Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh

Abstract: Academic advisers play an important role in credit-based training. At Vinh University,

the roles and responsibilities of academic advisors are concerned because they are the key to

success in the training process. The paper presents the reality of the activities of academic advisors

at Vinh University, pointing out the remaining problems and its causes in advising activities at

Vinh University. Since then, we propose a number of solutions to improve the effectiveness of the

activities of academic advisors at Vinh University.

pdf 6 trang yennguyen 4380
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh

Thực trạng hoạt động của cố vấn học tập ở trường Đại học Vinh
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 79-83; 225 
79 
Email: annn@vinhuni.edu.vn 
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CỐ VẤN HỌC TẬP 
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH 
Nguyễn Như An - Trường Đại học Vinh 
Đặng Thị Tình - Học viên cao học khóa 25, Trường Đại học Vinh 
Ngày nhận bài: 06/5/2019; ngày chỉnh sửa: 27/5/2019; ngày duyệt đăng: 29/5/2019. 
Abstract: Academic advisers play an important role in credit-based training. At Vinh University, 
the roles and responsibilities of academic advisors are concerned because they are the key to 
success in the training process. The paper presents the reality of the activities of academic advisors 
at Vinh University, pointing out the remaining problems and its causes in advising activities at 
Vinh University. Since then, we propose a number of solutions to improve the effectiveness of the 
activities of academic advisors at Vinh University. 
Keywords: Academic adviser, activities of academic adviser. 
1. Mở đầu 
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) là một loại hình 
đào tạo có nhiều ưu điểm và mang lại hiệu quả cao. Điều 
này đã được thực tiễn của nhiều nước chứng minh và hiện 
nay hầu hết các trường đại học, cao đẳng ở các nước tiên 
tiến đều áp dụng quản lí đào tạo theo phương thức này. 
Trường Đại học Vinh đã bắt đầu áp dụng đào tạo theo 
HTTC từ khóa tuyển sinh năm 2007 (khóa 48), cho đến 
nay, nhà trường đã thu được những kết quả tích cực. 
Công tác đào tạo đã đi vào nền nếp; chương trình đào tạo 
đã được điều chỉnh phù hợp; công tác quản lí sinh viên 
(SV) và các quy định liên quan đã được xây dựng; 
phương pháp giảng dạy của giảng viên và phương pháp 
học tập của SV cũng dần được thích ứng. Đặc biệt, có 
một chức danh mới xuất hiện và không thể thiếu được 
trong quá trình đào tạo đó là cố vấn học tập (CVHT). 
CVHT có vai trò quan trọng, là một nhân tố then chốt 
trong chuỗi mắt xích quan hệ giữa nhà trường - giảng 
viên - thị trường lao động; là đầu mối đảm bảo sự phối 
hợp giữa tính chủ động của SV với sự tư vấn, định hướng 
của giảng viên trong quá trình học tập tại trường. Việc 
thực hiện vai trò, nhiệm vụ trong hoạt động CVHT có ý 
nghĩa khẳng định sự thành công hay thất bại của phương 
thức đào tạo theo HTTC. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Thực trạng đội ngũ cố vấn học tập ở Trường Đại 
học Vinh 
Hiện nay, Trường Đại học Vinh có 35 CVHT thuộc 6 
viện và 7 khoa đào tạo. Số lượng CVHT ở các khoa/viện 
được phân bổ theo nhu cầu và số lượng SV. Một số khoa 
có số lượng SV đông như: Luật, Kinh tế, Giáo dục thì mỗi 
ngành có đến 1 hoặc 2 CVHT, còn lại mỗi khoa/viện chỉ 
có 1 đến 3 CVHT. Phần lớn CVHT trẻ (độ tuổi từ 28-40), 
có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên. 
Trình độ và nghiệp vụ: CVHT có trình độ từ thạc sĩ 
trở lên, có khả năng ứng dụng công nghệ vào hoạt động 
CVHT tốt. Tuy nhiên, đội ngũ CHVT chưa được đào tạo 
về các kĩ năng tư vấn mà chỉ thông qua thực tiễn, học hỏi 
kinh nghiệm và tham gia một số cuộc hội thảo về công 
tác CVHT để hoạt động. 
2.2. Thực trạng thực hiện vai trò, nhiệm vụ của cố vấn 
học tập ở Trường Đại học Vinh 
Hiện nay, ở Trường Đại học Vinh, các CVHT đã bắt 
nhịp được với phương thức đào tạo theo HTTC. Các 
CVHT đã thực sự có đóng góp tích cực trong tiến trình 
đào tạo của nhà trường. Mặc dù chức danh CVHT mới 
xuất hiện trong đào tạo theo HTTC nhưng có vai trò 
quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy và học, 
chất lượng giáo dục đại học nói chung, cần thiết cho việc 
đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy 
học, đáp áp ứng mục tiêu đào tạo. 
Phần lớn CVHT là những giảng viên am hiểu về 
chương trình đào tạo thuộc chuyên ngành mình phụ trách, 
nắm vững các quy chế đào tạo của Bộ GD-ĐT, các quy định 
của nhà trường cũng như các phương pháp học tập phù hợp 
để hướng dẫn SV học tập và nghiên cứu khoa học, tư vấn 
cho SV trong cách lựa chọn môn học phù hợp với ngành 
nghề. Bên cạnh đó, CVHT nắm vững các hoạt động mà SV 
phải tham gia trong phương thức học tập theo HTTC. Vì 
vậy, CVHT được xem là một bộ phận không thể tách rời và 
đảm bảo cho quá trình đào tạo vận hành thông suốt. Việc 
phân định rõ vai trò, nhiệm vụ của CVHT đã giúp cho hoạt 
động CVHT đạt hiệu quả mong muốn, tạo ra sản phẩm có 
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xã hội, nhưng nhìn chung 
vẫn đang còn những tồn tại nhất định. 
Căn cứ vào Quy định chức năng, nhiệm vụ CVHT 
(kèm theo Quyết định số 3814 /QĐ-ĐHV ngày 
10/12/1012) [1] và Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 79-83; 225 
80 
hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm theo 
Quyết định số 43/2007/QĐ/BGD-ĐT ngày 15/8/2007 
của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT), năm 2018, chúng tôi tiến 
hành lấy ý kiến của 197 SV từ năm thứ 1 đến năm thứ 4, 
đại diện cho 6 viện và 7 khoa đào tạo để xem xét đánh 
giá của các em về việc thực hiện vai trò, nhiệm vụ CVHT 
học tập nói chung, thu được kết quả như sau: 
Tổng hợp các ý kiến nhận xét của SV và thống kê 
mức độ đánh giá các nội dung có tỉ lệ cao (>50%), có 1 
nội dung được đánh giá ở mức tốt, 5 nội dung được đánh 
giá khá, 7 nội dung ở mức trung bình và không có nội 
dung nào ở mức chưa đạt. Với đánh giá trên, cho thấy, 
CVHT đã thực hiện đúng nhưng chưa phát huy hết vai 
trò, nhiệm vụ của mình và chưa tương xứng với yêu cầu 
của SV trong việc hòa nhập môi trường mới và phương 
thức đào tạo này. Cụ thể: 
* Trong lĩnh vực học tập chỉ có 1 nội dung được đánh 
giá tốt, 2 nội dung được đánh giá khá, 3 nội dung ở mức 
trung bình 
 Kết quả đánh giá 
TT Nội dung đánh giá 
Tốt Khá Trung bình Chưa đạt 
Số 
lượng 
(SL) 
Tỉ lệ 
(%) 
SL 
Tỉ lệ 
(%) 
SL 
Tỉ lệ 
(%) 
SL 
Tỉ lệ 
(%) 
1 
CVHT phổ biến cho SV mục tiêu đào 
tạo của nhà trường 
8 4,06 61 30,96 128 64,97 0 0 
2 
CVHT giúp hiện thực hoá các quy định 
về đào tạo và chương trình, kế hoạch đào 
tạo của nhà trường, của khoa/viện tới SV 
25 12,69 123 62,43 49 24,87 0 0 
3 
Hướng dẫn SV về khung chương trình 
đào tạo, cách lựa chọn và đăng kí học 
phần 
15 7,61 133 67,51 49 24,87 0 0 
4 
CVHT hướng dẫn SV cách chọn ngành 
học và vạch kế hoạch học tập phù hợp 
với hoàn cảnh và sức học của SV 
7 3,55 65 32,99 125 63,45 0 0 
5 
CVHT hướng dẫn SV về phương pháp 
học tập và nghiên cứu khoa học 
8 4,06 49 24,87 140 71,06 0 0 
6 
Xác nhận vào phiếu đăng kí, hủy đăng kí 
học phần cho SV 
113 57,36 80 40,6 4 2,03 0 0 
7 
CVHT tổ chức gặp gỡ SV sau khi biết 
kết quả thi sau từng học kì để nắm bắt 
tiến độ, học lực của SV 
8 4,06 75 38,07 114 57,86 0 0 
8 
CVHT trao đổi và góp ý giúp đỡ với SV 
về các vấn đề cá nhân, xã hội và nghề 
nghiệp 
6 3,04 57 28,93 64 65,98 4 2,03 
9 
Hướng dẫn SV tham gia các hoạt động 
tập thể và tự đánh giá kết quả rèn luyện 
0 0 29 14,72 150 76,14 18 9,13 
10 
Hỗ trợ SV trong việc thực hiện nội quy, 
quy chế về sinh hoạt, rèn luyện, văn hóa 
nhà trường 
30 15,22 110 55,83 57 28,93 0 0 
11 
Phối hợp với các phòng ban chức năng 
trong nhà trường để giải quyết các vấn 
đề cho SV 
37 18,78 123 62,43 37 18,78 0 0 
12 
CVHT họp với lớp SV 1lần/tháng để 
giải quyết công việc 
14 7,1 45 22,84 138 70,05 0 0 
13 
CVHT tạo điều kiện thuận lợi để SV gặp 
gỡ và trao đổi khi gặp khó khăn trong 
học tập, rèn luyện và sinh hoạt 
24 12,18 152 77,15 21 10,65 0 0 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 79-83; 225 
81 
Kết quả khảo sát trên cho thấy CVHT đã hoàn thành 
vai trò là cầu nối trong việc thực hiện hóa nội quy, quy 
định, chương trình đào tạo theo HCTC của khoa/viện, Nhà 
trường tới SV. Phần lớn SV nắm bắt được các quy chế, 
quy định. Điều này được nhiều SV đánh giá CVHT thực 
hiện khá với 62,43%. Tuy nhiên, ảnh hưởng của CVHT 
đến việc xây dựng lộ trình học tập của mỗi SV mình phụ 
trách là chưa có nhiều. Các CVHT thường chỉ xuất hiện 
nhiều nhất khi SV gặp khó khăn trong thời gian đăng kí 
môn học. Một số SV nhận xét công tác CVHT chưa thực 
hiện tốt và chỉ mang tính hình thức, SV còn mong đợi ở 
phía CVHT nhiều mà bản thân CVHT chưa đáp ứng được. 
Trong quá trình vận hành, Nhà trường có những thay đổi, 
vi chỉnh chương trình đào tạo và bổ sung các quy định liên 
quan cho phù hợp với ngành nghề đào tạo, chất lượng đầu 
ra, một số CVHT trẻ chưa nắm bắt kịp thời những thay đổi 
đó hoặc lẫn lộn chương trình đào tạo giữa các khóa học, vì 
vậy, CVHT còn bị hạn chế trong việc phát huy hết vai trò, 
nhiệm vụ tư vấn giúp SV xây dựng kế hoạch học tập nên 
vẫn xảy ra tình trạng SV đăng kí thừa tín chỉ ở một số học 
phần tự chọn. Những quy định, ràng buộc về điểm số cần 
đạt trong mỗi học kì của năm học cũng như điều kiện để 
học theo hình thức này tuy đã được CVHT hướng dẫn 
nhưng chưa rõ ràng, cụ thể nên đã có những trường hợp 
đáng tiếc là SV đăng kí quá nhiều tín chỉ nhưng không đảm 
bảo kết quả học tập của quy chế đào tạo nên phải thôi học, 
hoặc rơi vào diện cảnh báo thôi học. Do vậy, vẫn còn 
24,87% SV đánh giá ở mức trung bình. 
Việc hướng dẫn SV chọn ngành học và vạch kế 
hoạch học tập phù hợp với hoàn cảnh có 63,45% SV 
đánh giá hoạt động này đạt ở mức trung bình. CVHT 
phân loại học lực của từng SV chưa được thường xuyên, 
việc tư vấn cho SV trong học tập và điều chỉnh kế hoạch 
học tập của SV chưa hiệu quả, nhất là đối với những SV 
có học lực yếu, vì vậy, các em không xây dựng được kế 
hoạch học tập cá nhân, đăng kí học tràn lan, bừa bãi, hậu 
quả là số tín chỉ tích lũy và điểm trung bình chung tích 
lũy quá thấp dẫn đến nguy cơ buộc thôi học hoặc không 
tốt nghiệp được trong thời gian quy định. 
Đối với việc hướng dẫn SV nghiên cứu khoa học, hướng 
dẫn SV tham gia các hoạt động học thuật, tư vấn hướng 
nghiệp và việc làm cho SV cụ thể là việc hướng dẫn làm bài 
tập lớn, đề án tốt nghiệp có 71,06% SV đánh giá ở mức trung 
bình. Phần lớn SV chưa chú trọng đến nghiên cứu khoa học 
và một số em quan tâm thì thường tìm đến các giảng viên mà 
mình yêu thích, tin tưởng hoặc qua bạn bè, anh chị để tìm hiểu 
và được tư vấn và CVHT cũng cho rằng đã có giảng viên 
hướng dẫn và SV có thể tự tìm hiểu nên hầu như CVHT 
không thực hiện hoặc thực hiện một cách qua loa. 
Tuy nhiên, trong việc xác nhận vào phiếu đăng kí, 
hủy đăng kí học phần được CVHT rất chu đáo, kịp thời. 
Tiêu chí này có 57,36% các em đánh giá tốt. 
* Trong lĩnh vực rèn luyện, sinh hoạt và định hướng 
nghề nghiệp phần lớn (trên 50%) SV đánh giá ở mức 
trung bình, chỉ 1 nội dung ở mức khá 
Bên cạnh hoạt động tư vấn, trợ giúp về học tập cho 
SV thì công tác tư vấn, hướng dẫn SV trong việc rèn 
luyện đạo đức, tác phong, sinh hoạt, vẫn chưa được 
các CVHT lưu ý đúng mức. Vai trò, nhiệm vụ của CVHT 
trong việc quản lí rèn luyện và sinh hoạt của SV chủ yếu 
được đánh giá mức trung bình. 
Trong lĩnh vực này, CVHT thực hiện chưa đi vào 
chiều sâu, vẫn còn những CVHT không tổ chức gặp mặt 
SV theo định kì hoặc khi có vấn đề cần giải quyết khiến 
họ không nắm rõ tình hình học tập, sinh hoạt cũng như tâm 
tư, tình cảm của SV. Hàng năm, nhiều SV của trường nhận 
hình thức kỉ luật từ khiển trách, cảnh cáo, cảnh cáo học vụ, 
đình chỉ học 1 năm hoặc buộc thôi học. Ngoài những lỗi 
về học tập, nhiều sai phạm khác liên quan đến đạo đức mà 
nhiều nhất là thi hộ cho người khác hoặc nhờ người khác 
thi hộ, nếu CVHT thường xuyên nhắc nhở và cảnh báo 
SV thì chắc chắn số trường hợp bị kỉ luật sẽ giảm. 
Việc kiểm tra, theo dõi, nắm bắt thông tin những SV 
không đăng kí học và tự ý bỏ học chưa được phối hợp 
kịp thời và đồng bộ với đội ngũ quản lí SV để báo cáo 
kịp thời lên nhà trường, vì vậy, có những SV không đăng 
kí học, thậm chí bỏ học hàng kì nhưng vẫn không bị xử 
lí theo quy định. 
Trong đào tạo theo HTTC, các lớp học được tổ chức 
theo học phần, việc theo dõi mức độ chuyên cần, tham 
gia các hoạt động và quá trình rèn luyện của SV là một 
vấn đề khó khăn đối với CVHT. Ở Trường Đại học Vinh 
đã có bộ phận chuyên trách là Trợ lí Quản lí SV và sự 
phối hợp của giảng viên, Bí thư Liên chi đoàn nên CVHT 
chỉ tham gia với vai trò nhỏ. Việc định hướng nghề 
nghiệp cho SV chưa được quan tâm đúng mức, chưa giúp 
các em đánh giá lại hoặc khơi dậy sở thích, năng lực và 
đam mê với nghề nghiệp trong tương lai. 
Có 1 nội dung được 55,83% SV đánh giá khá, đó là 
việc CVHT là cầu nối hỗ trợ SV trong việc thực hiện nội 
quy, quy định về sinh hoạt, rèn luyện, văn hóa nhà trường. 
* Trong các hoạt động khác có 2 nội dung đước đánh 
giá ở mức khá và 1 nội dung ở mức trung bình 
Việc tạo điều kiện thuận lợi để SV trao đổi và sự phối 
hợp giữa các CVHT với các phòng, ban, trung tâm, đoàn 
thể trong Nhà trường được nhiều SV đánh giá ở mức khá. 
Tuy nhiên, CVHT chủ yếu tập trung các đầu công việc 
là xử lí học vụ, còn các nhiệm vụ khác chưa quan tâm 
đúng mức. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 79-83; 225 
82 
Họp lớp là cơ hội để CVHT nắm bắt, tìm hiểu tâm tư, tình 
cảm, nguyện vọng và hoàn cảnh của SV nhưng ít CVHT 
tham gia. Nội dung này có 70,05% SV đánh giá ở mức trung 
bình. Chế độ báo cáo và tham mưu cho Nhà trường và 
khoa/viện CVHT đang còn xem nhẹ, chưa đi vào trọng tâm 
của hoạt động để tìm ra các giải pháp có tính đột phá. 
2.3. Nguyên nhân của thực trạng 
Trong bất kì phương thức đào tạo nào, nhân tố quyết 
định kết quả dạy học cũng là đội ngũ người dạy và người 
học. Chuyển sang đào tạo theo HTTC với triết lí “lấy hoạt 
động của người học làm trung tâm”, do vậy, nhận thức và 
hiểu biết về các đặc điểm của quá trình dạy học theo HTTC 
của mọi đối tượng liên quan trong đào tạo chưa đầy đủ, 
thấu đáo. Ngay chính bản thân CVHT chưa thấy hết được 
vị trí, vai trò cố vấn của mình đối với SV để hoàn thành tốt 
nhiệm vụ. Họ xem giảng dạy là công tác chủ đạo, còn 
CVHT chỉ giữ vai trò kiêm nhiệm, ngắn hạn. 
Một trong những nguyên nhân chính cho những tồn tại 
này là do một số quy định về công tác CVHT chưa thực 
sự hợp lí, tạo sự quá tải trong khối lượng công việc mà 
CVHT phải thực hiện trong khi những nhiệm vụ đó lại 
trùng lặp với chức năng của một số đơn vị trong trường. 
Việc phân nhiệm một số công việc giữa CVHT, Trợ lí đào 
tạo, Trợ lí quản lí SV, Phòng Đào tạo, Phòng Công tác 
chính trị HS-SV, Trung tâm Hỗ trợ SV và Quan hệ doanh 
nghiệp chưa rõ ràng dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm cho 
nhau và xử lí công việc còn tốn kém nhiều thời gian. 
Việc thay đổi CVHT hàng năm cũng là nguyên nhân 
khiến công tác CVHT không đạt hiệu quả cao. Nhiều 
giảng viên xin không tham gia công tác này, đặc biệt là 
giảng viên lớn tuổi, có cấp bậc quản lí, hoặc những cán 
bộ tham gia các lớp học, bồi dưỡng nâng cao trình độ 
chuyên môn, việc cá nhân, gia đình... dẫn đến có sự 
chuyển giao giữa các CVHT nên việc theo dõi, nắm bắt 
tình hình học tập, rèn luyện của SV bất lợi hơn. 
Đội ngũ CVHT chưa được sàng lọc và đào tạo về kĩ 
năng tư vấn, chưa phát huy hết vai trò cố vấn cho người 
học. Trong khi, hầu hết các nước trên thế giới, CVHT đều 
được đào tạo từ các ngành trợ giúp hoặc tốt nghiệp từ 
ngành Tâm lí học, Giáo dục học hoặc Công tác xã hội. Mỗi 
SV có một kế hoạch học tập và thời khóa biểu riêng nên 
rất khó để có thể sắp xếp thời gian gặp lớp hàng tuần. Do 
đó, cả SV và CVHT đều ngại gặp để tư vấn, hầu hết các 
buổi gặp gỡ SV đều là ngoài giờ làm việc. Ngoài ra, tính 
chất không bắt buộc của việc gặp gỡ CVHT dẫn đến số 
lượng SV tìm gặp CVHT còn rất hạn chế. Phần lớn SV 
chưa có sự hiểu biết đầy đủ về phương thức đào tạo này. 
Họ chưa chủ động đến gặp CVHT để xin tư vấn khi cần. 
Bên cạnh đó, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của 
CVHT chưa được xem là tiêu chuẩn bình xét thi đua 
hàng năm. Trường, khoa/viện và bộ môn không có cơ 
chế theo dõi và xử lí các trường hợp CVHT không làm 
tốt công tác cố vấn của mình. 
2.4. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt 
động của đội ngũ cố vấn học tập ở Trường Đại học Vinh 
2.4.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cố vấn học tập và 
sinh viên về vai trò, nhiệm vụ của cố vấn học tập 
Nâng cao vai trò, nhận thức về tầm quan trọng của 
CVHT đối với các lực lượng giáo dục trong nhà trường, 
đặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên tham gia làm công 
tác CVHT cũng như SV là công việc hết sức quan trọng, 
là tiền đề để thực hiện hiệu quả các biện pháp khác. 
CVHT hiểu đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của 
mình, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính 
tự giác, tự nguyện, tâm huyết với công việc, đồng thời 
tạo sự thống nhất cao trong nhận thức của cán bộ quản lí 
và toàn thể cán bộ trong nhà trường về ý nghĩa và tầm 
quan trọng của hoạt động CVHT để từ đó có được sự 
phối hợp, sự đồng thuận cao trong việc thực hiện nhiệm 
vụ. Vì vậy, Nhà trường cần: 
- Cung cấp thông tin cho các lực lượng tham gia giáo 
dục trong nhà trường và SV thấy được vai trò, nhiệm vụ 
CVHT thông qua các văn bản quy định hoặc qua các 
cuộc hội họp. 
- Đưa ra mục tiêu, những kì vọng mà nhà trường 
mong muốn ở CVHT để họ có ý thức trách nhiệm hơn, 
tự nỗ lực, cố gắng đóng góp cho nhà trường bằng cách 
giới hạn tỉ lệ tình trạng SV bị cảnh báo thôi học, bị buộc 
thôi học, bị xử lí kỉ luật ở các khoa/viện. 
- Xác định trách nhiệm của CVHT đối với việc nâng 
cao chất lượng đào tạo. CVHT phải thấy rõ trách nhiệm 
của mình trong sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học để từ 
đó phát huy tốt vai trò của mình, khắc phục những nhận 
thức chưa đúng đắn, chưa đầy đủ về vai trò của CVHT. 
2.4.2. Xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cố vấn học tập 
- Bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội 
ngũ CVHT 
Hoạt động CVHT ở trường đại học rất đa dạng, 
phong phú, liên quan đến học tập, rèn luyện và tất cả mọi 
mặt trong đời sống của SV, đòi hỏi CVHT phải có nhiều 
thời gian, dành nhiều công sức và tâm huyết. Bên cạnh 
đó, còn đòi hỏi người CVHT cần có những kĩ năng sư 
phạm chuyên biệt như: kĩ năng tư vấn, kĩ năng lắng nghe, 
kĩ năng tìm hiểu đặc điểm tâm lí SV, kĩ năng giáo dục 
thuyết phục, kĩ năng hòa nhập cộng đồng, Các kĩ năng 
trên là những công cụ đắc lực rất cần thiết cho hoạt động 
CVHT. Không chỉ nắm vững các quy chế, quy định về 
công tác đào tạo, công tác SV, CVHT phải hội tụ đầy đủ 
các kĩ năng nghiệp vụ của mình để thuyết phục, tạo niềm 
tin ở SV, từ đó tiến hành công việc được hiệu quả. Vì 
vậy, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là nhiệm vụ quan 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 79-83; 225 
83 
trọng, đáp ứng nhu cầu, quyền lợi cho các CVHT. Nhà 
trường cần phải thường xuyên tạo cơ hội cho CVHT 
được tham gia các hội thảo, các diễn đàn về SV. Các hoạt 
động này nên tổ chức thường xuyên, liên tục nhằm xây 
dựng một hệ thống CVHT chuyên nghiệp, có kĩ năng 
cao. Công tác bồi dưỡng còn giúp cho các CVHT củng 
cố kiến thức, kinh nghiệm hoạt động, tạo sự tự tin, lòng 
yêu nghề và nâng cao ý thức trách nhiệm của các CVHT. 
 Nhà trường cần bổ sung các tài liệu tập huấn về công 
tác CVHT. Từng bước xây dựng các tài liệu tập huấn 
chuyên sâu về lĩnh vực này, tham khảo các tài liệu về 
công tác CVHT trong và ngoài nước, hoặc mời các 
chuyên gia về CVHT ở các nước tiên tiến đến tập huấn 
và khuyến khích CVHT tham gia tích cực. Các tài liệu 
để phục vụ tập huấn và bồi dưỡng CVHT có thể theo 
từng chủ đề như: chương trình đào tạo; kĩ năng tư vấn; kĩ 
năng giao tiếp, ứng xử; tâm lí người học 
- Quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ cố vấn học tập 
Quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ CVHT là một khâu cơ 
bản trong công tác cán bộ, nhằm chủ động tạo nguồn 
nhân sự trẻ, tập hợp được nhiều nhân tài, làm cơ sở cho 
việc đào tạo, bố trí, sử dụng và phát triển đội ngũ CVHT 
bảo đảm về số lượng, chất lượng, có cơ cấu hợp lí và sự 
chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ. Với phương 
châm đổi mới và có tính kế thừa, công tác quy hoạch và 
tạo nguồn cần được bổ sung hàng năm. Lựa chọn những 
giảng viên nhiệt huyết, có tinh thần trách nhiệm cao trong 
công việc, biết nắm bắt tâm lí lứa tuổi SV để đưa vào quy 
hoạch, tạo nguồn. 
- Phân công, bố trí đội ngũ CVHT 
Phân công CVHT phù hợp với năng lực và sở trường 
của mỗi cá nhân CVHT và kế hoạch của nhà trường. Lựa 
chọn CVHT đáp ứng yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ 
và có thể đảm nhận nhiệm vụ lâu dài, hạn chế việc thay 
đổi CVHT giữa năm học, khóa học. 
2.4.3. Bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các văn bản về hoạt 
động cố vấn học tập 
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các chức danh 
và các đơn vị để rà soát, phân công nhiệm vụ phù hợp, 
trách chồng chéo. Xem xét, chuyển giao một số công 
việc CVHT đang đảm nhận cho các chức danh khác liên 
quan để họ có thời gian làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa 
học, giảng dạy và tham gia hoạt động CVHT có chất 
lượng hơn. 
2.4.4. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động cố vấn 
học tập 
- Nhà trường cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá 
việc thực hiện hoạt động CVHT theo kế hoạch hoặc đột 
xuất. Việc đánh giá hoạt động CVHT cần phải chính xác 
vì vậy phải lưu ý đến ý kiến từ nhiều kênh thông tin để 
kết quả đánh giá được thuyết phục hơn. 
+ Xây dựng chuẩn đánh giá đội ngũ CVHT từ đầu 
năm học để làm căn cứ đánh giá 
+ Đánh giá qua chất lượng SV về học tâp và rèn luyện 
- Qua quá trình kiểm tra, đánh giá, lãnh đạo nhà trường 
cần phải tổng kết, thông báo trong toàn trường để CVHT 
thấy được mặt mạnh, mặt yếu của mình, từ đó tìm cách 
khắc phục, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 
2.4.5. Tạo động lực cho đội ngũ cố vấn học tập 
- Giảm giờ dạy định mức theo quy định chung của 
Bộ GD-ĐT, quy định của Trường Đại học Vinh đối với 
giảng viên làm công tác CVHT kiêm nhiệm để họ có 
thêm thời gian nghiên cứu khoa học và hoạt động CVHT. 
- Hỗ trợ phụ cấp theo Quy chế chi tiêu nội bộ, hỗ trợ 
tiền điện thoại, văn phòng phẩm để họ cảm thấy được 
quan tâm, được chia sẻ. Một số giảng viên do chế độ phụ 
cấp không đảm bảo nên không đầu tư nhiều đến công tác 
CVHT, dẫn đến tình trạng không nhiệt tình trong công 
việc, làm việc theo ngẫu hứng và qua loa. 
- Có chế độ khen thưởng kịp thời đối với những 
CVHT làm tốt nhiệm vụ. Công nhận những thành tích 
mà CVHT đạt được để khích lệ, động viên tinh thần họ. 
- Xây dựng môi trường làm việc hiệu quả, tạo cảm 
giác nghiêm túc nhưng không căng thẳng, áp lực. 
- Giao quyền và trách nhiệm cho CVHT để CVHT 
làm việc hưng phấn, muốn đóng góp nhiều cho khoa/viện 
và nhà trường. 
3. Kết luận 
Việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo 
theo HTTC như một cuộc cách mạng mang tính chất đột 
phá, thay đổi tư duy cả người dạy và người học. Đào tạo 
theo HTTC đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện từ chỗ nhà 
trường đóng vai trò quyết định kế hoạch đào tạo cho tất 
cả SV thì bây giờ SV đóng vai trò quyết định trong xây 
dựng kế hoạch đào tạo cho bản thân. Đào tạo theo HTTC 
làm cho SV năng động hơn, hoạt động đào tạo linh hoạt 
và mềm dẻo hơn, nhưng cũng làm cho công tác quản lí 
điều hành phức tạp, phát sinh nhiều yếu tố. 
Qua 12 năm thực hiện đào tạo theo HTTC tại Trường 
Đại học Vinh, chất lượng đào tạo của nhà trường đã từng 
bước được nâng lên đáng kể, kết quả này có một phần 
đóng góp quan trọng của đội ngũ CVHT. Tuy vậy, nhìn 
từ thực trạng, công tác CVHT vẫn chưa hoàn toàn đáp 
ứng cao sự đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của 
nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, muốn đạt 
được hiệu quả tốt hơn cần phải có sự hợp tác, nỗ lực từ 
phía nhà trường, các khoa/viện, đội ngũ CVHT và SV, 
trong đó mối quan hệ giữa SV và CVHT là mối quan hệ 
trọng yếu và việc thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của 
CVHT sẽ phát huy được tính tích cực của phương thức 
đào tạo theo HTTC. 
(Xem tiếp trang 225) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 222-225 
225 
không phải chủ đề nào cũng có thể thực hiện được một cách 
khả thi và có hiệu quả. Vì vậy, để việc đánh giá quá trình 
thông qua các bài toán PISA hiệu quả hơn trong dạy học 
Toán, theo chúng tôi, GV cần: - Tăng cường những bài toán 
theo dạng thức PISA có nội dung thực tiễn vào nội dung 
kiểm tra, đánh giá ở cấp trung học, đặc biệt là ở trung học 
cơ sở; - Tăng cường xây dựng các bài toán theo dạng thức 
PISA có nội dung thực tiễn nhằm rèn luyện các kĩ năng cần 
thiết cho HS như: kĩ năng đọc hiểu đồ thị, biểu đồ, kĩ năng 
tính toán kết hợp với ước lượng về chiều dài, về chiều rộng, 
thể tích,...; - Tăng cường nội dung Xác suất và Thống kê 
trong dạy học ở cấp trung học cơ sở để tiếp cận nền giáo dục 
các nước trong khu vực và trên thế giới. Từng bước đưa ra 
các câu hỏi dạng thức PISA vào nội dung kiểm tra để đánh 
giá kiến thức toán học của HS. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Tài liệu tập huấn Chương trình 
đánh giá học sinh quốc tế PISA. 
[2] Trần Vui (2013). Đánh giá hiểu biết toán của học 
sinh 15 tuổi, chương trình đánh giá học sinh quốc tế 
PISA. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[3] The PISA (2003). Assessement framework, 
Mathematics, reading, science and problem solving, 
Knowledge and skills. Programme for international 
student Assessement. 
[4] Stacey, K. (2011). The PISA view of mathematical 
literacy in Indonesia. Journal on Mathematics 
Education, Vol. 2(2), pp. 95-126. 
[5] Wynne Harlen (2007). Assessment of Learning. 
SAGE Publications 
[6] Mazzeo, J. - Von Davier, M. (2008). Review of the 
Programme for International Student Assessment 
(PISA) test design: Recommendations for fostering 
stability in assessment results. Education Working 
Papers EDU/PISA/GB (2008), Vol. 28, pp. 23-24. 
[7] Nguyễn Bá Kim (2007). Phương pháp dạy học môn 
Toán. NXB Đại học Sư phạm. 
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG 
(Tiếp theo trang 83) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trường Đại học Vinh (2012). Quy định chức năng, 
nhiệm vụ cố vấn học tập (kèm theo Quyết định số 
3814/QĐ-ĐHV ngày 10/12/1012). 
[2] Trần Thị Minh Đức (chủ biên, 2012). Cố vấn học 
tập trong các trường đại học. NXB Đại học Quốc 
gia Hà Nội. 
[3] Nguyễn Thị Út Sáu (2013). Một số vấn đề về lí luận 
hoạt động tư vấn học tập cho sinh viên của cố vấn 
học tập ở các trường đại học. Tạp chí Giáo dục, số 
318, tr 17-19. 
[4] Trường Đại học Vinh (2013). Hướng dẫn quy trình 
xử lí học vụ cho sinh viên hệ chính quy (kèm theo 
công văn số 3389/ĐHV-ĐT ngày 10/10/2013). 
[5] Bộ GD-ĐT (2007). Quy chế đào tạo đại học và cao 
đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành 
kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ/BGD&ĐT 
ngày 15/8/2007 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). 
[6] Nguyễn Thị Bích - Nguyễn Ngọc Trân (2018). Vai trò 
của cố vấn học tập trong việc nâng cao chất lượng học 
tập của sinh viên tại Trường Đại học Đồng Tháp. Tạp 
chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 9, tr 54-58. 
[7] Phạm Thị Thanh Hải (2011). Một số nội dung của 
công tác cố vấn học tập trong đào tạo theo hệ thống 
tín chỉ Hoa Kì và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tạp 
chí Giáo dục, số 268, tr 26-28. 
[8] Nguyễn Duy Mộng Hà (2012). Đẩy mạnh công tác 
cố vấn học tập và tư vấn sinh viên góp phần nâng 
cao chất lượng dạy và học trong trường đại học theo 
học chế tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 291, tr 32-35. 
MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG 
(Tiếp theo trang 131) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Cung (2006). Những vấn đề tâm lí cơ bản 
trong hoạt động quản lí, giáo dục phạm nhân, trại 
viên, học sinh trường giáo dưỡng. Học viện Cảnh 
sát Nhân dân. 
[2] Hoàng Thị Bích Ngọc (1997). Nghiên cứu tâm lí 
phạm nhân loại tội phạm hình sự nhằm góp phần 
nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lí giáo dục 
trong các trại giam hiện nay. Đề tài nghiên cứu cấp 
bộ, Bộ Công an, Mã số 54. 
[3] Hoàng Cung (2003). Tâm lí học hoạt động quản lí, 
giáo dục phạm nhân, trại viên và học sinh trường 
giáo dưỡng. Học viện Cảnh sát nhân dân. 
[4] Chu Văn Đức (2009). Nghiên cứu sự thích ứng của 
phạm nhân với chế độ sinh hoạt và chế độ lao động tại 
trại giam. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Viện Tâm lí học. 
[5] Nguyễn Hữu Toàn (2013). Tự ý thức về hành vi 
phạm tội và hành vi chấp hành hình phạt tù của 
phạm nhân. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, Viện Khoa 
học Xã hội. 
[6] Trần Hiệp - Đỗ Long (1997). Tâm lí học - Những 
vấn đề lí luận. NXB Khoa học Xã hội. 
[7] Nguyễn Khắc Viện (1998). Từ điển tâm lí học. NXB 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
[8] Phạm Minh Hạc - Lê Khanh - Trần Trọng Thủy 
(1999). Tâm lí học (tập 1). NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_hoat_dong_cua_co_van_hoc_tap_o_truong_dai_hoc_vin.pdf