Phương pháp dự án và triết lý giáo dục

TÓM TẮT

Bài viết đề cập đến phương pháp Dự án (PPDA), một trong những phương pháp dạy

học hiện đại đáp ứng được nhiều yêu cầu của đổi mới giáo dục. PPDA ra đời dựa trên nền

tảng của tư tưởng triết học hiện đại, theo đó, giáo dục không đơn giản là chuẩn bị cho trẻ

bước vào đời mà phải thực sự giúp trẻ trải nghiệm trong chính đời sống thực tiễn; PPDA

hướng tới phát triển năng lực người học, lấy học sinh làm trung tâm; học kết hợp với

hành; tạo cơ hội cho học sinh có những trải nghiệm cuộc sống; khơi gợi hứng thú học tập;

rèn luyện những kỹ năng sống thông qua quá trình làm việc nhóm, tham gia giải quyết

những vấn đề, những mục tiêu của dự án do chính học sinh đề xuất.

pdf 7 trang yennguyen 7240
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp dự án và triết lý giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp dự án và triết lý giáo dục

Phương pháp dự án và triết lý giáo dục
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015
55 
PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC 
BÙI THỦY NGÂN (*) 
TÓM TẮT 
Bài viết đề cập đến phương pháp Dự án (PPDA), một trong những phương pháp dạy 
học hiện đại đáp ứng được nhiều yêu cầu của đổi mới giáo dục. PPDA ra đời dựa trên nền 
tảng của tư tưởng triết học hiện đại, theo đó, giáo dục không đơn giản là chuẩn bị cho trẻ 
bước vào đời mà phải thực sự giúp trẻ trải nghiệm trong chính đời sống thực tiễn; PPDA 
hướng tới phát triển năng lực người học, lấy học sinh làm trung tâm; học kết hợp với 
hành; tạo cơ hội cho học sinh có những trải nghiệm cuộc sống; khơi gợi hứng thú học tập; 
rèn luyện những kỹ năng sống thông qua quá trình làm việc nhóm, tham gia giải quyết 
những vấn đề, những mục tiêu của dự án do chính học sinh đề xuất. 
Từ khoá: phương pháp dự án, đổi mới giáo dục, lấy học sinh làm trung tâm, giải 
quyết vấn đề 
ABSTRACT 
This article mentions about the project method, one of the modern teaching methods 
meeting multiple demands of pedagogy innovation. Based on modern philosophies the 
project method is invented, which asserts the importance of education beyond preparation 
for life. It helps a child to experience life itself. This method aims to develop the real 
capacity of a student by putting students at the center, letting them learn through practice, 
open opportunities for life experience, trigger their enthusiasm in studying, apply 
interpersonal skills in group work, involve in their own initiative projects. 
Keywords: project method, pedagogy innovation, student at center, problem solving 
1. TỔNG QUAN* 
“Đổi mới phương pháp dạy học” 
(PPDH) là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho 
các thầy cô giáo cũng như các cấp quản lý 
giáo dục từ mầm non đến đại học từ rất 
nhiều năm gần đây ở Việt Nam. Hội nghị 
lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương 
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII đã đặt 
ra yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện 
nền giáo dục trong đó nêu rõ là đẩy mạnh 
hơn nữa đổi mới PPDH. Nghị quyết cũng 
khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp 
giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ 
một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng 
(*) ThS, Trường Trung học Thực hành Sài Gòn 
tạo của người học. Từng bước áp dụng các 
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện 
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều 
kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho 
học sinh”. 
Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tạo 
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước, theo kịp sự phát triển nhanh chóng 
của khoa học –công nghệ và khoa học giáo 
dục, chú trọng hơn đến phát triển phẩm 
chất và năng lực học sinh, đáp ứng tính 
hiện đại, hội nhập và tạo sự chuyển biến 
căn bản về chất lượng giáo dục, một 
chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ 
được ra đời. Chương trình, sách giáo khoa 
56 
mới sẽ thực hiện theo hướng: “Tích hợp 
cao ở lớp và cấp học dưới; Tự chọn và 
phân hóa cao ở lớp và cấp học trên. Cách 
thiết kế này cho phép lựa chọn có chủ đích 
trong khối kiến thức rất lớn, rất phong phú 
của các lĩnh vực khoa học những nội dung 
phù hợp với lứa tuổi (tâm lý, kỹ năng, nhận 
thức) của học sinh phổ thông, gần với 
cuộc sống, thiết thực tham gia vào quá 
trình hình thành phẩm chất và năng lực 
của người lao động mới”. (trích phát biểu 
của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận tại Hội nghị 
quán triệt nghị quyết T 8 và tổng kết năm 
học 2012-2013). 
Phương pháp dự án là một trong những 
PPDH hiện đại có khả năng đáp ứng được 
nhiều yêu cầu của chương trình giáo dục 
mới: lấy học sinh làm trung tâm; học kết 
hợp với hành; tạo cơ hội cho học sinh có 
những trải nghiệm trong chính thực tiễn 
đời sống; khơi gợi hứng thú học tập, xác 
lập động cơ học tập đúng đắn; tích cực rèn 
luyện những kỹ năng sống thông qua quá 
trình làm việc nhóm, tham gia giải quyết 
những vấn đề, những mục tiêu của dự án 
do chính học sinh đề xuất. Tất nhiên, 
không thể khẳng định rằng phương pháp 
Dự án (PPDA) là chiếc đũa thần có khả 
năng giải quyết được mọi vấn đề của giáo 
dục. Nhưng sự thực, PPDA là trường hợp 
của một quan điểm sư phạm đã vượt khỏi 
biên giới của một quốc gia và đã mang tầm 
vóc quốc tế khi đã được nghiên cứu, ứng 
dụng ở hàng loạt nước phát triển cũng như 
đang phát triển. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG 
PHÁP DỰ ÁN (PPDA) 
Vào năm 1922, nhà sư phạm người Mỹ, 
 alter Barnes đã đưa ra câu hỏi: “Cái gì là 
bản chất của nền giáo dục mới?” và để trả 
lời câu hỏi này, ông đưa ra 7 yếu tố cơ bản 
góp phần định hình nền giáo dục mới so với 
giáo dục truyền thống, đó là: (1) Nền giáo 
dục mới dựa vào quan niệm của tâm lý học 
hiện đại cho rằng: “mỗi đứa trẻ là trung 
tâm trong thế giới riêng của chính nó” - 
“each child is the center of his universe” 
(Nguồn alter Barnes (1922); (2) tinh thần 
khoa học trong giáo dục; (3) một triết lý 
mới của giáo dục, theo đó, giáo dục không 
đơn giản là chuẩn bị cho trẻ bước vào đời 
mà phải thực sự giúp trẻ trải nghiệm trong 
chính đời sống thực tiễn; (4) một quan niệm 
xã hội học mới, theo đó, phương cách duy 
nhất có thể giúp xây dựng một xã hội dân 
chủ thực sự là giáo dục phổ quát; (5) hệ 
thống giáo dục cần thay đổi; (6) đổi mới 
chương trình đào tạo, bao gồm đổi mới nội 
dung và hoạt động nhằm tạo sự hứng thú và 
giúp trẻ hình thành những giá trị cho bản 
thân; và (7) đổi mới phương pháp dạy học. 
Mọi phương pháp dạy học mới phải đáp 
ứng được yêu cầu tạo ra động lực học tập, 
tăng cường khả năng hoà nhập vào xã hội, 
và phương pháp dự án (The Project 
Method) được xem là phương pháp đáp 
ứng được cả hai yêu cầu nêu trên thông qua 
việc thực hiện “một nhiệm vụ hay một chuỗi 
nhiệm vụ quan trọng để tạo ra một kết quả 
đáng kể từ hoạt động của một nhóm hay 
của cá nhân ”. 
PPDA ra đời trên nền tảng tư tưởng 
triết học của triết gia, nhà tâm lý học và là 
nhà giáo dục học nổi tiếng người Mỹ, John 
Dewey. Vào cuối thế kỉ 19, Dewey nổi 
tiếng với tư tưởng triết học thực dụng; 
Theo ông, triết học phải gắn với nhiệm vụ 
xã hội và giải quyết những vấn đề thực tại, 
gần với con người. Ông cho rằng: “Đời 
sống là một chuỗi vấn đề và một đời sống 
thành công là một đời sống, trong đó, cá 
nhân và tập thể xác định được vấn đề đặt 
ra cho họ và tìm cách giải quyết những vấn 
đề này”. (Nguồn TS.Nguyễn Ái Học, 
2014). Từ quan điểm triết học này, ông 
quan niệm giáo dục, học tập là một quá 
trình hội nhập xã hội và là một quá trình 
tương tác; do đó, các trường phải được 
57 
hiểu như một tổ chức xã hội và thông qua 
đó, cải cách xã hội có thể sẽ được diễn ra. 
Nhà trường không đơn giản là nơi chuẩn bị 
cho trẻ bước vào đời mà phải là nơi giúp 
trẻ trải nghiệm chính cuộc sống thực tiễn. 
Nhà trường chính là nơi giúp trẻ phát hiện 
và hiện thực hoá năng lực, khả năng hay kỹ 
năng sống của chính mình. 
Mặc dù chưa chứng minh được ai là 
cha đẻ của PPDA, song có thể nói 
Kilpatrick là người đầu tiên đã đưa ra định 
nghĩa rất nổi tiếng về PPDA là “Một hoạt 
động có mục đích và được thực hiện trong 
một môi trường xã hội với tất cả nhiệt 
huyết” (nguồn .H. Kilpatrick, 1918). 
Kilpatrick tự nhận rằng ông không phải là 
tác giả của PPDA nhưng ông là người đã 
dùng nó một cách có ý thức để chứng minh 
rằng nó là một phương pháp tiêu biểu cho 
tư tưởng giáo dục mới, hiện đại. 
Vào thập niên đầu của thế kỉ 20, từ “Dự 
án” đã trở nên phổ biến đối với các giáo 
viên trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ 
công, nghệ thuật và khoa học ứng dụng. 
Năm 1911, Stimson và nhóm của ông là 
những người đầu tiên đã dùng khái niệm 
PPDA vào trong giảng dạy tại khoa nông 
nghiệp của trường đại học Massachusetts, 
việc này đánh dấu một sự khởi đầu của 
cuộc tranh đua ở nhiều lĩnh vực khác nhau. 
PPDA nhanh chóng được tiếp nhận và được 
các giáo viên ứng dụng trong dạy học, ví dụ 
để dạy cho trẻ em biết xà bông được tạo ra 
như thế nào, họ đã cho trẻ em làm xà bông, 
hay để dạy về qui trình làm giấy thì họ đã 
cho học sinh tự làm giấy, .v.v 
Ngày nay Dạy học theo dự án là một 
trong những PPDH được thực hiện rộng 
rãi, chủ yếu trong các trường THPT và đại 
học ở các nước có nền GD tiên tiến trên thế 
giới như Mỹ, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Canada. 
Ở Châu Á, các nước như Thái Lan, 
Singapore, Hong Kong, .v.v các dự án 
học tập được học sinh xây dựng và thực 
hiện ở nhiều lĩnh vực, dạy học theo dự án 
cũng được áp dụng khá phổ biến ở các 
trường phổ thông. Ở Việt Nam, từ năm 
2003, phương pháp dạy học theo dự án 
được Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với 
công ty Intel Việt Nam triển khai thí điểm 
tại 20 trường học thuộc 9 tỉnh thành trên cả 
nước trong chương trình Dạy học cho 
tương lai của Intel (Intel Teach to the 
Future), có nhiều tác giả đã nghiên cứu về 
phương pháp dạy học theo dự án. Dưới đây 
là tên một số công trình, bài nghiên cứu: 
Tác giả Phan Đồng Châu Thủy với bài 
viết “Nhiệm vụ, thách thức của giáo viên, 
học sinh Việt Nam trong dạy học dự án” 
đăng trong Tạp chí Khoa học Đại học sư 
phạm thành phố Hồ Chí Minh (Số 31, 2011) 
đã trình bày những nhiệm vụ và thách thức 
mà giáo viên và học sinh phải đối mặt khi sử 
dụng phương pháp dạy học theo dự án 
(DHDA) và đề ra một số giải pháp giúp 
người dạy và người học vượt qua các thách 
thức đó. 
Các tác giả Trịnh Văn Biều, Phan 
Đồng Châu Thủy, Trịnh Lê Hồng Phương 
với bài viết “Dạy học dự án – từ lí luận đến 
thực tiễn” đăng trên tạp chí Khoa học Đại 
học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (số 
28, 2011) đã trình bày một số khái niệm, 
phân loại, cấu trúc, đặc điểm, tác dụng, ưu, 
nhược điểm, cách tiến hành, đánh giá và 
những bài học kinh nghiệm để thành công 
trong việc dạy theo dự án. 
Những năm gần đây, với những ưu 
điểm vượt trội, Dạy học theo dự án tiếp tục 
thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu 
và Dạy học theo dự án được đề cập nhiều 
hơn trong các tài liệu Tiếng Việt với những 
tên gọi khác nhau như: đề án, dạy học theo 
dự án, phương pháp dự án. 
3. PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN (PPDA) 
Theo K.Frey, học giả hàng đầu về dạy 
học theo PPDA của Cộng hòa Liên bang 
Đức thì: Dạy học theo dự án (Project 
58 
Based Learning) là một hình thức của hoạt 
động học tập trong đó nhóm người học xác 
định một chủ đề làm việc, thống nhất một 
nội dung làm việc, tự lập kế hoạch và tiến 
hành công việc để dẫn đến một sự kết thúc 
có ý nghĩa, thường xuất hiện một sản phẩm 
có thể trình ra được. Với một số nhà 
nghiên cứu về dạy học theo dự án của Hoa 
Kỳ như Thomas, Mergendoller hay 
Michaelson thì: Dạy học theo dự án là một 
mô hình tổ chức học tập xung quanh dự án. 
Các dự án có nhiệm vụ phức tạp, dựa trên 
các câu hỏi hay vấn đề đầy thử thách, đòi 
hỏi học sinh phải thiết kế, giải quyết vấn đề 
hoặc tiến hành các hoạt động điều tra. 
PPDA nhấn mạnh vai trò của người học, 
theo định nghĩa của Bộ Giáo dục 
Singapore: Học theo dự án là hoạt động học 
tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh tổng hợp 
kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng 
một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống. 
Từ những quan điểm cơ bản về dạy 
học theo dự án nêu trên, có thể khái 
quát PPDA là một phương pháp dạy học 
hiện đại, thông quá quá trình học theo dự 
án, học sinh phát huy được năng lực tiềm 
tàng cũng như định hình được những giá 
trị của bản thân, giúp cho các em có khả 
năng hoà nhập và thích ứng cùng nhịp 
phát triển của xã hội. Trong PPDA, học 
sinh tích cực tham gia vào quá trình học 
tập chứ không phải là người tiếp nhận 
thông tin một cách thụ động. Trong các 
hoạt động theo PPDA, giáo viên đóng vai 
trò của một nhà tư vấn, giúp học sinh tiếp 
thu kiến thức mới, rèn luyện kỹ năng và 
phát huy năng lực của học sinh nhưng 
không hề làm thay những công việc của 
học sinh. 
Theo tổng hợp ý kiến của những nhà 
sư phạm như Hus (2009), Bulajeca (2011), 
Jung (2011), Boondee (2011), Vicheanpant 
và Ruenglertpanyakul (2012) sự khác biệt 
chính giữa cách dạy học truyền thống và 
dạy học dựa trên PPDA được tóm tắt qua 
bảng so sánh sau đây: 
Bảng 1: So sánh dạy học truyền thống và dạy học theo phương pháp Dự án 
(Hus, 2009; Jung et al., 2011; Boondee et al., 2011; Vicheanpant &Ruenglertpanyakul, 2012) 
Dạy học truyền thống Dạy học theo dự án 
Dạy học theo từng bước. 
Tập trung vào những kỹ năng cơ bản. 
Học sinh được mong đợi hiểu một ý tưởng 
theo những cách tương tự như cách hiểu của 
thầy giáo. 
Công cụ học tập phổ biến là sách giáo khoa. 
Học sinh là đối tượng tiếp nhận thông tin thụ 
động. 
Dạy học nhấn mạnh vào những khái niệm và 
ý tưởng. Nó được bắt đầu từ một nhiệm vụ 
tổng quát và được phân chia thành những 
phần nhỏ hơn. 
Học theo PPDA ủng hộ những sở thích, 
những ý tưởng nảy sinh từ chính học sinh. 
Học sinh được khuyến khích sử dụng nhiều 
nguồn thông tin, tài liệu khác nhau, bao gồm 
cả sách giáo khoa. 
Việc học hỏi kinh nghiệm dựa trên đối thoại, 
qua đó giúp học sinh củng cố kiến thức. 
59 
Kiến thức của học sinh được xem như khô 
cứng 
Thầy giáo đóng vai trò của người truyền thụ 
trực tiếp. 
Học sinh làm việc cá nhân, riêng rẻ. 
Việc nhận xét đánh giá kiến thức học sinh 
căn bản dựa trên kết quả các bài kiểm tra, 
các kỳ thi 
Kiến thức của học sinh được thâu thái một 
cách năng động và luôn được cập nhật dựa 
vào kinh nghiệm. 
Thầy giáo được hiểu ngầm như một cố vấn. 
Học sinh làm việc nhóm. 
Việc nhận xét đánh giá được xem xét trong cả 
quá trình thực hiện dự án, những hoạt động, 
những sự quan sát và kết quả của dự án. 
Tuỳ theo tính chất, mục đích cụ thể, 
mỗi dự án có thể có nhiều hình thức và 
được phân chia ra nhiều bước thực hiện 
khác nhau, nhưng qua thực tiễn ứng dụng ở 
nhiều nơi, có thể hình dung các dự án đều 
có những phần chính giống như mô tả 
trong bảng 2. 
Bảng 2: Mô hình chung của PPDA 
(1) Lập kế hoạch dự án 
Xác định mục tiêu và nội dung của dự án 
Chọn những đề tài thiết thực và được học sinh quan tâm một cách hứng thú 
Phân công làm việc nhóm 
Nhận diện rõ các vấn đề, các mục tiêu cần đạt được của dự án 
Miêu tả các nhiệm vụ cụ thể 
(2) Thực thi dự án 
Hiện thực hoá các yêu cầu của kế hoạch đã đề ra 
Xử lý các tình huống phát sinh để dự án thành công 
(3) Tổng kết và nhận xét đánh giá 
Trình bày các kết quả đã đạt được 
Nhận xét đánh giá về quá trình thực hiện dự án 
Ghi nhận những phản hồi của học sinh về kết quả dự án 
60 
4. VÀI KINH NGHIỆM QUA THỰC 
TIỄN NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG 
PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN TẠI TRƯỜNG 
TRUNG H C THỰC HÀNH SÀI GÒN. 
Trong báo cáo tổng kết đề tài nghiên 
cứu khoa học cấp cơ sở: “Nghiên cứu và 
ứng dụng phương pháp dự án vào các hoạt 
động dạy học và giáo dục kỹ năng sống 
cho học sinh trường Trung học Thực hành 
Sài Gòn” (Mã số: CS2012-48), chúng tôi 
đã tổng hợp và phân tích khá chi tiết kết 
quả khảo sát các đối tượng học sinh, giáo 
viên, cũng như đã giới thiệu một số dự án 
cụ thể của trường THTH Sài Gòn liên quan 
đến một số môn học, những dự án liên môn 
và cả những dự án nằm ngoài các môn học 
nhưng có liên quan đến mục đích giáo dục 
đạo đức, lối sống, hình thành và phát triển 
các kỹ năng cho học sinh. Ở đây, trong 
phạm vi của một bài báo, chúng tôi chỉ xin 
nêu vài kinh nghiệm mà trong quá trình 
ứng dụng PPDA, nếu không lưu ý đúng 
mức, nhiều giáo viên mới bắt đầu làm quen 
với PPDA có thể mắc phải. 
(1) Khái niệm “Phương pháp Dự án” 
trong thực tế đã được một số thầy cô giáo 
chuyển hướng thành dạy học theo chủ đề. 
Các chủ đề này lại do chính các thầy cô đưa 
ra chứ không thật sự nảy sinh từ sáng kiến 
của học sinh. Và như thế, từ yêu cầu của 
PPDA là phát huy sáng kiến của học sinh, 
trở thành phát huy sáng kiến của giáo viên. 
(2) Yêu cầu của PPDA là giáo viên chỉ 
đóng vai trò của người tư vấn hay cố vấn, 
có thể gợi ý đề tài, lĩnh vực để kích thích 
học sinh tham gia dự án một cách hứng thú, 
tuyệt đối không được làm thay công việc 
của học sinh. Nhưng trong thực tế, nhiều 
giáo viên đã áp đặt kế hoạch của mình, và 
học sinh chỉ còn là những người thực hiện 
kế hoạch của giáo viên. Mặc dù dự án được 
thực hiện theo cách này vẫn mang lại 
những hiệu quả nhất định, nhưng điều đó 
chủ yếu chỉ là thành tích của giáo viên, có 
thể được xem như một phương pháp dạy 
học tích cực nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu 
của phương pháp dự án và chưa thể hiện 
được tinh thần của triết lý giáo dục mới. 
 (3) Những vấn đề của dự án phải được 
đề xuất từ chính sự hứng thú tìm tòi của 
học sinh nhưng trong thực tế, một số vấn 
đề này lại do chính giáo viên đề xuất, xây 
dựng kế hoạch thực hiện, điều này chẳng 
những tước đi niềm vui sáng tạo mà còn 
đánh mất cơ hội hình thành động lực học 
tập cho học sinh. 
 (4) Một số giáo viên thường có 
khuynh hướng tự giới hạn các dự án trong 
khuôn khổ nội dung chương trình giáo dục, 
chưa mạnh dạn khuyến khích học sinh đề 
xuất những dự án liên quan đến đời sống 
thực tiễn. Điều đó cho thấy một số giáo 
viên chưa thật sự cảm nhận và thấu hiểu 
triết lý giáo dục mới là nhà trường không 
đơn giản là nơi truyền thụ những kiến thức 
nhất định để chuẩn bị cho học sinh bước 
vào đời mà phải là nơi thật sự giúp học 
sinh có những trải nghiệm từ chính thực 
tiễn đời sống, là nơi hiện thực hoá năng lực 
và những kỹ năng sống giúp học sinh làm 
quen với việc nhận diện và giải quyết 
những vấn đề của chính mình trong đời 
sống thực tiễn. 
(5) Khi nghiên cứu, ứng dụng PPDA, 
cần lưu ý rằng mặc dù PPDA không phải là 
chiếc chìa khoá vạn năng của giáo dục, 
nhưng ẩn phía sau phương pháp thu hút 
được sự chú ý của nhiều nhà sư phạm trên 
thế giới này là những quan niệm sư phạm 
hiện đại, những triết lý giáo dục nhân văn 
và khoa học. Nếu vận dụng một cách hời 
hợt, tuỳ tiện thì rất dễ biến phương pháp dự 
án trở thành một thứ thủ thuật mang tính 
chất thời thượng, như J. Stockton (1920) 
61 
từng cảnh báo:“ Phương pháp dự án đã 
từng được sử dụng nhiều hay ít như là một 
thủ thuật mang tính thời thượng và không 
thực hiện đầy đủ đặc tính và thế mạnh của 
nó” (The project-based method was viewed 
as something fashionable, as a gimmick, 
used more or less as a trick and without 
full realization of its character and power). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tài liệu tiếng Việt: 
1. Trịnh Văn Biều và nhóm tác giả, Dạy học dự án – Từ lí luận đến thực tiễn, Tạp chí 
khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 28, 2011. 
2. Nguyễn Văn Cường/Bernd Meier: Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy 
học ở trường trung học PT. (Berlin/ Hà nội, 2010). 
3. Nguyễn Ái Học, Triết lý giáo dục của John Dewey với giáo dục và dạy học ở 
Việt Nam, Tạp chí khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 2/2014. 
4. Bùi Thủy Ngân, Nguyễn Long Sơn, Trần Thị Ánh, Nguyễn Thanh Loan, Vũ Duy 
Đăng, Nghiên cứu phương pháp dự án và ứng dụng trong hoạt động dạy, học và giáo 
dục KNS cho học sinh trường TH Thực hành Sài Gòn, 12/2014. 
5. Phan Đồng Châu Thủy, Nhiệm vụ, thách thức của giáo viên, học sinh Việt Nam trong 
dạy học theo dự án, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 
số 31, 2011. 
Tài liệu tiếng nước ngoài: 
1. Esther Marques Lepe Maria Luisa Jimenez – Rodrigo, Project – based learning in 
virtual environments: a case study of a university teaching experience, RUSC, 2014. 
2. Jana Kratochvilova, The teacher’s conception of Project-based teaching, The New 
Educational Review. 
3. Maria del Mar del Pozo Andres, The transnational and national dimensions of 
pedagogical ideas: the case of the project method, 1918-1939, Routledge, October 
2009. 
4. Michael Knoll, The Project Method: Its Vocational Education Origin and 
International Development, Journal of Industial Teacher Education, 1997. 
5. Stephanie Bell, Project-Based Learning for the 21
st
 century: Skills for the future, The 
Clearing House, 2010. 
6. William.H.Kilpatrick, The project Method, Teachers College Record XIX, 1918. 
* Ngày nhận bài: 21/01/2015 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_du_an_va_triet_ly_giao_duc.pdf