kết hợp loại hình diễn xướng này vào việc phục vụ du lịch, để có thể 
giới thiệu ngày càng rộng hơn một nét văn hóa đặc sắc của người Khmer Nam Bộ.
Bài viết cũng thử nêu lên một cách thức thu hút khách du lịch của Thái Lan, thông qua hình thức 
diễn xướng tạp kỷ của đoàn nghệ thuật Siam Niramit ở Thái, xem như là một cách gợi ý về việc tổ chức 
biểu diễn Dù kê ở Tây Nam Bộ Việt Nam. Đó là kinh nghiệm rút ngắn nội dung vở diễn, là diễn tiết mục 
Dù kê xen kẽ với các tiết mục khác, để tránh nhàm chán và có thể thu hút được khán giả trẻ.
Từ khóa: nghệ thuật diễn xướng Dù kê, Siam Niramit, du lịch
Abstract
This paper is to focus on Du ke art of Southern Khmer people, which is connected to tourism in 
order to widely introduce the orginal culture of the Southern Khmer.
The article also points out an effective way to attract tourists from Thailand by Thai’s Siam Niramit 
vaudeville performance, which is used as a reference for organizing Du ke performances in Southern 
Vietnam. The lesson learned includes the shortening of the play content by performing Du ke in an 
alternative way with other performing items in order to avoid boredom and attract young viewers.
Keywords: Du ke performing art, Siam Niramit, tourism
Dù kê hình thành ở Trà Vinh là ông Pic Tum Kro 
Val ở Campuchia và một số nhà nghiên cứu đều 
thừa nhận nơi khai sinh ra Dù kê là Trà Vinh4, với 
tên gọi đầu tiên là Lo Khôn trơn khlok (sân khấu 
giàn bầu).
 Buổi đầu, nhiều người gọi Dù kê là À Pê, Dù 
kê giàn bầu, Dù kê bột. Diễn viên toàn là nam. 
Nhạc cụ chỉ gồm trống một mặt và một đôi gõ 
bằng tre. “Năm 1930 mới bắt đầu có diễn viên nữ 
và các nhạc cụ phong phú hơn như: nhị, chà pây, 
khum, cồn lô; còn ánh sáng thì dùng dầu mù u và 
đu đủ tía, sau đó, khi có dầu lửa thì người ta thắp 
đèn măng-xông để sáng hơn”5. Do cơ sở vật chất 
thiếu thốn, trang thiết bị sơ sài, kịch hát Bassac 
phải diễn trên sân đất, dưới mái che bằng vật liệu 
như cành cây, giống như giàn bầu, nên được khán 
giả gọi tên là “kịch hát giàn bầu”6.
Ngay khi ra đời, Dù kê đã được công chúng 
khán giả Khmer Nam Bộ đón nhận. Đầu tiên, Dù 
kê, phát xuất từ Di Kê, tên gọi một loại hình sân 
khấu hát lâu đời tại đất nước Campuchia7. Dù, trong 
tiếng Khmer, có nghĩa là gom góp, sửa đổi, còn Kê 
là kế thừa sợi dây nối dài. Năm 1937, Dù kê đã có 
một bước tiến mới. Đoàn sang Campuchia diễn, 
gây thích thú cho khán giả. Người Campuchia gọi 
đó là “Lo khôn Bassac”, tức kịch múa của vùng 
sông Hậu. Lo khôn trong ngôn ngữ của người 
Khmer, bắt nguồn từ chữ Lô Khôn của người Java, 
có nghĩa là bước đi, chậm rãi, giản dị, cả ba hàm 
nghĩa đều đúng cho một loại hình nghệ thuật luôn 
biết tiếp nhận và dung hòa. 
Trước khi đạt đến một nền sân khấu hoàn chỉnh, 
người Khmer Nam Bộ đã có những hình thức diễn 
xướng dân gian sơ khai, như hát đối đáp, a day và 
rốp cây Còn đỉnh cao của nghệ thuật diễn xướng 
là Rô băm, cũng là hình thức sân khấu cổ nhất mà 
người Khmer của vùng ĐBSCL còn bảo lưu được. 
Nhưng do phát xuất từ cung đình, với những quy 
trình nghệ thuật chặt chẽ, ổn định, kịch bản quanh 
4 Sơn Lương. 2012. Sđd, tr. 59.
5 Quang Thạch. 1998. Nghệ thuật Dù kê. Trong sách: Về sân 
khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở VHTT tỉnh Sóc Trăng-
Phân viện Văn hóa nghệ thuật tại TP.HCM. tr. 146.
6 Ngô Khị. 1998. Nghệ thuật sân khấu Dù kê. Trong sách: Về 
sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. Sở VHTT tỉnh Sóc 
Trăng-Phân viện Văn hóa nghệ thuật tại TP.HCM.. tr. 31.
7 Ngô Khị. 1998. Sđd . tr. 32.
quẩn vẫn chỉ là những hình tượng nhân vật anh 
hùng ca, nên Rô băm không có khả năng chuyển 
tải các đề tài đương đại và mất dần sức hấp dẫn. Dù 
kê đã ra đời như một sự kế thừa và phát triển nghệ 
thuật Rô băm, bằng cách thu nạp các yếu tố nghệ 
thuật Kinh – Hoa. Chính vì mang nghĩa tương tự 
như Cải lương của người Kinh, nên nhà thơ Khmer, 
trong bài Đưa em đi dự lễ Chơn chơ nam Thơ mây, 
đã viết: “Cô gái Kinh yêu trai Khmer, vậy mà chưa 
biết hát Dù kê, để anh giải thích em nghe nhé, cũng 
giống Cải lương vậy đó mà!”.
2. Nội dung loại hình sân khấu ca kịch Dù kê
Loại hình sân khấu ca kịch Dù kê của đồng 
bào Khmer có cốt truyện được xây dựng trên nền 
nhạc ca hát, đối thoại và các hình thái diễn xuất 
dân gian. Tương tự như Rô băm, tuồng tích biểu 
diễn của Dù kê cũng được rút ra từ các trường ca 
của Ấn Độ (Ramayana và Mahabharata), những 
truyền thuyết, huyền thoại dân tộc như “Linhthôn”, 
“Mapthiđongkeo”, “Sackinhni”..., đồng thời còn 
sử dụng cả những tuồng tích, điển tích của các 
dân tộc  ... uan trọng nhất là nguồn diễn viên, đôi 
khi được huy động từ một phum sróc nào đó, và 
thế là trong vài đêm, có cô thôn nữ được sống đời 
Hoàng hậu giữa cung vàng điện ngọc; có chàng 
xe lôi, thành hoàng tử nhiều quyền phép, sẵn sàng 
vượt hiểm nguy để đón nhận sự trầm trồ, thán phục 
từ khán giả. 
3. Lễ hội và sân khấu Dù kê
Lễ hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống 
của người Khmer. Mỗi năm, họ tổ chức khoảng 
22 cuộc lễ Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, chưa 
kể số lễ tết theo phong tục tập quán người Kinh, 
người Hoa. Trước hết, đây là dịp để người Khmer 
làm phước, như cách gọi Pôn của người Khmer, 
đám Phước sau là cơ hội thả sức múa hát và bao 
giờ cũng có Dù kê. Chính nhu cầu giải trí trong 
ngày hội lễ, đã tạo ra vai hề trong Dù kê, một loại 
nhân vật, ngoài việc gây cười, còn có nhiệm vụ 
dẫn trò và bình luận. Ngoài những lễ hội tổ chức 
định kỳ hàng năm, như lễ mừng năm mới, lễ cúng 
trăng, lễ cúng ông bà, Phật Đản, nhập hạ, xuất 
hạ, lễ đắp núi cát, dâng y, lễ đặt cơm vắt, còn có 
những lễ hội tổ chức vài năm một lần. Trước kia, 
có những lễ hội kéo dài đến nửa tháng, như lễ đặt 
cơm vắt. Hệ thống lễ hội dày đặc này đã lưu giữ 
một cách vững chắc bản sắc văn hóa Khmer, vì lời 
nhắc nhở truyền đời luôn được gởi trong những âm 
sắc rực rỡ, trong những nghi thức cổ truyền trang 
trọng và trong những vở Dù kê, mà quá khứ dân 
tộc luôn ẩn hiện sau những tuồng tích gợi ca nhân 
nghĩa và niềm xác tín vào cái thiện.
Là dân tộc duy nhất trong các dân tộc thiểu số 
ở Việt Nam có nghệ thuật sân khấu riêng, người 
Khmer ở ĐBSCL đã chuyển đổi và sáng tạo Dù kê 
như một cách hòa nhập, đáp ứng nhu cầu thưởng 
thức văn hóa trong quá trình cộng cư với người 
Kinh, người Hoa. Cải lương và Dù kê là “cặp song 
sinh nghệ thuật độc đáo” của vùng ĐBSCL, một 
bằng chứng cho thấy bản lĩnh nghệ thuật còn nằm 
ở khả năng dung nạp, vì lợi ích của đại chúng và 
dân tộc.
Bàn về sân khấu Dù kê, Thứ trưởng Bộ Văn 
hóa Thông tin đã nhấn mạnh: “Thời đại chúng ta 
là thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, 
làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và 
văn minh. Con người Khmer mà sân khấu Dù kê 
sáng tạo và xây dựng phải là con người của thời đại, 
mà những lý tưởng cao đẹp nhất đang được biến 
thành hiện thực, chứ không còn là tưởng tượng”9.
Loại hình nghệ thuật này thường được sử 
dụng trong các buổi lễ như lễ dâng bông, tết Chol 
Chnam Thmay, các đoàn Dù kê đều tới hát làm 
phước ở chùa, hay tại địa điểm cử hành lễ, như lễ 
đua ghe ngo, để phục vụ khán giả suốt đêm tại đó. 
Những đêm diễn Dù kê luôn thu hút đông khán 
giả, có cả người Hoa và người Kinh cùng xem. 
Dù kê đã góp phần làm phong phú thêm cho nghệ 
thuật sân khấu Việt Nam.
Nghệ thuật dân gian Khmer là hành trình của 
những đường cong và một trong những nhan sắc 
uyển chuyển linh động ấy chính là sân khấu Dù kê.
4. Quảng bá Sân khấu Dù kê kết hợp với du lịch
Là ngành công nghiệp không khói, thời gian 
qua du lịch Việt Nam đã có biến đổi nhiều mặt, từ 
việc mở rộng địa bàn, nâng cao trình độ hướng dẫn 
9 Võ Hồng Quang. Sđd, tr.11.
viên, đến việc đa dạng hoá nhiều tuyến, gắn kết du 
lịch với môi trường sinh thái Tuy nhiên, để thực 
sự làm cho du lịch Việt Nam mang sức hấp dẫn và 
thu hút du khách, đặc biệt là khách nước ngoài, 
còn cần tính đến việc gắn kết du lịch với việc bảo 
tồn bản sắc văn hoá dân tộc, sao cho du lịch Việt 
Nam mang tính đặc thù, từ thế mạnh của các đặc 
trưng tộc người và trên cơ sở tìm hiểu, nghiên 
cứu những đặc trưng này mà ứng dụng, khai thác 
các thế mạnh đó vào du lịch. Đó chính là kết quả 
của việc ứng dụng nghiên cứu Nhân học vào thực 
tiễn10. Vì vậy, khai thác thế mạnh của nhiều loại 
hình nghệ thuật diễn xướng cũng là việc làm cần 
thiết trong phục vụ du lịch. 
Hiện nay, tại hai tỉnh có đông người Khmer 
cư trú là Sóc Trăng và Trà Vinh, đã có hai đoàn 
nghệ thuật: Đoàn nghệ thuật Ánh Bình Minh của 
Trà Vinh và Đoàn nghệ thuật Sóc Trăng. Các tỉnh 
cũng đều có gánh hát Dù kê. Như vậy, trên cơ sở 
các đoàn đã có, việc kết hợp với ngành du lịch như 
thế nào để một mặt, văn hóa Khmer có điều kiện 
phổ biến rộng rãi hơn, mặt khác từ nguồn kinh 
phí thu được sẽ có điều kiện để tiếp tục bổ sung, 
đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống nghệ 
nhân, tăng cường kịch bản với nội dung ngày càng 
cung cấp nhiều đề tài thể hiện cuộc sống đương 
đại. Trên lĩnh vực này, cần thiết tham khảo kinh 
nghiệm phát triển du lịch kết hợp với diễn xướng 
của Thái Lan và Campuchia. 
Ở Thái, nét hấp dẫn nhất của Bangkok đối với 
du khách trên toàn thế giới lại chính là ở vẻ đẹp 
truyền thống, những di sản văn hóa và chiều dài 
lịch sử lâu đời. Đó là lí do vì sao, bất cứ du khách 
nào khi đến với Bangkok – Thái Lan đều muốn nán 
lại và đón xem Show diễn nghệ thuật truyền thống với 
tên gọi là SIAM NIRAMIT có nghĩa là “Giấc mơ 
của người Siam” (tên gọi của người Thái trước kia). 
Đêm diễn được diễn ra mỗi ngày trong tuần tại 
nhà hát Siam Niramit với sức chứa hơn 2.000 chỗ 
ngồi. Nhà hát Siam Niramit là khu biểu diễn nghệ 
thuật và văn hóa truyền thống nổi tiếng của Thái 
10 Trần Hồng Liên. 2006. Du lịch và việc bảo tồn bản sắc 
văn hóa dân tộc. Tham luận tại Hội thảo khoa học “Nghiên 
cứu Nhân học ứng dụng từ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” do 
Trung tâm Nhân học ứng dụng - Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
Lan ở trung tâm Bangkok. Mỗi show diễn tại sân 
khấu Siam Niramit kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. 
Nội dung vở diễn được chia làm ba phần, với sự 
tham gia của hơn 150 diễn viên (sử dụng tới 500 bộ 
trang phục). Show diễn là một bức tranh phác họa 
chân thật về đời sống gắn liền với nền văn minh 
lúa nước của người Thái và những di sản phong 
phú về phong tục truyền thống đã có bề dày lịch 
sử nhiều thế kỷ: về đức tin với Tôn giáo, việc giao 
thương buôn bán giữa người Thái với người Trung 
Hoa, đời sống của những người nông dân, văn hóa 
lễ hội vui tươi, 
Áp dụng theo mô hình diễn xướng của đoàn 
nghệ thuật Siam Niramit chính là xen kẽ tiết mục 
Dù kê vào một số loại hình nghệ thuật khác như 
ca nhạc, voi biểu diễn, múa dân gian, Như vậy, 
đoạn trích của một vở diễn Dù kê là cần lựa chọn 
đoạn hay nhất, có tính giáo dục, hướng thiện để 
trình bày, không diễn hết vỡ tuồng. Nhìn tổng cả 
chương trình biểu diễn hai giờ, đoạn Dù kê chỉ 
chiếm 30 phút. Điều này sẽ tránh được cho khán 
giả trẻ sự nhàm chán, mà vẫn áp dụng nâng cao 
tính giáo dục trong nghệ thuật diễn xướng Dù kê. 
Đồng thời, với cách làm trên mới có thể thu hút 
nhiều thành phần khán giả khác nhau, trong đó có 
giới trẻ. Làm được điều này, Dù kê mới có khả 
năng không bị mai một trong lòng xã hội hiện đại.
Ngoài ra, còn có các đoàn hát chuyên nghiệp, 
diễn xuất phục vụ khách du lịch mỗi ngày có đến 
sáu buổi diễn, mỗi buổi không quá một giờ, qua 
tính chất hoạt động biểu diễn là sân khấu mở, rất 
phù hợp với loại hình diễn xướng Dù kê. Việc 
đưa Dù kê đi lưu diễn có thể không cần thiết. Cần 
đặt Dù kê ngay trong không gian mở của nó, với 
những phum sróc của người Khmer, với những 
con người Khmer yêu lao động, sống có ích cho xã 
hội. Điều này sẽ tạo ra một Tour du lịch tâm linh, 
từ việc tham quan các ngôi chùa Khmer cổ kính, 
đến việc giới thiệu những món ăn truyền thống, 
kết hợp xem biểu diễn nghệ thuật sân khấu Dù kê, 
Rô băm. 
Để có thể thực hiện tốt việc kết hợp trên, khó 
khăn lớn trong đẩy mạnh họat động Dù kê chính là 
nguồn nhân lực trẻ và kịch bản. Học biểu diễn Dù 
kê không dễ dàng, vì người thể hiện cần có năng 
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014128 Soá 13, thaùng 3/2014 129
khiếu cả về ca, múa, cảm thụ văn học, cảm thụ âm 
nhạc đến diễn xuất. Vì vậy, người theo nghề phải 
có niềm đam mê mãnh liệt với sân khấu truyền 
thống của dân tộc mình. 
Riêng về kịch bản, đội ngũ sáng tác cho sân 
khấu Dù kê không nhiều, đây lại là loại hình tổng 
hợp, nên người viết cần có trình độ am hiểu nghệ 
thuật biểu diễn. Thế nhưng, hiện công tác đào tạo 
nguồn nhân lực cho nghệ thuật Khmer chủ yếu dựa 
vào việc truyền nghề tại các đoàn, nên tiến độ đào 
tạo chậm và không bám sát được nhịp độ phát triển 
của cuộc sống đương đại. 
Mặc dù vậy, các đoàn vẫn nỗ lực vượt lên khả 
năng của chính mình để tồn tại và phát triển. Như 
đoàn Nghệ thuật Khmer tỉnh Bạc Liêu vừa nhận 
Quyết định chính thức chuyển từ đội lên đoàn. 
Mục tiêu lớn nhất của đơn vị này là có thêm người, 
thêm kịch bản, để đủ sức dựng các vở Dù kê mới 
trọn vẹn, chứ không diễn trích đoạn như trước đây. 
Chị Kim Thị Chung – Phó Trưởng đoàn tâm sự : 
“Ước mơ 15 năm mới được lên đoàn, anh chị em 
trong đoàn mừng dữ lắm. Đoàn hiện có ít diễn viên 
cũ, phần đông diễn viên còn trẻ, phải đào tạo thêm 
nhiều. Đoàn đang xin thêm quân số lên khoảng 50 
người, để đủ diễn vở. Còn kịch bản thì đặt hàng 
viết và phối hợp với đài truyền hình, đài trả tiền 
cho đoàn diễn, rồi đoàn có vở để phục vụ bà con”.
Tận vùng đất cực Nam tổ quốc, Đội Thông tin 
Khmer tỉnh Cà Mau cũng đang nỗ lực phấn đấu 
lên Đoàn Nghệ thuật Khmer, đáp ứng nhu cầu tinh 
thần, phục vụ nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản 
sắc văn hóa của đồng bào. Anh Nguyễn Văn Tri – 
Trưởng Đội Thông tin Khmer tỉnh Cà Mau rất tâm 
huyết với việc xây dựng và phát triển đoàn theo 
hướng đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật Dù 
kê của đông đảo bà con người Khmer.
5. Kết luận
Hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, Dù 
kê có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn 
hóa tinh thần của người Khmer Đồng bằng sông 
Cửu Long. Đầu tháng 3 năm 2013, Bộ Văn hóa 
- Thể thao và Du lịch đã thông qua danh sách 12 
di sản văn hóa phi vật thể, dự kiến lập hồ sơ trình 
UNESCO giai đoạn 2012 - 2016, trong đó có nghệ 
thuật sân khấu Dù kê của đồng bào Khmer Nam 
Bộ. Nếu được công nhận, đó sẽ là bệ phóng để 
những tiếng đàn, tiếng hát Dù kê thêm ngọt ngào, 
rộn rã; góp phần gìn giữ một loại hình nghệ thuật 
độc đáo của người dân Khmer vùng châu thổ Cửu 
Long và ngày càng được quảng bá rộng rãi hơn 
thông qua du lịch.
Tài liệu tham khảo
Dennison Nash. 1996. Anthropology of Tourism. Pergamon, University of Connecticut.
Lê Nam. 2006. Du lịch Việt Nam thời hội nhập. Tuổi Trẻ Cuối tuần số 42.
Nguyễn Hữu Thọ. 2006. Đi tìm thế mạnh của du lịch Việt Nam. Tuổi Trẻ Cuối tuần số 42.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ. Hội Văn học Nghệ thuật 
tỉnh Sóc Trăng.
Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng-Phân viện Văn hóa nghệ thuật tại TP.HCM. 1998. Về sân khấu 
truyền thống Khmer Nam Bộ.
Tổng cục Thống kê. 2009. Niên giám Thống kê.
Trần Hồng Liên. 2006. Du lịch và việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Tham luận tại Hội thảo 
khoa học “Nghiên cứu Nhân học ứng dụng từ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” do Trung tâm Nhân học 
ứng dụng - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
Viện Văn Hóa. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. Nxb Tổng hợp Hậu Giang. 
Võ Hồng Quang. 1998. Sân khấu cổ truyền Khmer Nam Bộ, một giá trị văn hóa dân tộc độc đáo 
cần có những sáng tạo cho thời đại mới. Trong sách: Về sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. 
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VỀ ÂM NHẠC
TRONG NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ KHMER NAM BỘ 
Sơn Ngọc Hoàng1
Tóm tắt
Âm nhạc trong sân khấu Dù kê rất phong phú, đa dạng và mang một đặc trưng riêng, không thể bị 
hòa lẫn với các loại hình nghệ thuật sân khấu khác. Từ nền tảng của nền âm nhạc dân gian truyền thống 
lâu đời, Dù kê đã tiếp nhận và tiếp biến từ nhiều nguồn âm nhạc khác nhau của các loại hình nghệ thuật 
khác của dân tộc Khmer như Dì kê, nhạc Mô hô ri (Campuchia) cùng các dân tộc khác trong khu vực 
Đông Nam Á như người Hoa, Lào, Thái Lan, Singapore, Mianmavà cả bài ca, bản nhạc của một số 
nước Châu Âu (chủ yếu là Pháp). Trên cơ sở đó, bằng tài năng sáng tạo phong phú của mình, các làn 
điệu âm nhạc đó (thường gọi chung là các bài ca bản nhạc Môhôri) đã được “Khmer hóa” một cách 
tuyệt vời và dung nạp vào sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ mang đậm đà âm hưởng, sắc thái Khmer Nam 
Bộ, đã làm giàu thêm kho tàng âm nhạc cho sân khấu Dù kê kể từ khi nó mới ra đời cho đến hôm nay. 
Bảo tồn và phát huy nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ chính là bảo tồn một di sản văn hóa phi 
vật thể quý giá của người Khmer Nam Bộ trong thời kỳ hội nhập của đất nước ta hiện nay.
Từ khóa: Dù kê – Những đặc trưng cơ bản về âm nhạc. 
Abstract
Music in Du ke Theatre is very rich, varied and distinctive that cannot be mixed with other kinds of 
theatrical arts. Since the long foundation of traditional folk music, Du ke has received and innovated from 
different musical sources of other art forms of the Khmer people such as Du ke, Mo ho ri (Cambodian) 
together with other people in Southeast Asia such as Chinese, Laos, Thailand, Singapore, Myanmar 
and songs, pieces of music of some European countries (mainly France). On that basis, those musical 
tunes (often referred to Mohori songs) were “Khmerized” greatly and received into Southern Du ke 
theatre with the bold tones of Southern Khmer nuance, enriching musical repertoire for Du ke Theatre 
since it was born. Preservation and promotion of Khmer theatre art is to preserve an intangible cultural 
heritage of Southern Khmer in the national integration period. 
Keywords: Du ke - basic characteristics of music. 
1 Nghiên cứu sinh, Phó Hiệu trưởng Trường TC Văn hóa 
Nghệ thuật Sóc Trăng
Khi nói đến quá trình phát triển nền văn hóa 
truyền thống của người Khmer Nam Bộ, phải nói 
đến một kho tàng nghệ thuật dân tộc rất phong 
phú, đa dạng và độc đáo đã được kế thừa và phát 
triển từ rất lâu đời. Đối với các dân tộc thiểu số, 
dân tộc nào cũng có một kho tàng nghệ thuật của 
riêng mình, nhưng không phải tất cả đều có được 
các loại hình nghệ thuật phát triển đồng đều như 
dân tộc Khmer Nam Bộ.
Hiện nay, người Khmer Nam Bộ đang kế thừa 
một kho tàng nghệ thuật truyền thống rất phong 
phú, đa dạng và độc đáo do tổ tiên để lại. Bản sắc 
văn hóa dân tộc của người Khmer Nam Bộ đã biểu 
hiện một cách rõ nét qua các loại hình nghệ thuật 
truyền thống như: Nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật 
múa, nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật sân khấu. 
Trong phạm vi giới hạn của bài viết này, chúng tôi 
1. Mở đầu
Khi nghiên cứu sự phát triển của lịch sử sân 
khấu thế giới, chúng ta thấy ở mỗi dân tộc, mỗi 
quốc gia, chỉ khi nào nền văn hóa của dân tộc, quốc 
gia phát triển mạnh tới những tầm cao nhất định 
thì hình thức sân khấu mới xuất hiện. Sân khấu 
đã xuất hiện ở Hy Lạp vào thế kỷ thứ IV trước 
CN, ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ I sau CN, ở Trung 
Quốc vào thế kỷ thứ IV sau CN. Sân khấu mặt nạ 
(Lakhôn Khôl) ở Campuchia xuất hiện trước thế 
kỷ thứ X. Ở Việt Nam, sân khấu Chèo và sân khấu 
Tuồng (miền Nam thường gọi là Hát bội) xuất hiện 
vào khoảng thế kỷ XVII; sân khấu Cải lương của 
người Kinh và sân khấu Dù kê của người Khmer 
Nam Bộ cùng xuất hiện từ những thập niên đầu thế 
kỷ XX tại khu vực Đồng bằng Nam Bộ.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nghe_thuat_san_khau_du_ke_qua_du_lich.pdf