Tập trung thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá cấu trúc thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại VN thông qua đo lường mức độ tập trung. Sử dụng phương pháp đo lường mức độ tập trung từ những dữ liệu thứ cấp, kết quả chỉ ra mặc dù có sự gia tăng quy mô của một số ngân hàng

trong hệ thống nhưng cấu trúc thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại VN vẫn đáp

ứng các yêu cầu về mức độ cạnh tranh. Cụ thể, mức độ tập trung và tập trung nhóm

đo lường trên 03 phương diện là tổng tài sản, huy động vốn và cho vay lại có xu

hướng giảm trong giai đoạn 2008-2014. Vì vậy, những lo ngại về sự tập trung quy

mô trong quá trình tái cấu trúc sẽ gia tăng mức độ độc quyền hay độc quyền nhóm,

qua đó, ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh đến thời điểm này vẫn chưa xảy

ra. Tuy nhiên, thị trường sẽ có những thay đổi lớn trong trường hợp một hay một vài

ngân hàng thương mại trong nhóm lớn nhất sáp nhập với nhau hay việc hình thành

1 hay 2 ngân hàng có quy mô rất lớn. Đây là những lưu ý đối với các cơ quan quản

lý, giám sát hệ thống ngân hàng thương mại VN trong thời gian tới.

pdf 5 trang yennguyen 4300
Bạn đang xem tài liệu "Tập trung thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tập trung thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam

Tập trung thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
33
1. Đặt vấn đề
Ngành ngân hàng trên thế giới 
đã và đang có những biến đổi 
nhanh chóng trong những thập 
kỷ gần đây nhằm thích nghi với 
xu thế toàn cầu hoá, sự phát triển 
mạnh mẽ của công nghệ cũng như 
các biến cố kinh tế. Tại VN, sau 
27 năm chuyển đổi mô hình hoạt 
động từ hệ thống ngân hàng một 
cấp sang hệ thống ngân hàng hai 
cấp (Nghị định 053 HĐBT ngày 
26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng 
về tổ chức bộ máy ngân hàng nhà 
nước VN), hệ thống ngân hàng 
thương mại VN đã có những bước 
phát triển nhanh về quy mô, cơ cấu 
cũng như số lượng với hệ thống 
mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện 
cho VN chuyển đổi nhanh sang 
nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, 
trong những năm gần đây, hệ 
thống các ngân hàng thương mại 
VN đã bộc lộ những bất cập, yếu 
kém như vốn điều lệ và tính thanh 
khoản thấp, tỷ lệ nợ xấu tăng, trình 
độ quản trị yếu kém, nguồn nhân 
lực chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập 
quốc tế cần phải cấu trúc lại. Trong 
bối cảnh đó, ngày 01/03/2012 Thủ 
tướng Chính phủ đã phê duyệt đề 
án 254 về: “Cơ cấu lại hệ thống các 
tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-
2015”1 (sau đây gọi tắt là Đề án 
1Quyết định 254/QĐ-TTg của Thủ tướng 
Chính phủ: Phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ 
thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”
254). Đến nay, sau hai phần ba 
chặng đường thực hiện, Đề án 
cũng đã đem lại một số thành 
công nhất định. Tuy nhiên, hoạt 
động sáp nhập, hợp nhất và mua 
bán lại các ngân hàng thương 
mại đang dẫn đến những lo ngại 
về mức độ tập trung thị trường, 
qua đó, tác động không tốt đến 
môi trường cạnh tranh bởi một 
hay một nhóm ngân hàng lớn chi 
phối thị trường. Chính vì vậy, 
vấn đề đặt ra cần làm rõ là mức 
độ cạnh tranh trong cấu trúc thị 
trường ngân hàng VN sau quá 
trình tái cấu trúc? Có thể nhận 
thấy mặc dù có khá nhiều các 
công trình nghiên cứu trong và 
ngoài VN ở nhiều cấp độ khác 
Tập trung thị trường trong 
lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam
NGUyễN THẾ BíNH
Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
Nhận bài: 07/08/2015 - Duyệt đăng: 25/10/2015
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá cấu trúc thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại VN thông qua đo lường mức độ tập trung. Sử dụng phương pháp đo lường mức độ tập trung từ những dữ 
liệu thứ cấp, kết quả chỉ ra mặc dù có sự gia tăng quy mô của một số ngân hàng 
trong hệ thống nhưng cấu trúc thị trường trong lĩnh vực ngân hàng tại VN vẫn đáp 
ứng các yêu cầu về mức độ cạnh tranh. Cụ thể, mức độ tập trung và tập trung nhóm 
đo lường trên 03 phương diện là tổng tài sản, huy động vốn và cho vay lại có xu 
hướng giảm trong giai đoạn 2008-2014. Vì vậy, những lo ngại về sự tập trung quy 
mô trong quá trình tái cấu trúc sẽ gia tăng mức độ độc quyền hay độc quyền nhóm, 
qua đó, ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh đến thời điểm này vẫn chưa xảy 
ra. Tuy nhiên, thị trường sẽ có những thay đổi lớn trong trường hợp một hay một vài 
ngân hàng thương mại trong nhóm lớn nhất sáp nhập với nhau hay việc hình thành 
1 hay 2 ngân hàng có quy mô rất lớn. Đây là những lưu ý đối với các cơ quan quản 
lý, giám sát hệ thống ngân hàng thương mại VN trong thời gian tới. 
Từ khoá: Cấu trúc thị trường ngân hàng, tập trung thị trường.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016
Nghiên Cứu & Trao Đổi
34
nhau có liên quan đến phân tích 
cấu trúc thị trường trong lĩnh vực 
tài chính, ngân hàng; tuy nhiên, 
đánh giá cấu trúc cạnh tranh của 
thị trường thông qua đo lường 
mức độ tập trung tại VN thì vẫn 
chưa có nghiên cứu nào thực 
hiện. Với cách tiếp cận đó, bài 
viết sẽ đo lường mức độ tập trung 
của thị trường ngân hàng tại VN 
trong mối quan hệ với cấu trúc 
thị trường cạnh tranh. 
2. Phương pháp và dữ liệu 
nghiên cứu
Như đã đề cập trong phần giới 
thiệu, mục tiêu của nghiên cứu 
là đánh giá mức độ tập trung thị 
trường của hệ thống ngân hàng 
thương mại VN trong quá trình tái 
cấu trúc. Kết quả của mức độ tập 
trung sẽ dẫn đến làm thay đổi cấu 
trúc thị trường qua đó, tác động đến 
mức độ cạnh tranh trong thị trường 
ngân hàng. Mức độ tập trung được 
đo lường thông qua các chỉ số tập 
trung, các chỉ số tập trung đo lường 
được trong từng giai đoạn sẽ giải 
thích rõ mức độ cạnh tranh trong 
cấu trúc thị trường ngân hàng. Với 
cách tiếp cận đó, nghiên cứu sẽ sử 
dụng phương pháp phổ biến nhất 
trong đo lường mức độ tập trung 
dựa vào tỷ trọng và cấu trúc được 
phát triển bởi Marfiels (1971a) 
và Dickson (1981). Phương pháp 
này đo lường mức độ tập trung thị 
trường của các ngân hàng thông 
qua chỉ số CRk và Herfindahl-
Hirschman (HHI). Hai chỉ số này 
được sử dụng phổ biến nhất trong 
đo lượng mức độ tập trung thị 
trường trong lĩnh vực ngân hàng. 
Trên 20 quốc gia đã sử dụng hai chỉ 
số này để đo lường và xếp hạng chỉ 
số cạnh tranh trong lĩnh vực ngân 
hàng và nhìn chung, khá thống nhất 
2. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu 
xác định rằng, sử dụng 02 chỉ số 
này trong đo lường mức độ tập 
trung thị trường trong lĩnh vực 
ngân hàng tại VN là phù hợp bởi 
tính phổ biến của nó.
Chỉ số tập trung k 
Chỉ số tập trung thị phần nhóm 
(CR) là tổng thị phần của một 
nhóm ngân hàng có thị phần lớn 
nhất. Tính đơn giản và số lượng dữ 
liệu ít đã giúp cho chỉ số tập trung 
k trở thành một trong những chỉ số 
thường được dùng nhiều nhất để 
đo lường độ tập trung trong thực 
tiễn. Chỉ số này đánh giá mức độ 
tập trung thị phần xác định liệu có 
rơi vào nhóm một số ngân hàng 
hay không. Chỉ số này được xác 
định thông qua thị phần của k ngân 
hàng lớn nhất trên thị trường, công 
thức đo lường mức độ tập trung thị 
phần: 
Trong đó:
Đây là một công thức nghịch 
thể hiện số lượng ngân hàng trên 
thị trường, và cho kết quả là n
e
= 
k/CR
k
 (White, 1982).
Dựa vào các mức độ tập trung, 
có thể phân loại thị trường thành 
các dạng như sau:
- Cạnh tranh hoàn hảo, với tỷ 
lệ tập trung rất nhỏ
- Cạnh tranh một cách tương 
đối, CR
3
 < 65%, mức độ tập 
trung trung bình
- Độc quyền nhóm hoặc có vị 
trí thống lĩnh thị trường, CR
3
 > 
65%, mức độ tập trung cao
- Độc quyền, CR
1
 xấp xỉ 
100%
Chỉ số Herfindahl-
Hirschman 
Trong ngành ngân hàng, chỉ số 
Herfindahl-Hirschman (HHI) được 
sử dụng đề nhận biết mức độ cạnh 
tranh của thị trường là hoàn hảo 
hay độc quyền cao. Tại Mỹ, chỉ số 
này được Bộ Tư pháp sử dụng để 
đánh giá mức độ độc quyền hay 
độc quyền nhóm trong hoạt động 
mua bán, sáp nhập (M&A) giữa 
các ngân hàng. HHI xác định bằng 
tổng bình phương thị phần của mỗi 
ngân hàng trong toàn hệ thống. 
Công thức xác định:
2 Jacob A. Bikker and Katharina Haaf 
+ CR
k
: Chỉ số tập trung 
(Concentration ratio) 
+ Si: Thị phần ngân hàng 
thứ i
+ k: Số lượng ngân hàng 
trong nhóm
Thông thường thì chỉ số này 
được tính dựa trên số lượng từ 03 
ngân hàng trở lên tuỳ thuộc vào 
quy mô thị trường. Chỉ số tập 
trung có giá trị từ 0% đến 100%. 
Chỉ số này càng cao thể hiện 
mức độ tập trung thị trường càng 
lớn và quyền lực thị trường sẽ tập 
trung vào nhóm ngân hàng này. 
Ngược lại, nếu ngành bao gồm n 
ngân hàng cũng kích cỡ, 
CR
k
 =
 = 
Trong đó:
+ Si: Thị phần ngân hàng thứ i
+ n: Số lương ngân hàng trong 
hệ thống
Chỉ số HHI có giá trị từ 1/n 
đến 1, chỉ số có giá trị thấp nhất 
(1/m) khi tất cả các ngân hàng 
trong thị trường đều có quy mô 
như nhau, và có giá trị bằng 1 
trong trường hợp độc quyền.
Chỉ số HHI có thể xác định 
bằng cách khác:
HHI = 1/n +nV (2)
 (1)
Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
35
Trong đó:
+ n: Số lượng ngân hàng trong 
hệ thống
+ V: Phương sai thống kê thị 
phần của các ngân hàng
ra sau các hoạt động sáp nhập, hợp 
nhất (M&A). Pháp luật về cạnh 
tranh của nhiều nước quy định cụ 
thể mức độ tập trung kinh tế thông 
qua chỉ số HHI trong việc rà soát 
các diễn biến về tập trung kinh tế.
Trong nghiên cứu này, do số 
lượng các ngân hàng và các chỉ 
số về quy mô trong toàn hệ thống 
được xác định nên chỉ số này được 
tác giả tính toán theo công thức (1) 
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Số ngân hàng 43 43 43 41 40 39 38
Nếu tất cả các doanh nghiệp 
có thị phần bằng nhau (có nghĩa 
là nếu cấu trúc thị trường là hoàn 
toàn cân xứng, tức s
i 
= 1/n đối với 
mọi i) thì V = 0 và H = 1/n. Nếu số 
lượng doanh nghiệp là không đổi, 
thì phương sai lớn hơn do mức độ 
bất đối xứng về thị phần giữa các 
doanh nghiệp sẽ tạo ra giá trị chỉ 
số cao hơn.
Ngoài 2 công thức trên, trong 
những trường hợp mà số lượng 
chính xác các ngân hàng cũng như 
quy mô của nó không thể xác định 
được, chỉ số số HHI được xác định 
thông qua vào lí thuyết phân phối, 
Hart (1975) chỉ số HHI được xác 
định bằng công thức:
HHI=(η0
2 
+1)n 
Trong đó η2 là hệ số biến đổi 
(những thay đổi có thể xảy ra của 
cấu trúc quy mô) của phân phối 
ban đầu.
Thông qua chỉ số HHI, thị 
trường sẽ được phân loại mức độ 
cạnh trang dựa trên cơ sở sau:
+ HHI < 0.01: Thị trường 
cạnh tranh hoàn hảo
+ 0.01 ≤ HHI ≤ 0.1: Mức độ 
cạnh tranh cao
+ 0.1 ≤ HHI ≤ 0.18: Thị trường 
cạnh tranh trung bình
+ 0.18 ≤ HHI: Mức độ tập 
trung thị trường cao và có xu 
hướng độc quyền
Đây là chỉ số cơ bản khi cơ quan 
quản lý cạnh tranh xem xét đến sự 
thay đổi về cấu trúc thị trường xảy 
Mức độ tập trung của hệ thống 
ngân hàng thương mại VN được 
tính toán thông qua các số liệu thu 
thập từ cơ sở dữ liệu của các báo 
cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm 
toán của các ngân hàng thương mại 
VN. Các số liệu bao gồm số liệu 
của các ngân hàng thương mại Nhà 
nước và ngân hàng thương mại Cổ 
phần trong giai đoạn 2008 – 2014, 
với 2,889 quan sát, trong đó:
(1)
hàng thương mại VN nên các dữ 
liệu trong phân tích cũng loại trừ 
số liệu về các ngân hàng thương 
mại nước ngoài và chi nhánh của 
các ngân hàng thương mại nước 
ngoài đang hoạt động tại VN. 
3. Kết quả và thảo luận
Mức độ tập trung thị trường giai 
đoạn 2008 – 2014 trên 03 phương 
diện là: Tổng tài sản; huy động vốn 
và cho vay của hệ thống ngân hàng 
thương mại VN được đo lường 
trong Bảng 1.
Mức độ tập trung thị trường 
trong hệ thống có xu hướng giảm 
trong cả 03 tiêu chí: Về tổng tài 
sản, giảm từ 0.107 trong chỉ số 
HHI (0.1 ≤ HHI ≤ 0.18) thị trường 
cạnh tranh trung bình tức là ở 
mức độ tập trung vừa phải xuống 
0.07 (0.01 ≤ HHI ≤ 0.1) Mức độ 
cạnh tranh cao, thị trường không 
mang tính tập trung.
Tuy nhiên, về chỉ tiêu huy 
động và cho vay, chỉ số HHI giảm 
Việc đo lường mức độ tập 
trung thị trường của hệ thống 
ngân hàng thương mại VN để 
đánh giá cấu trúc thị trường được 
nghiên cứu thực hiện trên 03 
phương diện: (1) Tổng tài sản; 
(2) Thị phần huy động; và (3) Thị 
phần cho vay trong các năm từ 
năm 2008 đến năm 2014. 
Lý do nghiên cứu giới hạn 
khung thời gian phân tích dữ liệu 
từ năm 2008 bởi đây là thời điểm 
mà các báo cáo tài chính của các 
ngân hàng thương mại yêu cầu 
phải được kiểm toán khi công 
bố nhằm đảm bảo tính thống 
nhất trong dữ liệu phân tích. Do 
nghiên cứu chỉ đánh giá mức độ 
tập trung thị trường của các ngân 
trong giai đoạn 2008 – 2011 (từ 
0.128 – 0.093 của huy động và 
0.140 – 0.099), sau đó tăng lên 
trong giai đoạn 2012-2014. Đây 
là một trong những hiệu ứng của 
quá trình M&A trong giai đoạn 
2011-2014 hình thành một số 
ngân hàng có quy mô lớn về tổng 
tài sản cũng như thị phần huy 
động và cho vay.
Sự biến thiên của chỉ số HHI 
được thể hiện khá rõ trong Hình 1, 
các chỉ số, nhìn chung giảm trong 
giai đoạn 2008 – 2011, sau đó ổn 
định và tăng nhẹ trong gia đoạn 
2011-2014, hiệu ứng gia tăng thị 
phần của một số ngân hàng sau 
M&A. Tuy nhiêu, mức độ tập trung 
trong hệ thống ngân hàng thương 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016
Nghiên Cứu & Trao Đổi
36
mại VN sau quá trình tái cấu trúc 
thông qua M&A mặc dù có làm gia 
tăng mức độ tập trung nhưng vẫn 
thuộc nhóm thị trường có độ cạnh 
tranh cao với mức độ tập trung thấp 
(0.01 ≤ HHI ≤ 0.1)
Xét về chỉ số tập trung trong 
nhóm 3 ngân hàng lớn nhất 
(CR
3
): Mức độ tập trung trong 
nhóm 3 ngân hàng lớn nhất trong 
hệ thống ngân hàng VN gia đoạn 
2008 – 2014 được tính toán trong 
Bảng 1. Trong đó, các chỉ số tập 
trung nhóm 3 ngân hàng lớn nhất 
về thị phần huy động và cho vay 
giảm liên tục trong giai đoạn 2008 
– 2014. Cụ thể, CR
3
 thị phần huy 
động vốn giảm từ 54.1% năm 
2008 xuống 38.1% năm 2014; thị 
phần cho vay giảm từ 57.9% năm 
2008 xuống 44.0% năm 2014. 
Sự sút giảm của chỉ số này đã chỉ 
ra rằng, mức độ cạnh tranh ngày 
càng cao trong hoạt động của hệ 
thống ngân hàng thương mại VN. 
Trong khi đó, một thời gian dài, 
một tỷ trọng cao thị phần thuộc 
nhóm các ngân hàng thương mại 
nhà nước.
So sánh với các quốc gia 
khác
Không chỉ giảm dần, so với 
một số quốc gia, bao gồm các 
quốc gia phát triển và các nước 
trong khu vực, chỉ số tập trung 
ngân hàng tại VN bao gồm HHI 
và tập trung nhóm CR trong 
nhóm 3, 5 và 10 ngân hàng lớn 
trong hệ thống đang ở mức trung 
bình (Bảng 2). Điều này một lần 
nữa chứng tỏ rằng, thị trường 
ngân hàng tại VN đang trở nên 
cạnh tranh hơn cho đến thời điểm 
nghiên cứu này thực hiện.
4. Kết luận
Hệ thống ngân hàng thương 
mại VN đã và đang có những thay 
đổi mạnh mẽ trong tiến trình tái 
cấu trúc theo hướng giảm số lượng 
những ngân hàng yếu kém, gia 
tăng quy mô thông qua hoạt động 
M&A nhằm mục tiêu xây dựng 
một hệ thống ngân hàng an toàn, 
hiệu quả với năng lực cạnh tranh 
cao. Nghiên cứu thực nghiệm đối 
với quá trình M&A trong hệ thống 
ngân hàng thương mại VN giai 
Chỉ số Tiêu chí
Năm
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
HHI
Tổng tài sản 0.107 0.090 0.074 0.070 0.071 0.073 0.073
Vốn huy động 0.128 0.105 0.096 0.093 0.094 0.097 0.090
Vốn cho vay 0.140 0.115 0.105 0.099 0.110 0.110 0.100
CR3
Tổng tài sản 48.4% 42.8% 38.0% 36.1% 37.5% 38.6% 38.3%
Vốn huy động 54.1% 47.5% 43.9% 42.8% 40.7% 40.3% 38.1%
Vốn cho vay 57.9% 50.6% 49.3% 47.7% 47.9% 46.8% 44.0%
Bảng 1: Mức độ tập trung thị trường ngân hàng VN 2008-2014
Nguồn: Tính toán của tác giả
Hình 1: Diễn biến chỉ số HHI giai đoạn 2008 – 2014
Hình 2: Diễn biến chỉ số CR3 giai đoạn 2008 – 2014
Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
37
đoạn 2008-2014 với phương pháp 
tiếp cận cấu trúc đã chỉ ra: (1) Mặc 
dù có sự tập trung sau quá trình 
M&A nhưng nhìn chung, mức 
độ tập trung vẫn ở mức vừa phải, 
điều này không chỉ diễn ra trong 
toàn hệ thống mà ngay cả trong 
nhóm những ngân hàng lớn nhất. 
Cạnh tranh cao trong thị trường 
ngân hàng là một trong những yếu 
tố giúp cho hệ thống ngân hàng 
thương mại VN nâng cao hiệu quả 
hoạt động – một trong những mục 
tiêu quan trọng của đề án tái cấu 
trúc hệ thống các tổ chức tín dụng 
mà VN đang tích cực triển khai; 
(2) Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra 
những lo ngại về sự tập trung quy 
mô từ hoạt động M&A trong hệ 
thống ngân hàng thương mại VN sẽ 
gia tăng mức độ độc quyền hay độc 
quyền nhóm, qua đó, ảnh hưởng 
xấu đến môi trường cạnh tranh đến 
thời điểm này vẫn chưa xảy ra; và 
(3) Tuy nhiên, tình trạng thị trường 
sẽ có những thay đổi lớn về mức 
độ tập trung nếu trong trường hợp 
một hay một vài ngân hàng thương 
mại trong nhóm lớn nhất sáp nhập 
với nhau. Đây là những lưu ý đối 
với các cơ quan quản lý, giám sát 
hệ thống ngân hàng thương mại 
VN trong thời gian tớil
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Davis, K. (2007). Banking concentration, 
financial stability and public policy. The 
Structure and Resilience of the Financial 
System, ed. by C. Kent and J. Lawson.
Jacob A. Bikker and Katharina Haaf. 
(2002). Measures of Competition and 
Concentration in the Banking Industry: 
a Review of the Literature. Economic& 
Financial Modelling.
Nguyễn Hồng Sơn. (2012). Định dạng ngành 
ngân hàng VN sau khi tái cơ cấu: Thông 
lệ quốc tế và tác động đối với VN.
Nguyễn Thị Diệu Chi. (2014). Phát triển 
hoạt động mua bán, sáp nhập trong lĩnh 
vực tài chính, ngân hàng VN. Luận án 
tiến sĩ kinh tế.
Quốc gia
Chỉ số
Số lượng 
ngân hàngHHI CR3 CR5 CR10
Australia 0.14 0.57 0.77 0.90 31
Austria 0.14 0.53 0.64 0.77 78
Belgum 0.12 0.52 0.75 0.87 79
Canada 0.14 0.54 0.82 0.94 44
Denmark 0.17 0.67 0.80 0.91 91
France 0.05 0.30 0.45 0.64 336
Germany 0.03 0.22 0.31 0.46 1,883
Greece 0.20 0.66 0.82 0.94 22
Ireland 0.17 0.65 0.73 0.84 30
Italy 0.04 0.27 0.40 0.54 331
Japan 0.06 0.39 0.49 0.56 140
Luxembourg 0.03 0.20 0.30 0.49 118
Netherlands 0.23 0.78 0.87 0.93 45
Norway 0.12 0.56 0.67 0.81 35
Portugal 0.09 0.40 0.57 0.82 40
Spain 0.08 0.45 0.56 0.69 140
Sweden 0.12 0.53 0.73 0.92 21
Switzerland 0.26 0.72 0.77 0.82 325
UK 0.06 0.34 0.47 0.68 186
US 0.02 0.15 0.23 0.38 717
Trung bình 0.11 0.47 0.61 0.75 
Nguồn: Bikker và Haaf (2002)
VN* 0.07 0.38 0.53 0.70 34
*: Năm 2014 Nguồn: Tính toán của tác giả
Bảng 2: Chỉ số tập trung tại 20 quốc gia, dựa trên tổng tài sản (1997)
Phan Diên Vỹ. (2013). M&A ngân hàng 
thương mại cố phần VN. Luận án tiến 
sĩ kinh tế.
Sharma, M. K., & Bal, H. K. (2010). Measures 
of Concentration: An Empirical Analysis 
of the Banking Sector in India. Journal 
of Global Business Issues, 4(2), 55.
Vũ Thống Nhất. (2011). Một số tác động yếu 
tố về M & A trong lĩnh vực ngân hàng 
VN. Báo cáo của Công ty chứng khoán 
Sen Vàng, 5/2011.
Vương Hoàng Quân và cộng sự (2009). 
The M&A market in process of shifting 
Vietnam economy. Economic and 
Political Research Journal. Volume 5, 
3/2010.
Chính phủ. (2012). Quyết định số 254/QĐ-
TTg về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu 
lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai 
đoạn 2011-2015”

File đính kèm:

  • pdftap_trung_thi_truong_trong_linh_vuc_ngan_hang_tai_viet_nam.pdf