Quy định về giáo dục của Bộ quốc gia giáo dục Việt Nam Cộng hòa đối với người Việt gốc Hoa (1955-1975)

Sau năm 1955, giáo dục của người Việt gốc Hoa chuyển từ nền giáo dục Pháp

thuộc sang nền giáo dục mới dưới quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam

Cộng hòa giai đoạn này. Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã đặt ra

nhiều quy định, thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới. Bài viết tìm hiểu một số

quy định đối với hoạt động giáo dục của người Việt gốc Hoa những năm 1955 -

1975. Các quy định cụ thể bao gồm: quy định về việc thành lập trường; về sách

giáo khoa, số giờ dạy tiếng Việt và tiếng Hoa; về giáo viên giảng dạy.

pdf 8 trang yennguyen 4320
Bạn đang xem tài liệu "Quy định về giáo dục của Bộ quốc gia giáo dục Việt Nam Cộng hòa đối với người Việt gốc Hoa (1955-1975)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy định về giáo dục của Bộ quốc gia giáo dục Việt Nam Cộng hòa đối với người Việt gốc Hoa (1955-1975)

Quy định về giáo dục của Bộ quốc gia giáo dục Việt Nam Cộng hòa đối với người Việt gốc Hoa (1955-1975)
50 
CHUYÊN MỤC 
SỬ HỌC-NHÂN HỌC-NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO 
QUY ĐỊNH VỀ GIÁO DỤC 
CỦA BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤC VIỆT NAM CỘNG HÒA 
ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT GỐC HOA (1955 - 1975) 
 PHẠM NGỌC HƯỜNG* 
Sau năm 1955, giáo dục của người Việt gốc Hoa chuyển từ nền giáo dục Pháp 
thuộc sang nền giáo dục mới dưới quyền kiểm soát của chính quyền Việt Nam 
Cộng hòa giai đoạn này. Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã đặt ra 
nhiều quy định, thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới. Bài viết tìm hiểu một số 
quy định đối với hoạt động giáo dục của người Việt gốc Hoa những năm 1955 - 
1975. Các quy định cụ thể bao gồm: quy định về việc thành lập trường; về sách 
giáo khoa, số giờ dạy tiếng Việt và tiếng Hoa; về giáo viên giảng dạy... 
Từ khóa: chính sách, giáo dục, người Việt gốc Hoa, Việt Nam Cộng hòa 
Nhận bài ngày: 18/3/2019; đưa vào biên tập: 20/3/2019; phản biện: 5/4/2019; duyệt 
đăng: 10/7/2019 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vào 
năm 1954, thực dân Pháp rút khỏi Việt 
Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 
miền Nam - Bắc. Ở miền Nam, Mỹ thay 
chân Pháp, dựng lên chính quyền Ngô 
Đình Diệm. Lúc này giáo dục ở miền 
Nam Việt Nam chuyển sang một giai 
đoạn mới, từ chịu sự kiểm soát của 
chính quyền thuộc địa sang chịu sự 
kiểm soát của chính quyền Việt Nam 
Cộng hòa. Sau năm 1955, chương trình 
trình tiếng Việt mới bắt đầu chính thức 
được áp dụng ở miền Nam để thay 
thế cho chương trình Pháp. Hàng loạt 
các vấn đề cốt lõi được đặt ra để phục 
vụ và áp dụng cho một nền giáo dục 
mới như: triết lý giáo dục, mục tiêu 
giáo dục, chương trình học, sách giáo 
khoa, giáo viên, cơ sở vật chất trường 
học... 
Năm 1955, cùng với quy định về quốc 
tịch đối với người Việt gốc Hoa, hàng 
loạt các vấn đề đã được đặt ra trong 
đó có vấn đề giáo dục. Theo báo cáo 
của Bộ Quốc gia Giáo dục về các 
* 
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. 
PHẠM NGỌC HƯỜNG – QUY ĐỊNH VỀ GIÁO DỤC CỦA BỘ QUỐC GIA 
51 
trường của người Việt gốc Hoa ở Việt 
Nam năm 1956: Tính đến niên học 
1955 - 1956, tại miền Nam có 172 
trường học của người Việt gốc Hoa 
với 924 lớp học và 145.000 học sinh 
(Trung tâm Lưu trữ 2, hồ sơ số 22340: 
18). Khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn có 
88 trường, trong đó 16 trường trung 
học và 72 trường tiểu học (Trung tâm 
Lưu trữ 2, hồ sơ 16375: 18). 
Trong thời kỳ thuộc Pháp, các trường 
học của người Việt gốc Hoa học ngôn 
ngữ chính là tiếng Hoa, tiếng Việt và 
các sinh ngữ khác là ngôn ngữ lựa 
chọn nên khi chuyển đổi sang tiếng 
Việt các trường phải học một chương 
trình chuyển tiếp. Chương trình 
chuyển tiếp này bắt đầu thực hiện từ 
năm 1958 và được áp dụng đến niên 
học 1961 - 1962. Hệ thống giáo dục phổ 
thông lúc này theo một cơ cấu khung 
thống nhất: Tiểu học (5 năm), Trung 
học Đệ nhất cấp (4 năm) và Trung học 
Đệ nhị cấp (3 năm), Trung học Đệ 
nhất cấp (như Trung học Cơ sở hiện 
nay) và Trung học Đệ nhị cấp (như 
Trung học Phổ thông hiện nay). Từ 
năm 1956, các trường của người Việt 
gốc Hoa đều được đổi tên và lấy tiếng 
Việt làm ngôn ngữ giảng dạy chính, 
truyền thụ kiến thức bằng tiếng Việt là 
chủ yếu và quản lý hoạt động theo 
quy định của Bộ Quốc gia Giáo dục 
Việt Nam Cộng hòa. 
2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ 
QUỐC GIA GIÁO DỤC VIỆT NAM 
CỘNG HÒA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG 
GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI VIỆT GỐC 
HOA 
2.1. Quy định về thành lập, đổi tên 
và quản trị trường học 
Việc mở trường học của người Việt 
gốc Hoa được Bộ Quốc gia Giáo dục 
quy định cụ thể như sau: căn cứ theo 
quy định về học sinh người Việt gốc 
Hoa, cứ có 5 học sinh trở lên theo học 
đều phải làm thủ tục xin phép chính 
quyền mới được phép mở trường. 
Người xin mở trường là người Việt 
hoặc người Hoa có quốc tịch Việt 
Nam, có bằng cấp giáo viên phù hợp, 
giấy chứng nhận sức khỏe, giấy 
chứng nhận nhân phẩm của bang, hội. 
Sau khi được phê chuẩn mới có thể 
mở trường. Hiệu trưởng mới phải do 
người Việt hoặc người Hoa sinh ra ở 
Việt Nam đảm nhận (Trung tâm Lưu 
trữ 2, hồ sơ 19080: 33). 
Về việc đổi tên trường: Theo Thông tư 
số 182-GD/PCI/TT ngày 6/4/1957 của 
Bộ Quốc gia Giáo dục quy định đặt 
tên các trường, Nha Giám đốc Tư 
thục và Bình dân Giáo dục yêu cầu 
hiệu trưởng các trường tư thục dạy 
học sinh người Việt gốc Hoa tại Sài 
Gòn đổi tên trường (...) với một trong 
số ba danh hiệu do nhà trường đề 
nghị và có ý nghĩa về đức dục, trí dục 
hay thể dục (Trung tâm Lưu trữ 2, hồ 
sơ 19339: 17). Thời gian này, nhiều 
trường học đã sửa đổi tên trường 
theo quy định. Ví dụ Tuệ Thành học 
hiệu đổi là Trung Tiểu học Việt Nam 
Tư thục Tuệ Thành; Nghĩa An học 
hiệu (trường công lập Bang Triều 
Châu) sửa tên thành Trung Tiểu học 
Việt Nam Tư thục Nghĩa An; Shun-
Chin học hiệu (trường công lập Bang 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
52 
Hẹ) đã sửa lại là Tiểu học Việt Nam 
Tư thục Sùng Chánh... (Trung tâm 
Lưu trữ 2, hồ sơ 16992: 07). 
Về quản trị trường học: Bắt đầu từ 
năm 1959 các trường trung học áp 
dụng hoàn toàn chương trình Trung 
học Đệ nhất cấp Việt Nam nên rất cần 
có những hiệu trưởng đủ năng lực để 
quản lý, điều hành trường học. Tuy 
nhiên, nhiều trường học không thuê 
được hiệu trưởng phù hợp. Để giúp 
các trường trong việc tổ chức, từ niên 
học 1959 - 1960, Bộ quy định mỗi 
trường trung học dạy trẻ em người 
Việt gốc Hoa có một hiệu trưởng trung 
học Việt Nam làm cố vấn. Vị cố vấn 
này phải thường xuyên có mặt tại 
trường mỗi ngày ít nhất hai tiếng đồng 
hồ để chỉ dẫn cách tổ chức và điều 
khiển trường. Ví dụ ông hiệu trưởng 
Trường Trung học Trương Vĩnh Ký sẽ 
được gửi làm cố vấn cho Trường 
Trung học Tuệ Thành, ông hiệu 
trưởng Trường Chu Văn An cố vấn 
cho Trường Tư thục Nghĩa An 
(Trung tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 16992: 
10). Mặc dù Bộ Quốc gia Giáo dục đã 
đưa ra nhiều quy định cụ thể đối với 
mọi hoạt động trong các trường học 
của người Việt gốc Hoa, tuy nhiên 
việc thực hiện chưa được sát sao. Ví 
dụ còn có nhiều thiếu sót như bảng 
lớp, biểu đồ, thời khóa biểu, trình bày 
chưa thống nhất. Trình độ học sinh về 
môn Việt ngữ vẫn còn rất kém. Giáo 
viên không có giáo án cụ thể theo quy 
định, không có vở ghi đầu bài, sổ ghi 
bài dạy hằng ngày Trước tình hình 
đó, đối với việc học tiếng Việt, Bộ 
Quốc gia Giáo dục đã có những chấn 
chỉnh cụ thể đối với các trường học 
này. Theo đó, ngày 19/12/1959, Đặc 
ủy Trung Hoa Sự vụ Nguyễn Văn 
Vàng đã có công văn gửi Tổng Giám 
đốc Trung, Tiểu học và Bình dân Giáo 
dục Sài Gòn, về việc các trường tư 
thục dạy trẻ em người Việt gốc Hoa: 
“Các Ty giáo huấn tỉnh nên khuyến 
khích các trường này trình cho nhiều 
học sinh thi bằng Tiểu học Việt Nam 
vào kỳ thi năm 1960. Sau rốt, để có 
thể đi đến việc áp dụng một chương 
trình hoàn toàn Việt Nam vào niên học 
1961 - 1962, thiểm Nha thiết tưởng 
cũng nên thông đạt cho các tư thục 
nói trên biết để họ có đủ thời giờ 
chuẩn bị, là đến niên khóa 1960 - 
1961, trường sẽ phải được điều khiển 
thật sự do một vị hiệu trưởng có quốc 
tịch Việt Nam và có đủ điều kiện về 
văn bằng như hiệu trưởng các trường 
Việt Nam khác” (Trung tâm Lưu trữ 2, 
hồ sơ 16992: 11). Để những quy định 
có thể thực thi một cách hiệu quả 
trong hệ thống trường học của người 
Hoa, chính quyền đã áp dụng mọi 
biện pháp để đạt được kết quả tối ưu. 
Điều đó thể hiện rõ là ở niên học 
1961 - 1962 các trường học của người 
Việt gốc Hoa đã hoàn toàn dạy ngôn 
ngữ tiếng Việt. 
2.2. Quy định về sách giáo khoa, số 
giờ dạy tiếng Việt và tiếng Hoa 
Về sách dạy tiếng Việt: Theo báo Dân 
Nguyện ngày 11/9/1957, các trường 
học của người Việt gốc Hoa được chỉ 
thị của Bộ Quốc gia Giáo dục phải dạy 
mỗi tuần ít nhất 9 tiếng đồng hồ Việt 
PHẠM NGỌC HƯỜNG – QUY ĐỊNH VỀ GIÁO DỤC CỦA BỘ QUỐC GIA 
53 
ngữ cho mỗi lớp. Được chỉ thị, những 
trường của người Việt gốc Hoa lần 
lượt tự đặt ra nhiều sách vần chữ Việt 
dùng dạy học sinh người Việt gốc Hoa 
một cách gần như lấy có, nếu không 
nói trắng ra là miễn cưỡng. “Trong lúc 
biết bao nhiêu sách vần bằng tiếng 
Việt khác nằm nhan nhản khắp các 
hàng sách, tại sao những trường ấy 
không chịu mua về dùng; hoặc tìm 
người am hiểu rành rẽ nhờ soạn sách 
giáo khoa bằng tiếng Việt, lại đi làm 
một việc không tinh thần giáo khoa, 
cũng như thiếu cả phương pháp sư 
phạm?” (Trung tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 
19080: 35). Như vậy các trường học 
của người Việt gốc Hoa đã thực hiện 
quy định giảng dạy tiếng Việt do Bộ 
Quốc gia Giáo dục quy định, nhưng 
chỉ học cho có lệ. Nhiều trường miễn 
cưỡng sử dụng nhiều loại sách tiếng 
Việt không đúng như quy định để dạy 
cho học sinh. Lý do là trường của 
người Việt gốc Hoa theo lệ cũ luôn 
chủ trương dù hay dù dở chỉ dùng 
sách do người Hoa làm ra. Vì thế mới 
xảy ra trường hợp làm vần Việt ngữ 
thiếu phương pháp sư phạm và thiếu 
cả đức dục ảnh hưởng không tốt đến 
giáo dục đạo đức trẻ em ở buổi ban 
đầu. Do đó, Bộ Quốc gia Giáo dục đã 
có những động thái kiểm soát chặt 
chẽ vấn đề sách giáo khoa bằng tiếng 
Việt, nhằm tránh cho học sinh người 
Việt gốc Hoa những ảnh hưởng không 
đáng có về sau. 
Về số giờ dạy tiếng Việt: Sau khi 
chính sách Việt tịch được thi hành 
trong vấn đề giáo dục, các bộ đều 
đồng ý rằng: “một khi đã thành công 
dân Việt Nam người Việt gốc Hoa 
phải hấp thụ văn hóa Việt Nam. Bộ 
Quốc gia Giáo dục như thấy đông trẻ 
em đó chưa thông hiểu rành Việt ngữ 
nên Bộ đã quy định một chương trình 
chuyển tiếp để áp dụng tại các 
trường học Hoa kiều hiện nay” (Trung 
tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 11963: 16). Từ 
năm 1956, số giờ dạy tiếng Việt trong 
trường học người Việt gốc Hoa ngày 
càng tăng lên. Người Việt gốc Hoa 
muốn giữ truyền thống văn hóa Trung 
Hoa nên đã kiến nghị với chính 
quyền về việc coi tiếng Hoa cũng là 
ngôn ngữ chính tương đương với 
tiếng Việt. Hoa ngữ không phải kể 
như là một ngoại ngữ và được kể 
như một sinh ngữ thứ 2, sau Việt ngữ. 
Và vì Hoa ngữ khó học hơn một 
ngoại ngữ khác, họ xin Bộ Giáo dục 
cho phép các trường của người Việt 
gốc Hoa dạy số giờ Hoa ngữ nhiều 
hơn so với số giờ ngoại ngữ ấn định 
cho trường Việt Nam. Họ còn muốn 
các trường của người Việt gốc Hoa 
được hưởng chế độ này lâu dài để 
khỏi phải lo ngại về tương lai và một 
người dân Việt Nam gốc Hoa có thể 
được học và cho con cái học Hoa 
ngữ (Trung tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 5559: 
16). 
Bộ Quốc gia Giáo dục cho rằng, căn 
cứ Điều 16 Dụ ngày 7/12/1955, những 
trẻ em người Việt gốc Hoa phải theo 
học Việt ngữ tại những trường thiết 
lập cho người Việt Nam. Nhưng xét 
thấy một số đông trẻ em ấy chưa hiểu 
Việt ngữ và đang theo học các trường 
tư thục của người Việt gốc Hoa, Bộ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
54 
Quốc gia Giáo dục cho phép các 
trường tiểu học tư thục của người Việt 
gốc Hoa đã có giấy phép từ trước 
được tiếp tục hoạt động. Mặt khác, 
Bộ Quốc gia Giáo dục cũng đã cho 
phép thành lập 15 trường tư thục 
Trung học Đệ nhất cấp Việt Nam để 
thu nhận học sinh người Việt gốc Hoa 
và học sinh Trung Hoa chưa nhập 
quốc tịch Việt Nam. Các trường tiểu 
học tư thục của người Việt gốc Hoa 
vẫn được phép dùng Hoa ngữ là 
chuyển ngữ như từ trước đến nay, 
chỉ phải dạy thêm mỗi tuần 8 giờ Việt 
ngữ ở 3 lớp trên và 5 giờ ở 3 lớp 
dưới. Còn 15 trường tư thục trung 
học thì được áp dụng một chương 
trình chuyển tiếp, căn cứ vào chương 
trình Trung học Đệ nhất cấp chính 
thức của Việt Nam. Chương trình 
chuyển tiếp này ấn định trong số 31 
giờ hay 32 giờ hàng tuần, các trường 
chỉ dạy 9 giờ Việt văn, còn lại 23 
hoặc 24 giờ đều dạy bằng Hoa văn. 
Nếu muốn dạy 1 sinh ngữ khác, 
chẳng hạn như Anh ngữ, thì số giờ 
Hoa ngữ vẫn còn nhiều và rất cao đối 
với số giờ sinh ngữ mà các trường 
trung học Việt Nam phải dạy (Trung 
tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 5559: 18). Hơn 
nữa, để cho phụ huynh khỏi lo ngại 
về tương lai của con em mình, Bộ 
Quốc gia Giáo dục cũng đã cấp giấy 
phép tạm cho thành lập những trường 
tư thục bậc tiểu học để thu nhận trẻ 
người Việt gốc Hoa. Thủ tục cấp giấy 
phép được đơn giản hóa để nhà 
trường tạm thời khai giảng trong khi 
chờ học bổ sung hồ sơ. 
Trong thời gian chuyển tiếp (1958 - 
1962), các trường học dùng Việt ngữ 
làm chuyển ngữ nhưng được phép 
dạy 1/3 thời lượng là Hoa văn. Ngoài 
ra, Bộ Quốc gia Giáo dục đã cho lập 
một số trường Trung học Đệ nhất cấp 
để thu nhận trẻ em người Việt gốc 
Hoa đã học hết bậc tiểu học và muốn 
theo học bậc trung học. 
Nhìn chung, Bộ Quốc gia Giáo dục đã 
thi hành mọi biện pháp cần thiết để 
vấn đề học tập của trẻ em người Hoa 
mới nhập Việt tịch không bị trở ngại. 
Tuy vậy, vấn đề giảng dạy Việt ngữ 
trong các trường học của người Việt 
gốc Hoa còn nhiều bất cập. Giáo viên 
dạy tiếng Việt đa số là sinh viên vừa 
tốt nghiệp, phần nhiều chưa có đủ 
năng lực cũng như kinh nghiệm giảng 
dạy, nên hiệu quả giáo dục chưa cao, 
các giáo viên này phần nhiều cũng 
không hiểu tiếng Hoa nên bị hạn chế 
trong việc truyền dạy kiến thức. Thời 
điểm lúc đó, sách giáo khoa dạy tiếng 
Việt còn thiếu thốn, trình độ giáo viên 
chưa cao, nên tiếng Việt chưa thu hút 
được học sinh, học sinh học tập một 
cách miễn cưỡng, lấy lệ. Bộ Quốc gia 
Giáo dục cũng biết rõ tình hình, nên 
thường xuyên cử người kiểm tra, đốc 
thúc việc học tiếng Việt. 
Số giờ dạy tiếng Việt từ năm 1959 - 
1962 
Niên học 
 1959 - 1960 
Niên học 
1960 - 1961 
Niên học 
1961 - 1962 
Sơ, tiểu ... 10 
giờ 
Cao, tiểu  16 
giờ 
Trung học  18 
Sơ, tiểu ... 
18 giờ 
Cao, tiểu  
hoàn toàn 
Việt Nam 
Hoàn toàn 
Việt Nam 
PHẠM NGỌC HƯỜNG – QUY ĐỊNH VỀ GIÁO DỤC CỦA BỘ QUỐC GIA 
55 
giờ (áp dụng 
hoàn toàn 
chương trình Đệ 
nhất cấp Việt 
Nam) 
Nguồn: Công văn của Nha Tổng giám đốc 
Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục số 
12.786-GD/TTHTR ngày 10/10/1958 (Trung 
tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 5559: 20). 
Theo đó, qua niên học 1959 - 1960, 
Ban Trung học với 18 giờ Việt ngữ áp 
dụng hoàn toàn chương trình Trung 
học Đệ nhất cấp Việt Nam, còn lại 6 
giờ dạy ngoại ngữ. Theo chương trình 
Trung học Đệ nhất cấp Việt Nam chỉ 
có 2 môn ngoại ngữ là Anh ngữ và 
Pháp ngữ. Để giúp những học sinh 
người Việt gốc Hoa theo học Ban 
Trung học Đệ nhất cấp được dễ dàng, 
Bộ Quốc gia Giáo dục đã đưa thêm 
vào chương trình dạy ngoại ngữ là 
môn Hoa ngữ. Như vậy học sinh 
người Việt gốc Hoa ở Ban Trung học 
có thể chọn 2 môn trong 3 môn ngoại 
ngữ (Trung tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 
16992: 08). Ban Tiểu học thu ngắn 
thời gian chuyển tiếp để qua niên học 
1961 - 1962, chương trình tiểu học 
Việt Nam được hoàn toàn áp dụng 
giảng dạy bằng tiếng Việt. Thêm môn 
Hoa ngữ trong chương trình Trung 
học Đệ nhất cấp Việt Nam. 
Đến năm 1962 - 1963, các trường học 
của người Việt gốc Hoa đã hoàn toàn 
sử dụng tiếng Việt trong việc giảng 
dạy. Đồng thời học sinh sau khi tốt 
nghiệp có thể tiếp tục theo học ở 
trường học Việt Nam cấp cao hơn. 
Năm 1962, ở các trường học của 
người Việt gốc Hoa sách giáo khoa 
hoàn toàn sử dụng tiếng Việt, tiếng 
Hoa trở thành môn ngoại ngữ tự 
chọn. 
2.3. Quy định về giáo viên giảng 
dạy 
Bắt đầu từ năm 1956, Bộ Quốc gia 
Giáo dục quy định giáo viên môn 
Tiếng Việt trong các trường học người 
Việt gốc Hoa phải có bằng cấp để dạy 
tiếng Việt, đi kèm theo quy định này 
là việc chuẩn hóa giáo viên. “Theo 
quy định của Bộ Quốc gia Giáo dục thì 
các giáo sư Việt ngữ giảng dạy ở các 
trường của người Việt gốc Hoa đều 
phải là những giáo viên có bằng trung 
hay tiểu học do các trường công lập 
Việt Nam cấp mới có hiệu lực, các 
văn bằng, chứng chỉ do các trường tư 
Việt Nam cấp phát đều không hợp lệ” 
(Trung tâm Lưu trữ 2, hồ sơ 19080: 
36). Một số những quy định cụ thể 
khác đối với giáo viên như: “Giáo viên 
Hoa kiều phụ trách việc dạy Việt ngữ 
tại các trường tiểu học hay trung học 
Hoa kiều phải, hoặc đã trúng tuyển kỳ 
thi lấy văn bằng Khả năng giáo huấn 
Việt ngữ do Bộ Quốc gia Giáo dục tổ 
chức, hoặc có ít nhất bằng Trung học 
Đệ nhất cấp Việt Nam; Giáo viên có 
quốc tịch Việt Nam, dạy Việt ngữ tại 
các trường tiểu học hay trung học 
Hoa kiều, phải có ít nhất bằng Trung 
học Đệ nhất cấp hay một văn bằng 
tương đương” (Trung tâm Lưu trữ 2, 
hồ sơ 22340: 20). Đồng thời giáo 
viên phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ 
như: giấy khai sinh, lý lịch, giấy khám 
sức khỏe, bản sao bằng cấp... Trước 
tình hình nhiều giáo viên thiếu chứng 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (249) 2019 
56 
chỉ, văn bằng theo quy định, Bộ Quốc 
gia Giáo dục vẫn cho họ dạy tạm thời 
nhưng phải thi bổ sung. Ngoài ra, Bộ 
cũng tổ chức những lớp thi lấy giáo 
viên tiếng Việt để bổ sung số giáo 
viên còn thiếu trong các trường tiểu 
học. 
Về nguồn giáo viên tiếng Hoa: khi 
Chính quyền Sài Gòn mới thành lập, 
những quy định đối với giáo viên chưa 
triển khai, Ủy ban Sự vụ người Hoa 
theo thường kỳ đã tổ chức nhiều lớp 
sư phạm, khuyến khích người Việt 
gốc Hoa học lên cao vào các lớp sư 
phạm, mở lớp phụ đạo bồi dưỡng 
nâng cao trình độ cho giáo viên người 
Việt gốc Hoa. Ngoài giáo viên người 
Việt gốc Hoa là nguồn giáo viên lớn 
tuyển từ Đài Loan sang, năm 1955, 
Chính phủ Trung Hoa Tự do ở Đài 
Loan vẫn gửi giáo viên các cấp qua 
Việt Nam để kiểm tra về tình hình giáo 
dục học sinh người Việt gốc Hoa, 
kiểm soát các tổ chức giáo dục, mở 
khóa tu nghiệp cho giáo viên. Ngoài ra, 
mỗi năm một số hiệu trưởng và giáo 
viên người Việt gốc Hoa được mời về 
Đài Loan để dự một khóa tu nghiệp 
riêng dành cho họ (Trung tâm Lưu trữ 
2, hồ sơ 22340: 11). Năm 1956 đã 
tuyển được 26 giáo viên từ Đài Loan 
sang Việt Nam giảng dạy. Trong niên 
học 1958 - 1959, Bộ Quốc gia Giáo 
dục quy định chỉ sử dụng giáo viên 
người Việt gốc Hoa dạy tiếng Hoa 
trong các trường học đã chuyển thành 
trường tư thục Việt Nam (Trung tâm 
Lưu trữ 2, hồ sơ 16992: 5). Để giải 
quyết vấn đề giáo viên giảng dạy 
trong các trường học người Việt gốc 
Hoa, Bộ Quốc gia Giáo dục đã cho 
phép mở lớp tu nghiệp cho giáo viên 
Việt Nam dạy ở các trường học của 
người Việt gốc Hoa (Trung tâm Lưu 
trữ 2, hồ sơ 16992: 8). Nhìn chung, 
sau khi các trường học của người Việt 
gốc Hoa dần đi vào ổn định, các chính 
sách đào tạo và tuyển dụng giáo viên 
cho các trường này được quy định cụ 
thể hơn. 
3. KẾT LUẬN 
Từ quy định của Bộ Quốc gia Giáo 
dục, giáo dục của người Việt gốc Hoa 
giai đoạn 1955 - 1975 đã có sự mở 
rộng, phát triển, đáp ứng được nhu 
cầu học tập gia tăng nhanh chóng của 
người dân. Giáo dục của người Việt 
gốc Hoa giai đoạn này là một bộ phận 
trong toàn bộ nền giáo dục Việt Nam 
đương thời. Việc tìm hiểu những quy 
định, tổng kết trong giáo dục nhằm 
làm rõ thêm vấn đề giáo dục trong 
cộng đồng người Việt gốc Hoa trong 
một giai đoạn lịch sử vì sự hợp tác 
theo xu thế phát triển chung.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Trung tâm Lưu trữ 2. Công văn về việc nhập quốc tịch Viêt Nam, hồ sơ 11963, Phủ 
Thủ tướng Đệ nhất. 
2. Trung tâm Lưu trữ 2. Công văn số 12.786-GD/TTHTR ngày 10/10/1958 của Nha 
Tổng giám đốc Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục, hồ sơ 5559. 
PHẠM NGỌC HƯỜNG – QUY ĐỊNH VỀ GIÁO DỤC CỦA BỘ QUỐC GIA 
57 
3. Trung tâm Lưu trữ 2. Hồ sơ Tập bản tin, báo cắt về các trường tư thục Hoa Kiều và 
Quốc học năm 1961, hồ sơ số 19080, Phủ Tổng thống Đệ nhất cộng hòa. 
4. Trung tâm Lưu trữ 2. Tập bản tin, báo cắt nước ngoài về người Hoa sống ở Việt Nam, 
hồ sơ số 16992, Phủ Thủ tướng Đệ nhất. 
5. Trung tâm Lưu trữ 2. Tập báo cáo của Bộ Quốc gia Giáo dục về tình trạng các 
trường Hoa Kiều ở Việt Nam năm 1950 - 1956, hồ sơ 22340, Phủ Thủ tướng Đệ nhất. 
6. Trung tâm Lưu trữ 2. Thông báo về các trường tư thục Hoa kiều và Việt gốc Hoa tại 
Thủ đô đổi danh hiệu cho phù hợp với ý nghĩa giáo dục, hồ sơ 19339, Phủ Tổng thống 
Đệ nhất cộng hòa. 
7. Trung tâm Lưu trữ 2. Thông cáo của Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa về việc thi 
hành Dụ số 48 ngày 21/8/1955 cho phép Hoa kiều sinh ở Việt Nam được nhập quốc 
tịch Việt Nam, hồ sơ 6579, Phủ Thủ tướng Đệ nhất. 
8. Trung tâm Lưu trữ 2. Về nguyện vọng của giới Hoa kiều tại Việt Nam năm 1957 - 
1958, hồ sơ 5559, Phủ Tổng thống Đệ nhất cộng hòa. 

File đính kèm:

  • pdfquy_dinh_ve_giao_duc_cua_bo_quoc_gia_giao_duc_viet_nam_cong.pdf