Tự chủ tài chính và kết quả học tập ở các trường Trung học Phổ thông Việt Nam

Cquan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy nhiều quốc gia với hi từ NSNN cho giáo dục đóng vai trò quan trọng đối với kết quả của hệ thống giáo dục, thể hiện

quy mô chi cho giáo dục lớn nhưng kết quả đạt được chưa tương xứng; ngược lại, một vài quốc gia với mức chi cho giáo dục thấp lại có kết quả học tập cao. Sử dụng số liệu khảo sát “Chương trình đánh giá học sinh quốc tế” viết tắt là PISA năm 2015 ở cấp trường, nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của tự chủ tài chính trong các trường trung học phổ thông tới kết quả thi PISA của học sinh Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, mức độ tự chủ tài chính của các trường càng lớn thì kết quả PISA càng cao. Tuy nhiên, kết quả này không đúng với các trường tư khi họ có mức độ tự chủ cao nhất. Nghiên cứu cung cấp dẫn chứng thực nghiệm, làm cơ sở đề xuất chính sách tự chủ trong các trường học nhằm nâng cao hơn kết quả học tập của học sinh.

pdf 13 trang yennguyen 2980
Bạn đang xem tài liệu "Tự chủ tài chính và kết quả học tập ở các trường Trung học Phổ thông Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ tài chính và kết quả học tập ở các trường Trung học Phổ thông Việt Nam

Tự chủ tài chính và kết quả học tập ở các trường Trung học Phổ thông Việt Nam
Sè 133/2019 thương mại
khoa học
1
2 
12 
21 
33 
51 
63 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Bùi Hữu Đức và Vũ Thị Yến - Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu 
Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của người lao động. Mã số: 133.1GEMg.11 
Assessing the Impacts of Employment Policies for Vietnamese Exported Laborers after 
Returning Home on Employment And Income 
2. Vũ Thị Thanh Huyền và Trần Việt Thảo - Tác động của phát triển công nghiệp chế biến chế tạo 
đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mã số: 133.1DECo.11 
The Impacts of Processing and Manufacturing Development on Vietnam’s Economy 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
3. Phan Thị Lý và Võ Thị Ngọc Thúy - Tác động của công khai tiêu cực về khủng hoảng sản phẩm 
đến hình ảnh công ty và nhận biết thương hiệu: Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng tiêu 
dùng nhanh. Mã số: 133.2BAdm.21 
The Impacts of Publicizing Negations of Product Crisis on Company’s Image and Brand 
Identity: A Case-Study of Fast-Moving Consumer Goods Businesses 
4. Phạm Thu Hương và Trần Minh Thu - Các yếu tố tác động tới ý định mua sản phẩm có bao bì 
thân thiện với môi trường của giới trẻ Việt Nam tại Hà Nội. Mã số: 133.2BMkt.21 
Factors Affecting Intentions to Buy Products with Environment-Friendly Packaging by Young 
Vietnamese in Hanoi City 
5. Đỗ Thị Vân Trang - Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp xây dựng 
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mã số: 133.2FiBa.21 
Factors Affecting Profitability of Listed Construction Enterprises on Vietnam’s Stock Market 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
6. Lê Quang Cảnh - Tự chủ tài chính và kết quả học tập ở các trường trung học phổ thông Việt Nam. 
Mã số: 133.3OMIs.32 
Financial Autonomy and Learning Results at High Schools in Vietnam 
ISSN 1859-3666
1
1. Đặt vấn đề 
Chi Ngân sách nhà nước (NSNN) cho giáo dục 
là chủ đề thu hút sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu 
và quản lý giáo dục của các quốc gia trên thế giới. 
Ở Việt Nam, chi NSNN cho giáo dục là quan trọng 
khi giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu và chi 
cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Chi NSNN cho 
giáo dục càng quan trọng hơn khi nó bị cạnh tranh 
gay gắt với các khoản chi khác, và tuy có tăng lên 
nhưng còn khá hạn chế so với các quốc gia có thu 
nhập trung bình. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, 
chi NSNN cho giáo dục, bao gồm cả chi thường 
xuyên và chi đầu tư ở năm 2016 đạt 238561 tỷ đồng, 
chiếm tổng cộng 17,54% tổng chi NSNN (tương 
đương 11,6 tỷ USD tại năm 2016). Hơn nữa trong 
tổng số chi NSNN cho giáo dục, hơn 82% tổng chi 
được chi cho các khoản chi thường xuyên, còn chi 
cho đầu tư chiếm khoảng 18%. Với mức chi tuyệt 
đối cho giáo dục được coi là thấp so với các nước có 
thu nhập trung bình nhưng kết quả học tập đạt được 
của học sinh Việt Nam là khá ấn tượng. Kết quả 
đánh giá thuộc “Chương trình đánh giá học sinh 
quốc tế” viết tắt là PISA do Tổ chức Hợp tác và Phát 
triển Kinh tế (OECD) thực hiện cho thấy kết quả đạt 
được của học sinh Việt Nam đều cao hơn mức trung 
bình của các nước OECD. Đây là một kết quả khá 
tốt, phần nào thể hiện được kết quả giáo dục của 
toàn bộ hệ thống giáo dục và vai trò của chi NSNN 
cho giáo dục ở Việt Nam. 
Nghiên cứu tác động của tài chính công/chi 
NSNN tới kết quả học tập của học sinh đã được đề 
cập nhiều, kết quả nghiên cứu thực nghiệm đa dạng 
và phụ thuộc vào biến đại diện/đo lường chi NSNN 
cho giáo dục. Kết quả nghiên cứu tổng quan cho 
63
?
Sè 133/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH VÀ KẾT QUẢ HỌC TẬP 
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VIỆT NAM 
Lê Quang Cảnh 
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 
Email: canh@neu.edu.vn 
Ngày nhận: 10/07/2019 Ngày nhận lại: 20/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 
Chi từ NSNN cho giáo dục đóng vai trò quan trọng đối với kết quả của hệ thống giáo dục, thể hiện quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy nhiều quốc gia với 
quy mô chi cho giáo dục lớn nhưng kết quả đạt được chưa tương xứng; ngược lại, một vài quốc gia với mức 
chi cho giáo dục thấp lại có kết quả học tập cao. Sử dụng số liệu khảo sát “Chương trình đánh giá học sinh 
quốc tế” viết tắt là PISA năm 2015 ở cấp trường, nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của tự chủ tài chính 
trong các trường trung học phổ thông tới kết quả thi PISA của học sinh Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực 
nghiệm cho thấy, mức độ tự chủ tài chính của các trường càng lớn thì kết quả PISA càng cao. Tuy nhiên, 
kết quả này không đúng với các trường tư khi họ có mức độ tự chủ cao nhất. Nghiên cứu cung cấp dẫn 
chứng thực nghiệm, làm cơ sở đề xuất chính sách tự chủ trong các trường học nhằm nâng cao hơn kết quả 
học tập của học sinh. 
Từ khóa: tự chủ tài chính, kết quả học tập, điểm PISA 
?thấy mức độ tự chủ tài chính của các trường có ảnh 
hưởng rất khác nhau tới kết quả học tập của học 
sinh. Mức độ tự chủ tài chính có thể tác động tích 
cực, tiêu cực, hoặc không tác động tới kết quả học 
tập của học sinh được đánh giá thông qua điểm thi 
trong PISA. 
Nghiên cứu tổng quan cho thấy chi NSNN cho 
giáo dục hay mức độ tự chủ tài chính của trường 
có ảnh hưởng khác biệt tới kết quả thi PISA, có thể 
là tác động tích cực, tiêu cực hoặc không tác động. 
Chẳng hạn, Papke (2005) và Hyman (2017) 
nghiên cứu tác động của chi tiêu cho giáo dục từ 
ngân sách địa phương tới kết quả học tập của học 
sinh cho thấy nếu chính quyền tăng thêm 10% chi 
tiêu cho giáo dục sẽ làm cho tỷ lệ học sinh đạt 
điểm đỗ của môn Toán và Đọc tăng thêm từ 1 đến 
3 điểm phần trăm; làm cho tỷ lệ học sinh nhập học 
và các trường Cao đẳng/Đại học tăng thêm 7%; và 
tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình Cao 
đẳng/Đại học tăng thêm 11%. Các kết quả nghiên 
cứu thực nghiệm tương tự cũng được tìm thấy 
trong nhiều nghiên cứu khác (ví dụ Card and 
Payne, 2002; Jackson và cộng sự, 2016; Lafortune 
và cộng sự, 2018; Kreisman & Steinberg, 2018). 
Gunnarsson và cộng sự (2008) phát hiện mức độ 
tự chủ tài chính của trường có tác động tích cực tới 
kết quả học tập của học sinh lớp 4 nhưng không có 
tác động tới kết quả học tập chung của trường. 
Hanushek, Link & Woessmann (2012) sử dụng kết 
quả khảo sát PISA từ năm 2000 đến 2009 cho 42 
quốc gia trong khảo sát PISA đã phát hiện ra rằng 
mức độ tự chủ tài chính của các trường có tác 
động tích cực tới kết quả Toán và Đọc hiểu đối với 
các quốc gia phát triển, nơi hệ thống giáo dục vận 
hành tốt; nhưng lại tác động tiêu cực đến kết quả 
thi PISA đối với các quốc gia nơi có hệ thống giáo 
dục chưa tốt. Gần đây, trong nghiên cứu của 
Steinberg (2014) nghiên cứu về mức độ tự chủ tài 
chính của các trường học tại Mỹ cho thấy rằng tự 
chủ tài chính không có tác động tới kết quả môn 
Toán, Đọc hiểu trước khi thực hiện tự chủ, nhưng 
lại có tác động tích cực ở thời điểm hai năm sau 
khi trường thực hiện tự chủ. Lee & Polachek 
(2014) tìm thấy rằng mức độ tự chủ tài chính của 
trường học giúp làm giảm tỷ lệ bỏ học ở các 
trường nhưng có tác động rất ít hoặc không tác 
động tới kết quả học tập của học sinh. Như vậy, 
kết quả thực nghiệm về tác động của chi NSNN 
cho giáo dục tới kết quả học tập của học sinh là 
một vấn đề thực tế đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi 
bối cảnh nghiên cứu. Đó là sự hấp dẫn của chủ đề 
nghiên cứu này. 
Bài viết này nghiên cứu tác động của chi NSNN 
cho giáo dục thông qua mức độ tự chủ tài chính của 
các trường tới kết quả học tập của học sinh, đo bằng 
điểm thi trong PISA. Dựa trên kết quả thực nghiệm, 
nghiên cứu đưa ra những ngụ ý chính sách phù hợp 
liên quan tới chính sách tự chủ trong các trường học 
phổ thông trung học nhằm nâng cao kết quả PISA ở 
Việt Nam. 
2. Mô hình và phương pháp ước lượng 
Nghiên cứu này sử dụng mô hình được xây 
dựng bởi Hanushek, Link & Woessmann (2012) 
theo đó điểm PISA của học sinh phụ thuộc vào đặc 
điểm của học sinh và đặc điểm của trường học. Tuy 
nhiên khi đề cập ở cấp trường, điểm trung bình 
PISA ở cấp trường bây giờ không còn phụ thuộc 
vào đặc điểm của học sinh mà phụ thuộc vào các 
biến thuộc cấp trường, trong đó mức độ tự chủ tài 
chính của trường là biến nghiên cứu quan tâm. Mô 
hình nghiên cứu có dạng: 
Y=α+βI+Xθ+ϵ (1) 
Trong đó, Y là điểm PISA được đại diện lần lượt 
là điểm Toán, Khoa học, Đọc hiểu và tổng điểm 
PISA; I là mức độ tự chủ tài chính tài chính của 
trường học; X là véc tơ đặc điểm của trường học, và 
ϵ là sai số ngẫu nhiên. Các biến độc lập đưa vào mô 
hình ước lượng ở đây dựa vào ba cơ sở. Thứ nhất, 
đó là cơ sở lý thuyết xây dựng trong nghiên cứu của 
Hanushek, Link & Woessmann (2012). Thứ hai, 
trong bối cảnh dữ liệu ở cấp trường, các đặc điểm 
liên quan tới cá nhân học sinh được loại bỏ. Thứ ba, 
Sè 133/201964
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
65
?
Sè 133/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 1: Định nghĩa và mô tả các biến độc lập trong mô hình 
Tên biӃn ĈӏQKQJKƭDÿROѭӡng 
MӭFÿӝ tӵ chӫ MӭFÿӝ tӵ chӫ tài chính cӫD7UѭӡQJÿѭӧFÿREҵng tӹ lӋ chi tiêu cӫDWUѭӡng tӯ 
các nguӗn ngoài NSNN trong tәng chi tiêu cӫDWUѭӡng 
7әQJVӕKӑFVLQK Tәng sӕ hӑc sinh cӫDWUѭӡng 
7ӹOӋKӑFVLQKQӳ Tӹ lӋ hӑc sinh nӳ cӫDWUѭӡng trên tәng sӕ hӑc sinh 
6ӕPi\WtQKQӕLPҥQJ Sӕ Oѭӧng máy tính có kӃt nӕi internet cӫDWUѭӡng 
&yFiFFkXOҥFEӝ 
NӃXWUѭӡng có các câu lҥc bӝ QKѭNKRDKӑc, cӡ vua, máy tính, nghӋ thuұW«
BiӃn có giá trӏ là 1 nӃXQKjWUѭӡng có 1 trong các câu lҥc bӝ này và 0 nӃu 
không có 
&yKRҥWÿӝQJYăQQJKӋWKӇ
thao 
Có hoҥWÿӝQJYăQQJKӋ, thӇ WKDRFyÿӝLYăQQJKӋ, ban nhҥF«%LӃn nhұn giá 
trӏ là 1 nӃXQKjWUѭӡng có mӝt trong các hoҥWÿӝng này và 0 nӃu không có 
&yWKtQJKLӋP 
Phòng thí nghiӋm và các vұt liӋXQJѭӡLKѭӟng dүn thí nghiӋP«%LӃn nhұn 
giá trӏ là 1 nӃXQKjWUѭӡng có phòng thí nghiӋPYjÿҧm bҧo các yêu cҫu vӅ vұt 
liӋXQJѭӡLKѭӟng dүn và 0 nӃXNK{QJÿҧm bҧo 
7ӹOӋKӑFVLQK 
giáo viên 
Tӹ lӋ hӑc sinh trên giáo viên cӫDWUѭӡng 
*LiRYLrQOjWKҥFVƭ Sӕ OѭӧQJJLiRYLrQFyWUuQKÿӝ thҥc sӻ trӣ lên 
ĈiQKJLiJLiRYLrQWӯ 
bên ngoài 
1KjWUѭӡng thӵc hiӋn viӋFÿiQKJLiJLiRYLrQWӯ bên ngoài. BiӃn nhұn giá trӏ là 
1 nӃXQKjWUѭӡng thӵc hiӋQÿiQKJLiJLiRYLrQWӯ bên ngoài và 0 nӃu không có 
ĈiQKJLiKӑFVLQKWӯErQ
ngoài 
1KjWUѭӡng thӵc hiӋn viӋFÿiQh giá hӑc sinh tӯ bên ngoài. BiӃn nhұn giá trӏ là 
1 nӃXQKjWUѭӡng thӵc hiӋQÿiQKJLiKӑc sinh tӯ bên ngoài và 0 nӃu không có 
9ҩQÿӅKӑFVLQK 
BiӃn này thӇ hiӋn nhӳng vҩQÿӅ cӫDWUѭӡng nҧy sinh tӯ phía hӑFVLQKQKѭQJKӍ 
hӑc, trӕn tiӃt, không tôn trӑng giáo YLrQ«%LӃn có giá trӏ là 1 nӃu hӑc sinh 
cӫDWUѭӡng có các hành vi trên và 0 nӃu không có 
9ҩQÿӅJLiRYLrQ 
BiӃn này thӇ hiӋn nhӳng vҩQÿӅ cӫDWUѭӡng nҧy sinh tӯ SKtDJLiRYLrQQKѭ
NK{QJÿiSӭng yêu cҫu, nghӍ dҥy, chӕng lҥi sӵ WKD\ÿәi, chuҭn bӏ bài không 
tӕW«%LӃn có giá trӏ là 1 nӃu giáo viên cӫDWUѭӡng có các hành vi trên và 0 
nӃu không có 
6ӵWKDPJLDFӫDSKөKX\QK 
ĈROѭӡng sӵ tham gia cӫa hӝi phө huynh hӑc sinh vào các hoҥWÿӝng cӫa 
WUѭӡng. BiӃn có giá trӏ là 1 nӃu phө huynh hӑc sinh cӫDWUѭӡng có tham gia vào 
các hoҥWÿӝng cӫDWUѭӡng và 0 nӃu không có 
0LӅQ1DP 7Uѭӡng hӑc ӣ khu vөc miӅn Nam bҵng 1 và 0 ӣ các miӅn khác 
0LӅQ7UXQJ 7Uѭӡng hӑc ӣ khu vөc miӅn Trung bҵng 1 và 0 ӣ các miӅn khác 
?các biến và đo lường là sẵn có trong khảo sát PISA 
năm 2015 của Việt Nam. Các biến cụ thể của mô 
hình được mô tả trong Bảng 1. 
Một vấn đề có thể nảy sinh là các điểm thành 
phần của PISA (Toán, Đọc và Khoa học) có thể đều 
chịu sự chi phối của các yếu tố không quan sát được 
của cá nhân học sinh và có thể dẫn tới vấn đề nội 
sinh. Tuy nhiên, trong cách thiết kế khảo sát PISA 
thì các điểm thi được đánh giá độc lập nhau và đã 
được tính trung bình ở cấp trường nên điều này đã 
giải quyết được phần nào những biến không quan 
sát được ở cấp độ cá nhân như năng lực, phẩm chất 
của học sinh. Việc ước lượng bằng OLS thông 
thường cho kết quả không chệch và nhất quán. 
3. Số liệu 
3.1. Chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam 
Chi tiêu cho giáo dục bao gồm hai nguồn chính 
là chi từ NSNN và hộ gia đình. Phần giới thiệu này 
chỉ trình bày chi từ NSNN mà không đề cập tới chi 
từ hộ gia đình cho giáo dục. Chi NSNN cho giáo 
dục được tách ra làm hai bộ phận: Chi tiêu thường 
xuyên và chi đầu tư. Kết quả thực hiện chi NSNN 
cho giáo dục của Việt Nam được đề cập trong Hình 
1 dưới đây. 
Chi NSNN cho giáo dục không ngừng tăng lên, 
với tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2011-2016 là 
14,5%/năm và đạt 238561 tỷ đồng (tương đương 
khoảng 11 tỷ đô la Mỹ vào năm 2016). Trong đó, 
phần lớn chi NSNN cho giáo dục phục vụ cho chi 
tiêu thường xuyên (chủ yếu là chi cho con người, chi 
hoạt động giáo dục,) chiếm trung bình trên 80%, 
còn lại khoảng 20% được sử dụng cho chi đầu tư 
như xây dựng trường học và mua sắm trang thiết bị 
phục vụ việc dạy học (máy tính, đồ dùng dạy học, 
bàn ghế,). Theo Ngân hàng Thế giới (2018), mức 
chi NSNN cho giáo dục bình quân trên một học sinh 
ở Việt Nam đạt ở mức 630 đô la Mỹ/học sinh/năm, 
thấp hơn nhiều so với mức trung bình chi NSNN 
cho giáo dục bình quân đầu học sinh của các quốc 
gia có thu nhập trung bình là 1039 đô la Mỹ/học 
sinh/năm. Nếu so sánh với mục tiêu đảm bảo chi 
NSNN cho giáo dục ở mức 20% tổng chi NSNN thì 
Sè 133/201966
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Hình 1: Tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục Việt Nam, 2011-2016 
Nguồn: Số liệu quyết toán NSNN từ Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính 
đây vẫn là một mục tiêu phấn đấu. Theo số liệu 
quyết toán NSNN, tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục 
trung bình giai đoạn 2011-2016 đạt 17,84% tổng chi 
NSNN. Riêng năm 2016, tỷ lệ này là 17,5% và vẫn 
còn một khoảng cách để đạt mục tiêu 20% của tổng 
chi NSNN cho giáo dục. 
3.2. Giới thiệu về PISA 
PISA là viết tắt của “Chương trình Đánh giá học 
sinh quốc tế” do tổ chức OECD đề xuất và thực 
hiện. Khảo sát PISA nhằm đánh giá khả năng của 
học sinh 15 tuổi ở các nước và vùng lãnh thổ trong 
và ngoài OECD về Toán, Khoa học và Đọc hiểu. 
Chương trình đánh giá PISA được thực hiện từ năm 
2000 và lặp lại 3 năm một lần. Mục đích của chương 
trình là cung cấp các dữ liệu so sánh nhằm giúp các 
nước cải thiện chính sách và kết quả giáo dục. 
Chương trình hướng vào việc đo lường sự hiểu biết 
và khả năng giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng 
ngày của học sinh. Khảo sát PISA năm 2015 có 72 
nước và vùng lãnh thổ, với tổng số khoảng 540.000 
học sinh trung học tham gia. PISA cũng khảo sát 
mối quan hệ giữa việc học của học sinh và các yếu 
tố khác để hiểu rõ sự khác biệt về kết quả trong mỗi 
nước và giữa các nước (OECD, 2018). 
Việt Nam đã tham gia khảo sát PISA được hai 
lần vào năm 2012 và 2015. Khảo sát PISA năm 2018 
đang thực hiện và chưa có kết quả công bố cuối 
cùng. Kết quả khảo sát PISA trong hai lần vừa qua 
của Việt Nam được đánh giá là tốt và nhận được sự 
chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà 
quản lý giáo dục. Kết quả PISA của Việt Nam được 
trình bày trong Bảng 2 dưới đây. 
Kết quả khảo sát PISA cho thấy rằng kết quả học 
tập của học sinh Việt Nam là khá ấn tượng. Trong 
lần đánh giá gần nhất vào năm 2015, học sinh Việt 
Nam có kết quả đánh giá về Khoa học đứng vị trí 
thứ 8/72 quốc gia tham gia, 22/72 về Toán và thứ 
32/72 về Đọc hiểu. Kết quả này cũng phản ánh phần 
nào kết quả học tập của học sinh Việt Nam lứa tuổi 
15 ở năm 2015. 
3.3. Mẫu nghiên cứu 
Số liệu sử dụng trong phân tích này được trích từ 
khảo sát PISA năm 2015 ở cấp trường. Có 188 
trường được lựa chọn tham gia khảo sát và trung 
bình mỗi trường có khoảng 31 học sinh tham gia vào 
khảo sát. Các trường được lựa chọn đại diện cho ba 
miền Bắc (bao gồm Đông Bắc và Tây Bắc bộ), miền 
Trung (bao gồm Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và 
Tây Nguyên), miền Nam (bao gồm Đông Nam Bộ 
và Tây Nam bộ). Tỷ lệ học sinh nam và nữ ở mức 
khá cân bằng với 50,2% là nữ và 49,8% là nam. 
Trong mẫu nghiên cứu có 92,5% là các trường công 
lập và tỷ lệ các trường dân lập là 7,5%. 
Mức độ tự chủ tài chính hay mức độ phụ thuộc 
vào tài chính từ NSNN được đo bằng tỷ trọng kinh 
phí của nhà nước cấp cho trường trong tổng chi phí 
của trường. Trong mẫu khảo sát PISA năm 2015, có 
14 trường tự chủ 100% kinh phí (chiếm 7,5% - 
trường tư), có 51 trường phụ thuộc hoàn toàn vào 
kinh phí từ nhà nước cấp (chiếm 27,1% tổng số 
trường). Còn lại các trường có mức độ phụ thuộc 
vào NSNN từ 10% đến 99% chiếm 65,3% tổng số 
trường tham gia khảo sát. 
67
?
Sè 133/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 2: Điểm PISA của Việt Nam và trung bình OECD, 2012 và 2015 
9LӋW1DP Trung bình OECD 
2012 2015 2012 2015 
Toán 511 495 494 490 
Khoa KӑF 528 525 501 493 
ĈӑFKLӇX 508 487 496 493 
?4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
4.1. Kết quả PISA theo mức độ tự chủ tài chính 
Trước tiên, nghiên cứu xem xét kết quả thi 
PISA với các mức độ tự chủ tài chính của trường. 
Mức độ tự chủ tài chính của trường được chia 
thành ba nhóm trường: Tự chủ hoàn toàn, Tự chủ 
một phần và Không tự chủ. Kết quả PISA thành 
phần Toán, Khoa học và Đọc hiểu trung bình theo 
từng nhóm trường với mức tự chủ tài chính được 
thể hiện trong Bảng 3. 
Kết quả tính toán cho thấy các trường tự chủ tài 
chính hoàn toàn có điểm PISA trung bình thấp nhất, 
tuy nhiên những 
trường mà nhà nước 
cung cấp toàn bộ kinh 
phí hoạt động cũng 
không phải là trường 
có điểm PISA trung 
bình cao nhất. Các 
trường tự chủ một 
phần kinh phí là 
trường có điểm PISA 
cao nhất, cao hơn tổng 
điểm PISA trung bình 
của trường tự chủ 
hoàn toàn là 103 điểm 
(trung bình 34,4 
điểm/môn) và trường 
nhà nước bao cấp toàn 
bộ chi phí là 53 điểm (trung bình 17,6 điểm/môn). 
Kết quả này cho thấy các trường tự chủ một phần 
kinh phí hoạt động có kết quả học tập thông qua 
điểm PISA cao nhất trong bối cảnh ở Việt Nam. 
Nếu xem xét sự khác biệt về điểm PISA theo loại 
hình trường, bao gồm trường công lập và tư nhân, 
kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể, được thể hiện 
trong Hình 2. 
Trường công lập nhận kinh phí hoạt động từ 
NSNN có kết quả PISA trung bình cao hơn so với 
các trường tư nhân. Điều này cho thấy được vai trò 
quan trọng của NSNN cấp cho các trường học ở 
Sè 133/201968
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Hình 2: Điểm PISA theo loại hình trường học 
Bảng 3: Kết quả PISA trung bình theo từng nhóm trường với mức độ tự chủ tài chính kinh phí khác nhau 
Nguồn: Tính toán từ khảo sát PISA năm 2015
7UѭӡQJWӵFKӫ 
 hoàn toàn (1) 
7UѭӡQJWӵFKӫ 
 PӝWSKҫQ (2) 
7UѭӡQJNK{QJ 
WӵFKӫ (3) Chung 
Toán 460 496 476 495 
.KRDKӑF 487 525 511 525 
ĈӑFKLӇX 458 488 469 487 
6ӕWUѭӡQJ 14 123 51 188 
ĈLӇPFKrQKOӋFKYӟL7UѭӡQJWӵFKӫPӝWSKҫQ 
 Chênh O͏FKÿL͋P7RiQ 36 20 
 Chênh O͏FKÿL͋P.KRDK͕F 37 14 
 Chênh O͏FKÿL͋PĈ͕F KL͋X 30 19 
bậc học phổ thông. Tuy nhiên, các trường tự chủ 
một phần kinh phí hoạt động mới là trường có kết 
quả PISA cao nhất trong bối cảnh của Việt Nam. 
Đây là một điều đáng lưu ý trong bối cảnh Việt 
Nam thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo 
dục và đào tạo. 
Khi xem xét mối quan hệ tương quan giữa mức 
độ tự chủ kinh phí hoạt động của trường với điểm 
PISA trung bình, kết quả mô tả tương quan được thể 
hiện trong Hình 3. 
Kết quả này không cho thấy mối quan hệ tương 
quan chặt chẽ giữa mức độ tự chủ tài chính của 
trường học với lại điểm PISA trung bình toàn 
trường. Tuy nhiên, các trường có mức độ tự chủ tài 
chính cao nhất gắn với điểm PISA thấp; các trường 
không tự chủ cũng có một số lượng lớn các trường 
có điểm PISA thấp; các trường học có mức độ tự 
chủ tài chính một phần (NSNN chi khoảng trên 
60% tổng chi của nhà trường) là những trường có 
điểm PISA trung bình ở mức cao. 
4.2. Tác động của tự chủ tài chính tới điểm 
PISA 
Phần này xem xét tác động của mức độ tự chủ tài 
chính trong các trường trung học phổ thông ở Việt 
69
?
Sè 133/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Nguồn: Tính toán từ số liệu khảo sát PISA 2015 
Hình 3: Mối quan hệ tương quan giữa mức độ tự chủ tài chính 
với điểm PISA trung bình của các trường tham gia khảo sát 
30
0
40
0
50
0
60
0
70
0
0 20 40 60 80 100
0ӭFÿӝWӵFKӫ 
40
0
50
0
60
0
70
0
0 20 40 60 80 100
0ӭFÿӝWӵFKӫ 
30
0
40
0
50
0
60
0
70
0
0 20 40 60 80 100
0ӭFÿӝWӵFKӫ 
10
00
12
00
14
00
16
00
18
00
20
00
0 20 40 60 80 100
0ӭFÿӝÿӝFKӫ 
?
Sè 133/201970
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Bảng 4: Kết quả ước lượng thực nghiệm tác động của tự chủ tài chính của trường học với kết quả PISA 
Ghi chú: *, **, *** thể hiện ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%; 
Số trong ngoặc đơn là giá trị t (t-value) 
Mô hình 1 
ĈLӇP7RiQ 
Mô hình 2 
ĈLӇP.KRDKӑF 
Mô hình 3 
ĈLӇP ĈӑFKLӇX 
Mô hình 4 
7әQJÿLӇP 
0ӭFÿӝWӵFKӫ 4,904** 2,912 5,854*** 13,67** 
(2,07) (1,94) (1,87) (5,69) 
7әQJVӕKӑFVLQK 0,0207*** 0,0180*** 0,0217*** 0,0604*** 
(0,01) (0,01) (0,01) (0,02) 
7ӹOӋKӑFVLQKQӳ 1,931*** 1,771*** 1,992*** 5,695*** 
(0,35) (0,33) (0,32) (0,96) 
6ӕPi\WtQKQӕLPҥQJ 0,144 0,0838 0,0935 0,32 
(0,09) (0,09) (0,08) (0,25) 
&yFiFFkXOҥFEӝ 9,021 10,87* 14,69** 34,58* 
(6,78) (6,36) (6,13) (18,65) 
&yKRҥWÿӝQJYăQQJKӋWKӇWKDR 30,25** 7,524 12,94 50,72 
(15,29) (14,36) (13,83) (42,08) 
&yWKtQJKLӋP 4,534 6,774 4,277 15,59 
(7,39) (6,94) (6,69) (20,33) 
7ӹOӋKӑFVLQKJLiRYLrQ -27,28 -55,59 -54,14 (137,00) 
(70,02) (65,76) (63,34) (192,70) 
*LiRYLrQOjWKҥFVƭ 1,414*** 1,239*** 1,197*** 3,850*** 
(0,27) (0,25) (0,24) (0,73) 
ĈiQKJLiJLiRYLrQWӯErQQJRjL 4,671 5,736 3,74 14,15 
(7,10) (6,66) (6,42) (19,53) 
ĈiQKJLiKӑFVLQKWӯErQQJRjL -9,469 -9,58 -9,819* -28,87* 
(6,26) (5,88) (5,66) (17,22) 
9ҩQÿӅKӑFVLQK -8,875 -8,133 (5,49) (22,49) 
(6,53) (6,13) (5,90) (17,96) 
9ҩQÿӅJLiRYLrQ 8,201 7,31 8,199 23,71 
(6,50) (6,10) (5,88) (17,88) 
6ӵWKDPJLDFӫDSKөKX\QK 0,0968 0,0405 0,0143 0,15 
(0,11) (0,11) (0,10) (0,31) 
0LӅQ1DP -2,248 -8,614 -7,96 (18,82) 
(7,75) (7,28) (7,01) (21,32) 
0LӅQ7UXQJ -5,302 -5,816 -7,452 (18,57) 
(7,18) (6,75) (6,50) (19,77) 
+ӋVӕFҳW 304,9*** 378,1*** 315,8*** 998,8*** 
(24,53) (23,04) (22,19) (67,51) 
6ӕTXDQViW 188 188 188 188 
R-VTKLӋXFKӍQK 0,566 0,528 0,593 0,579 
Nam với kết quả thi PISA trung bình của trường. 
Thực hiện ước lượng cho mô hình trong phương 
trình (1) với các biến được mô tả trong Bảng 1, kết 
quả ước lượng tác động của tự chủ tài chính của 
trường học tới kết quả điểm PISA lần lượt cho Toán, 
Khoa học, Đọc hiểu và tổng điểm PISA được thể 
hiện trong Bảng 4. 
Kết quả ước lượng cho thấy mức độ tự chủ của 
trường học có tác động tích cực tới điểm PISA. Mức 
độ tự chủ tài chính tăng thêm 1 điểm phần trăm sẽ 
khiến điểm PISA tăng thêm 13,67 điểm. Khi mức độ 
tự chủ tài chính của trường tăng thêm 1 điểm phần 
trăm có thể giúp điểm thi môn Toán tăng thêm 4,9 
điểm và điểm môn Đọc hiểu tăng thêm 5,9 điểm. 
Điều này thấy được vai trò quan trọng của tự chủ tài 
chính trong các trường đối với việc cải thiện điểm số 
PISA. Tuy nhiên, lưu ý rằng nếu tự chủ tài chính 
toàn bộ, tức là nhà nước không cấp ngân sách cho 
các hoạt động cho các trường thì kết quả cho thấy 
điểm PISA của các trường này là thấp nhất. Ngụ ý 
chính sách ở đây là các trường muốn tăng kết quả 
PISA thì cần thực hiện tự chủ một phần chứ không 
phải nhà nước để mặc các trường tự lo hoặc nhà 
nước bao cấp toàn bộ chi phí của trường. 
Ngoài ra, quy mô của trường, tỷ lệ học sinh nữ 
và số lượng giáo viên có trình độ thạc sĩ trở lên càng 
lớn thì càng quan trọng trong việc tăng kết quả học 
tập của học sinh thông qua kết quả PISA. Ngụ ý 
chính sách ở đây là các trường/cơ quan quản lý giáo 
dục có chính sách khuyến khích giáo viên học tập 
nâng cao kiến thức, nhằm chuyển năng lực của mình 
sang kết quả học tập của học sinh. Kết quả ước 
lượng cũng cho thấy các trường có các câu lạc bộ và 
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, có tác 
động tích cực tới kết quả điểm thi PISA của học 
sinh. Điều này ngụ ý rằng nhà trường, cơ quan quản 
lý giáo dục cần có chính sách khuyến khích sự tham 
gia đầu tư vào các hoạt động, câu lạc bộ nhằm góp 
phần nâng cao kết quả học tập của học sinh thông 
qua kết quả thi PISA. 
5. Kết luận 
Bài viết này nghiên cứu ảnh hưởng của tự chủ tài 
chính của trường tới kết quả học tập của học sinh 
thông qua điểm thi PISA. Sử dụng số liệu khảo sát 
PISA năm 2015 ở cấp trường, kết quả phân tích 
thống kê mô tả cho thấy: (i) các trường công lập có 
điểm PISA cao hơn đáng kể so với các trường ngoài 
công lập; (iii) các trường có tỷ lệ tự chủ tài chính 
toàn bộ thì có điểm PISA trung bình toàn trường là 
thấp nhất; và (iii) điểm PISA trung bình cao nhất 
thuộc về các trường có mức độ tự chủ tài chính một 
phần. Kết quả phân tích hồi quy thì cho thấy mức độ 
tự chủ tài chính tăng lên khiến cho tổng điểm PISA, 
điểm Toán và Đọc hiểu trung bình của trường cũng 
tăng lên. Ngoài ra, các trường có số lượng giáo viên 
có trình độ thạc sĩ trở lên càng lớn, có các câu lạc 
bộ, có hoạt động văn nghệ thể thao, thì kết quả 
PISA càng cao hơn. 
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm ở trên, một 
vài kết luận quan trọng được rút ra: (i) Vai trò của 
chi NSNN cho các trường phổ thông trung học đóng 
vai trò quan trọng và là yếu tố cơ bản đảm bảo kết 
quả học tập của học sinh thông qua kết quả PISA. 
(ii) Các trường tự chủ một phần kinh phí sẽ là các 
trường có kết quả học tập của học sinh cao nhất 
thông qua điểm PISA. Nghiên cứu việc phân cấp tự 
chủ kinh phí cho các trường học một cách phù hợp 
sẽ giúp tăng kết quả PISA của các trường và vừa làm 
giảm áp lực ngân sách của Nhà nước. (iii) Chi từ 
NSNN sẽ chú trọng tới chi cho con người và chi đào 
tạo nâng cao chất lượng giáo viên, còn chi từ nguồn 
khác tập trung vào các hoạt động bổ trợ như văn 
nghệ, thể thao, câu lạc bộ, Làm được như vậy là 
cơ sở để các nhà trường nâng cao kết quả học tập 
của học sinh thông qua kết quả khảo sát PISA.u 
71
?
Sè 133/2019
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học
Tài liệu tham khảo: 
1. Card, D. and Payne, A. A. (2002), School 
finance reform, the distribution of school spending, 
and the distribution of student test scores, Journal of 
public economics, 83(1): 49-82. 
2. Gunnarsson, V., Orazem, P., Sánchez, M. and 
Verdisco, A. (2008), Does Local School Control 
Raise Student Outcomes? Evidence on the Roles of 
School Autonomy and Parental Participation, 
Working Paper Series, Department of Economics, 
Iowa State University 
3. Hanushek, E., Link, S. and Woessmann, L. 
(2012), Does School Autonomy Make Sense 
Everywhere? Panel Estimates from PISA, ADB 
Economics Working Paper Series N0. 296 
4. Hyman, J. (2017), Does money matter in the 
long run? effects of school spending on educational 
attainment, American Economic Journal: Economic 
Policy, 9(4): 256-280. 
5. Jackson, C. K., Johnson, R. C., and Persico, C. 
(2016), The effects of school spending on education-
al and economic outcomes: Evidence from school 
finance reforms, The Quarterly Journal of 
Economics, 131(1):157-218. 
6. Kreisman, D. and Steinberg, M. (2018), The 
Effect of Increased Funding on Student 
Achievement: Evidence from Texas’s Small District 
Adjustment,  
Kreisman_Texas.pdf. 
7. Lafortune, J., Rothstein, J., and 
Schanzenbach, D. W. (2018), School finance reform 
and the distribution of student achievement, 
American Economic Journal: Applied Economics, 
10(2):1-26. 
8. Lee, K.G and Polachek, S. (2014), Do School 
Budgets Matter? The Effect of Budget Referenda on 
Student Performance, IZA Discussion Paper No. 8056. 
9. Ngân hàng Thế giới (2018), Việt Nam: Nhu 
cầu chi tiêu để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền 
vững, Báo cáo đánh giá thực hiện Mục tiêu Phát 
triển Bền vững. 
10. OECD (2018), An introduction to PISA, 
11. Papke, L. E. (2005), The effects of spending 
on test pass rates: evidence from Michigan, Journal 
of Public Economics, 89(5-6): 821–839. 
12. Steinberg, M. (2014), Does Greater 
Autonomy Improve School Performance? Evidence 
from a Regression Discontinuity Analysis in 
Chicago, Education Finance and Policy, 9(1): 1-35. 
Summary 
Spending state budget on education is vital to the 
performance of the education system, given the atti-
tude to education as a top priority in Vietnam. In 
fact, several countries that spend large amounts on 
education do not achieve good performance. On the 
other hand, several countries with small budget for 
education have enjoyed good return. Applying data 
from Program for International Student Assessment 
(PISA) in 2015 at high schools, the study investi-
gates the influence of financial autonomy at high 
schools on Vietnamese students’ PISA scores. The 
experimental research results show that the higher 
the level of financial autonomy at high schools, the 
higher PISA scores. However, the results are not 
true for private high school as they have the highest 
autonomy level. The study provides experimental 
proofs as the basis to suggest financial autonomy 
policies for high schools to improve students’ learn-
ing results. 
Sè 133/201972
Ý KIẾN TRAO ĐỔI
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdftu_chu_tai_chinh_va_ket_qua_hoc_tap_o_cac_truong_trung_hoc_p.pdf