Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Việt Nam khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát
Tóm tắt
Từ khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát, kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, sự phối hợp
đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là giải pháp vĩ mô quan trọng nhằm hạn chế
những khó khăn để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển trở lại. Mặc dù trong thời gian qua sự phối hợp
giữa hai chính sách đã có những dấu hiệu tích cực, tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ bất ổn đối với nền kinh
tế Việt Nam trong thời gian tới, như là lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nợ công đang đến ngưỡng cho
phép của Quốc Hội. Trên cơ sở các phân tích, bài viết đã gợi ý những khuyến nghị nhằm tăng cường sự
phối hợp động bộ hơn nữa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để tạo điều kiện cho nền kinh
tế Việt Nam tiếp tục phát triển vượt bậc, trở thành một nền kinh tế lớn trong khu vực.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Việt Nam khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017 17 Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Việt Nam khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát Coordination between the fiscal policy and monetary policy in Vietnam since the global financial crisis TS. Võ Đức Toàn, Trường Đại học Sài Gòn Vo Duc Toan, Ph.D., Saigon University Tóm tắt Từ khi khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát, kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là giải pháp vĩ mô quan trọng nhằm hạn chế những khó khăn để đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển trở lại. Mặc dù trong thời gian qua sự phối hợp giữa hai chính sách đã có những dấu hiệu tích cực, tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ bất ổn đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, như là lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nợ công đang đến ngưỡng cho phép của Quốc Hội. Trên cơ sở các phân tích, bài viết đã gợi ý những khuyến nghị nhằm tăng cường sự phối hợp động bộ hơn nữa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển vượt bậc, trở thành một nền kinh tế lớn trong khu vực. Từ khóa: phối hợp đồng bộ, chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ. Abstract Since the global financial crisis broke out and Vietnam's economy encountered many difficulties, the synchronized coordination between fiscal and monetary policies has been an important macro solution to limit difficulties and boost Vietnam's economy. Although the coordination between the two policies has shown positive signs, there are still risks for the Vietnamese economy in the future, such as the rebounding of rising inflation, the approaching of public debt to the threshold allowed by Congress. On the basis of the analysis, the paper suggests some recommendations in order to strengthen further coordination between fiscal and monetary policies to facilitate the economic development in Vietnam, becoming a major economy in the region. Keywords: synchronous coordination, fiscal policy, monetary policy 1. Đặt vấn đề Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai công cụ ổn định kinh tế vĩ mô quan trọng ở mọi quốc gia và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô tối ưu gồm tăng trưởng kinh tế và ổn định giá cả, hai chính sách này cần có sự phối hợp đồng bộ và bổ sung cho nhau. Việc phối hợp đồng bộ sẽ được điều chỉnh nhằm ứng phó linh hoạt PHỐI HỢP ĐỒNG B GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN T CỦA VI T NAM 18 hơn đối với thực trạng của nền kinh tế trong và ngoài nước. Hai văn bản Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Ngân sách Nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa thông qua việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008, dẫn đến những bất ổn kéo dài nhiều năm tiếp theo về kinh tế vĩ mô. Đến nay, có thể nói nền kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, đánh dấu một thời kỳ phát triển mới, có được như vậy không thể không nói đến đó là sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách về tiền tệ trong thời gian qua. 2. Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Chính sách tài khóa là hệ thống các quan điểm, chủ trương, biện pháp hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước. Trong đó chính sách thuế, phí và lệ phí đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nguồn thu cho ngân sách. Bên cạnh chính sách thuế, phí và lệ phí, việc huy động ngân sách thông qua các hình thức phát hành giấy tờ có giá trong và ngoài nước sẽ thu hút sự tham gia của công chúng và nhà đầu tư. Ngoài ra nhà nước cũng cần tận dụng những nguồn vốn ưu đãi từ các tổ chức và các nước trên thế giới để phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Một vấn đề quan trọng nữa là bố trí nguồn vốn huy động được hướng vào việc phát triển kinh tế - xã hội một cách có hiệu quả, tiết kiệm, đảm bảo an ninh quốc phòng. Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà Ngân hàng Trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định. Các mục tiêu đó là Phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm và kiểm soát lạm phát. Ở Việt Nam Chính sách tài khóa do Bộ tài chính thực hiện, Ngân hàng Nhà nước thực thi Chính sách tiền tệ. Trong một nền kinh tế hội nhập đầy biến động, việc thực thi chính sách tài khóa có thể tác động xấu đến mục tiêu chính sách tiền tệ và ngược lại, vì vậy việc phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hết sức cần thiết để đạt được mục tiêu chung của quốc gia trong mỗi thời kỳ phát triển. Sự đồng bộ của hai chính sách thể hiện ở chỗ khi thực thi chính sách này không làm giảm tính thực thi của chính sách kia mà hai chính sách có sự cộng hưởng với nhau, tạo ra một tổng lực để đạt mục tiêu chung một cách hiệu quả nhất. Nếu hai chính sách phối hợp không đồng bộ thì việc thực thi chính sách này sẽ làm giảm tính thực thi của chính sách kia, do đó không tạo ra được một tổng lực để đạt các mục tiêu chung và hệ quả của nó sẽ làm bất ổn kính tế - xã hội của một quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có mô hình Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ, Việt Nam là một quốc gia theo mô hình này. 3. Thực trạng phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ Việt Nam Từ khi khủng hoảng bùng phát năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng được các mục tiêu đồng bộ, đúng hướng và phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội từng thời kỳ: sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chặt chẽ nhằm kiềm chế lạm phát, ngăn chặn sự suy giảm phát triển kinh tế, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, cơ cấu hệ thống ngân hàng và đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. VÕ ĐỨC TOÀN 19 Biểu đồ 1: Chỉ tiêu lạm phát từ năm 2008 – 2016 và kế hoạch năm 2017 19.87% 6.04% 0.63% 1.84% 6.81% 5.00% 4.74% 18.13% 11.75% 6.52% 0% 5% 10% 15% 20% 25% 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Ngân hàng Nhà nước Giai đoạn từ 2008 đến 2011 nền kinh tế Việt Nam ở trong tình trạng lạm phát cao, do đó, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ của giai đoạn này là tập trung chủ yếu vào việc kiểm soát lạm phát. Chính sách tài khóa và tiền tệ trong giai đoạn này được thực hiện theo hướng thắt chặt thông qua các biện pháp như tăng lãi suất, quy định trần lãi suất huy động, tăng lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn; tăng dự trữ bắt buộc, theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008, đối với VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5%; hạn chế tăng trưởng tín dụng và cung tiền; cắt giảm đầu tư, tiết kiệm triệt để chi tiêu, chỉ tập trung đầu tư những công trình mang tính cấp thiết có tác động đến phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng. Từ năm 2012 đến nay lạm phát đã được kiềm chế, năm 2014 và 2015 lạm phát ở mức khá thấp, hay còn gọi là thiểu phát, điều này cho thấy những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đã có tác dụng tạo tiền đề cho một giai đoạn phát triển mới đối với nền kinh tế Việt Nam. Biểu đồ 2: Chỉ tiêu lãi suất từ năm 2008 – 2016 và kế hoạch năm 2017 0% 5% 10% 15% 20% Lãi suất cơ bản 8.50% 8.00% 9.00% 9.00% 9.00% 9.00% 9.00% 9.00% 9.00% 9.00% Lãi suất tái chiết khấu 7.50% 6.00% 7.00% 13.00% 7.00% 7.00% 4.50% 4.50% 4.50% 4.50% Lãi suất tái cấp vốn 9.50% 8.00% 9.00% 15.00% 9.00% 5.00% 6.50% 6.50% 6.50% 6.50% 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Ngân hàng Nhà nước PHỐI HỢP ĐỒNG B GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN T CỦA VI T NAM 20 Biểu đồ 2 cho thấy giai đoạn 2008 đến 2011 lãi suất cơ bản đã được điều chỉnh tăng từ 8,5% lên 9% và giữ nguyên cho đến nay, đây là lãi suất tham chiếu cho các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế; lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh tăng từ 7,5% năm 2008 lên 13% năm 2011 và giảm dần đến nay chỉ 4,5%; lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng từ 9,5% năm 2008 lên 15% năm 2011 và sau đó giảm, hiện nay là 6,5%. Như vậy, khi đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát, từ năm 2012 Ngân hàng Nhà nước đã nới lõng chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Biểu đồ 3: Chỉ tiêu tăng trưởng M2, tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động vốn từ năm 2008 – 2016 và kế hoạch năm 2017 0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% 40% 45% Tăng trưởng M2 20.31% 28.99% 33.30% 12.07% 18.46% 18.51% 17.69% 16.23% 18.38% 18.00% Tăng trưởng tín dụng 23.38% 39.57% 32.43% 14.70% 8.85% 12.51% 14.16% 17.29% 18.71% 18.00% Tăng trưởng huy động 22.84% 29.88% 36.24% 12.39% 17.87% 19.78% 15.15% 14.31% 18.38% 16.23% 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Ngân hàng Nhà nước Tăng trưởng M2, tăng trưởng tín dụng là một trong những nguyên nhân làm cho lạm phát cao giai đoạn 2008 đến 2011, để kiểm soát lạm phát từ năm 2011 Ngân hàng Nhà nước đã giảm mạnh tăng trưởng M2 từ mức 33,3% năm 2010 xuống còn 12,07%, tăng trưởng tín dụng từ mức 32,43% xuống còn 14,7%, hiện nay duy trùy trong giới hạn từ 17% đến 20%, có thể nói đây là mức phù hợp đối với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay, đảm bảo được vấn đề kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế bềnh vững. Biểu đồ 4: Chỉ tiêu tỷ lệ bội chi ngân sách và nợ công so với GDP từ năm 2008 – 2016 và kế hoạch năm 2017 6.90% 5.50% 4.40% 4.95% 3.50%5.36% 5.69% 5.30%6.60%4.58% 52.90% 51.70% 44.30% 50.10% 50.80% 54.20% 60.30% 64.00% 64.98% 65.00% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Bội chi NSNN so với GDP Nợ công so với GDP Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Ngân hàng Nhà nước VÕ ĐỨC TOÀN 21 Một vấn đề lo ngại hiện nay là tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP năm sau tăng hơn năm trước, năm 2008 là 44.3%, đến năm 2016 là 64.98% và dự kiến năm 2017 là 65%, đây là tỷ lệ trần nợ công cho phép của Quốc hội Việt Nam. Tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP năm 2008 là 4.58%, cao nhất là năm 2009 với tỷ lệ 6.9%, đến năm 2016 là 4.95% và dự kiến năm 2017 là 3.5% đây là tín hiệu tốt, đảm bảo tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP không vượt quá 5% theo yêu cầu của Quốc hội. Vấn đề trần nợ công và bội chi ngân sách đã được các chuyên gia kinh tế và Quốc hội bàn rất nhiều trong thời gian qua, tuy nhiên những con số chúng ta đưa ra cũng chỉ mang tính cảnh báo chứ chưa khẳng định được điều gì, theo quan điểm cá nhân tôi con số tỷ lệ nợ công và tỷ lệ bội chi ngân sách bao nhiêu không quan trọng mà vấn đề là hiệu quả trong việc sử dụng ngân sách, nếu chúng ta có công cụ hữu hiệu để đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách thì hoàn toàn có thể điều chỉnh tỷ lệ nợ công và tỷ lệ bội chi ngân sách một cách linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế ở Việt Nam, với thực trạng kinh tế hiện nay, việc tăng đầu tư vào nền kinh tế là cần thiết để kích thích tăng trưởng kinh tế sau thời gian khủng hoảng, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2017 là 6.7% và còn cao hơn nữa cho những năm sau thì việc cho phép tỷ lệ nợ công và tỷ lệ bội chi ngân sách kịch trần thậm chí nới trần là việc nên xem xét, đồng thời phối hợp đồng bộ với các chỉ tiêu của chính sách tiền tệ để làm động lực cho phát triển. Biểu đồ 5: Số lượng ngân hàng thương mại Việt Nam từ năm 2008 – 2016 và ước tính năm 2017 38 42 35 38 39 3535 42 42 42 30 32 34 36 38 40 42 44 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Hoạt động tái cấu trúc hệ thống ngân hàng diễn ra mạnh mẽ từ năm 2011 đến nay, nhằm lành mạnh hóa và tăng cường năng lực tài chính cho hệ thống ngân hàng, tránh đổ vỡ hệ thống ngân hàng từ đó góp phần phát triển kinh tế Việt Nam. Thương vụ hợp nhất đầu tiên là năm 2011, ba ngân hàng gồm Ngân hàng Sài Gòn, Việt Nam Tín Nghĩa và Ngân hàng Đệ Nhất hợp nhất và cùng thống nhất lấy tên Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), vốn điều lệ năm 2011 của SCB tăng lên gần 10,600 tỷ đồng, vươn lên đứng thứ 6 trong số các Ngân hàng TMCP ở thời điểm này. Thương vụ tiếp theo là Ngân hàng Nhà Hà Nội – Habubank (HBB) sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB), vào năm 2012. Cuối năm 2013 thương vụ sáp nhập Ngân hàng Đại Á (DaiABank - DAB) vào PHỐI HỢP ĐỒNG B GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN T CỦA VI T NAM 22 Ngân hàng Phát triển Tp.HCM (HDBank) đã được chính thức công bố, sau sáp nhập cũng nâng vị trí Ngân hàng từ 18 lên 12 từ cuối năm 2013 với vốn điều lệ 8,100 tỷ đồng. Các thương vụ tiếp theo chủ yếu diễn ra trong năm 2015. Ngày 21/7/2015, Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định số 1391/QĐ-NHNN chấp thuận sáp nhập Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông (MDB) vào Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank). Quyết định này có hiệu lực từ ngày 12/8/2015, nâng vốn điều lệ của Ngân hàng lên 11,750 tỷ đồng, vượt qua Ngân hàng Quân Đội (MBB) và Ngân hàng Á Châu (ACB) lên đứng thứ 7. Cuối tháng 5/2015 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) chính thức nhận sáp nhập Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cữu Long và tăng vốn lên gần 31,500 tỷ đồng. Cuối tháng 10/2015 Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng hoàn tất nhận sáp nhập Ngân hàng TMCP Phương Nam (SouthernBank), tăng vốn lên hơn 16,400 tỷ đồng. Trong năm 2015 các ngân hàng: Ngân hàng Đại Dương (Oceanbank), Ngân hàng Xây Dựng (VNCB), Ngân hàng Dầu Khí Toàn Cầu (GPBank) cũng đã hoàn toàn thuộc về Nhà nước sau những thương vụ mua lại bắt buộc với giá 0 đồng và chuyển thành ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như vậy tính đến nay, có 35 ngân hàng thương mại, trong đó có 4 ngân hàng thương mại Nhà nước sở hữu 100% vốn và 31 Ngân hàng TMCP, theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước và Chính Phủ, từ 2017 tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để giảm số lượng ngân hàng xuống ở mức thấp nhất có thể nhằm tăng năng lực tài chính và đảm bảo an toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam tạo điều kiện cho phát triển kinh tế trong thời gian tới. Biểu đồ 6: Chỉ tiêu tăng trưởng GDP từ năm 2008 – 2016 và kế hoạch năm 2017 5.42%5.66% 6.68% 5.98% 5.25% 6.70% 6.21%6.24% 6.42% 5.40% 0% 1% 2% 3% 4% 5% 6% 7% 8% 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Ngân hàng Nhà nước Sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong thời gian qua đã kiềm chế được lạm phát, lạm phát đã nằm trong ngưỡng an toàn (lạm phát phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP). Tốc độ tăng GDP đã tăng từ mức 4.66% trong năm 2008 lên cao nhất là 6.68% năm 2015 và dự kiến năm 2017 là 6.7%, có thể nói đó là nhờ sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Một vấn đề không kém quan trong là VÕ ĐỨC TOÀN 23 sự hỗ trợ tháo gỡ khó khăn của Chính Phủ đối doanh ngiệp, người lao động, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn từ 2008 đến nay, đã thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh và tăng tổng cầu trong nền kinh tế. Trong đó đáng chú ý là chính sách miễn giảm, hoãn thuế thu nhập doanh nghiệp từ năm 2008 đến 2012, thuế Thu nhập doanh nghiệp cũng đã giảm mức thuế suất phổ thông từ mức 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014 và theo mức 20% từ ngày 01/01/2016, áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 01/7/2013 đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Đối với người lao động, thuế Thu nhập cá nhân cũng đã được nâng mức khởi điểm chịu thuế cho bản thân từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng, nâng mức khấu trừ gia cảnh cho người phụ thuộc từ mức 1.6 triệu đồng/tháng lên 3.6 triệu đồng/tháng. 4. Khuyến nghị Thứ nhất, trong từng thời kỳ phát triển kinh tế cần xác định cụ thể mục tiêu kinh tế vĩ mô ưu tiên. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô cần ưu tiên trong thời gian tới là kiềm chế lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP từ 1% đến 2%; đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước; kiểm soát nợ công; giữ ổn định lãi suất thị trường (lãi suất huy động không quá 7%/năm, lãi suất cho vay không quá 10%/năm) để giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển để đảm bảo đến năm 2020 Việt Nam có ít nhất 1.000.000 doanh nghiệp, trong đó chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Trên cơ sở các mục tiêu đó Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và chặt chẽ hơn. Thứ hai, kiểm soát thu, chi ngân sách kết hợp với chính sách tín dụng nhà nước để đảm bảo tỷ lệ nợ công so với GDP không vượt quá 65% và tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP không vượt quá 5%. Thu, chi ngân sách cần có tính kỹ luật cao nhưng phải đảm bảo tính linh hoạt và chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách, chính sách tín dụng nhà nước cần tính toán kỹ phải đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả. Thứ ba, cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính để giảm bớt chi phí cho xã hội, đặc biệt là các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh của người dân và doanh nghiệp; cần xây dựng các kênh cung cấp thông tin kinh tế - tài chính minh bạch, chính xác và nhanh; tăng cường tiếp xúc của lãnh đạo các cơ quan chức năng với doanh nghiệp và dân doanh để có sự hỗ trợ kịp thời khi cần thiết. Thứ tư, cần ổn định và minh bạch các chính sách, chính sách sau phải tạo điều kiện thuận lợi hơn chính sách trước, để đảm bảo sự yên tâm đầu tư sản suất kinh doanh của doanh nghiệp và dân doanh. Công tác tuyên truyền pháp luật, chính sách của Nhà nước cũng nên quan tâm hơn nữa, nhằm hạn chế tối đa sự vi phạm pháp luật của doanh nghiệp và dân doanh vì không nắm và hiểu được pháp luật và chính sách của Nhà nước. Năm là, trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu rộng, Chính Phủ cần tăng cường giám sát dòng vốn đi vào và đi ra để đảm bảo tính cân đối từ đó ổn định được môi trường kinh tế vĩ mô, tránh những biến động bất lợi đối với thị trường chứng khoán, tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế. Thứ sáu, tiếp tục cơ cấu hệ thống ngân hàng, giảm số lượng ngân hàng xuống mức thấp nhất có thể, tập trung công tác xử lý PHỐI HỢP ĐỒNG B GIỮA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN T CỦA VI T NAM 24 tài sản đảm bảo đề giảm nợ xấu đưa dòng vốn vào nền kinh tế phụ vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 5. Kết luận Qua những phân tích ở trên, có thể thấy rằng sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ từ năm 2008 đến nay đã đạt được những thành quả nhất định: (i) đã giúp nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và suy thoái kinh tế; (ii) đã kiểm soát được lạm phát đưa tỷ lệ lạm phát từ 19.87% năm 2008 xuống còn 4.74% năm 2016; (iii) tốc độ tăng trưởng tín dụng đã được kiểm soát trong giới hạn phù hợp; (iv) tỷ lệ nợ công và tỷ lệ bội chi ngân sách được kiểm soát trong giới hạn an toàn; (v) kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ bất ổn đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, như là lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nợ công đang đến ngưỡng cho phép của Quốc Hội. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có sự phối hợp động bộ hơn nữa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những phát triển vượt bậc trở thành một nền kinh tế lớn trong khu vực. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Viết Lợi (2016), “Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở việt nam giai đoạn 2011-2015 và giải pháp đến năm 2020”, Tạp chí Tài chính kỳ 1+2 tháng 1/2016. 2. Bộ tài chính, 3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, https://www.sbv.gov.vn/. 4. Tạp chí Tài chính, 5. Tổng cục Thống kê Việt Nam, 6. Viện chiến lược và Chính sách tài chính, Ngày nhận bài: 04/6/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017
File đính kèm:
- phoi_hop_dong_bo_giua_chinh_sach_tai_khoa_va_chinh_sach_tien.pdf