Quyền lực thị trường của ngân hàng và khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng: Bằng chứng tại một số nước ASEAN
Tóm tắt
Mục đích của nghiên cứu nhằm phân tích mối quan hệ giữa quyền lực
thị trường của ngân hàng và khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ
qua kênh tín dụng. Tác giả sử dụng dữ liệu của 206 ngân hàng tại 5
quốc gia khu vực ASEAN giai đoạn 1999–2013 để phân tích. Kết quả
cho thấy những ngân hàng có quyền lực thị trường lớn có khả năng
ứng phó tốt hơn trước các tác động tiêu cực của chính sách tiền tệ lên
tăng trưởng tín dụng và hoạt động cho vay. Tuy nhiên, trong giai đoạn
khủng hoảng tài chính toàn cầu, sự linh hoạt của những ngân hàng này
trước thay đổi của chính sách tiền tệ trở nên yếu đi; do đó nâng cao
hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ.
Bạn đang xem tài liệu "Quyền lực thị trường của ngân hàng và khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng: Bằng chứng tại một số nước ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyền lực thị trường của ngân hàng và khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng: Bằng chứng tại một số nước ASEAN
26 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 Quyền lực thị trường của ngân hàng và khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng: Bằng chứng tại một số nước ASEAN NGUYỄN THỊ THÙY LINH Trường Đại học Kinh tế TP.HCM - Linh.Nguyen@ueh.edu.vn TRẦN HOÀNG NGÂN Trường Đại học Tài chính – Marketing - th.ngan@ufm.edu.vn TRƯƠNG THỊ HỒNG Trường Đại học Kinh tế TP.HCM - tshongnh@gmail.com Ngày nhận: 16/01/2015 Ngày nhận lại: 09/09/2015 Ngày duyệt đăng: 15/09/2015 Mã số: 1214-G-05 Tóm tắt Mục đích của nghiên cứu nhằm phân tích mối quan hệ giữa quyền lực thị trường của ngân hàng và khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng. Tác giả sử dụng dữ liệu của 206 ngân hàng tại 5 quốc gia khu vực ASEAN giai đoạn 1999–2013 để phân tích. Kết quả cho thấy những ngân hàng có quyền lực thị trường lớn có khả năng ứng phó tốt hơn trước các tác động tiêu cực của chính sách tiền tệ lên tăng trưởng tín dụng và hoạt động cho vay. Tuy nhiên, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, sự linh hoạt của những ngân hàng này trước thay đổi của chính sách tiền tệ trở nên yếu đi; do đó nâng cao hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ. Abstract This article examines the relation between bank market power, measured by Lerner index at bank level along with banks’ marginal costs, and monetary policy transmission through the credit channel. On using the data from 206 banks in five ASEAN countries between 1999 and 2013, we find that banks with high market power are likely to perform better against the adverse impact of monetary policy on credit growth as well as the banks’ lending activities. This implies that these banks’ credit supply is less sensitive (as with flexible self- adjustment) to abrupt changes in the monetary policy, thus impairing efficiency in the transmission through the credit channel. Từ khóa: Quyền lực thị trường, ngân hàng, chính sách tiền tệ, tăng trưởng tín dụng, rủi ro, ASEAN. Keywords: Market power, bank, monetary policy, credit growth, risk, ASEAN. Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 27 1. Lời giới thiệu Hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ phụ thuộc rất lớn vào mức độ phát triển của thị trường tài chính và cách thức mà các doanh nghiệp quản lí nguồn lực tài chính bên ngoài của mình (Goodhart & Schoenmaker, 1995). Ở những quốc gia mà chức năng của thị trường chứng khoán chưa được phát triển đầy đủ thì kênh tín dụng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền dẫn các chính sách (Yoshimi, 2014). Xu hướng này có thể quan sát được ở hầu hết các nền kinh tế mới nổi, trong đó khu vực ASEAN là một ví dụ điển hình. Các nghiên cứu gần đây phát hiện nguồn lực tài chính bên ngoài của các doanh nghiệp trong khu vực ASEAN phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, mặc dù vai trò của thị trường vốn cũng như các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã ngày càng trở nên quan trọng (Chen, 2012). Các nghiên cứu trước đây phần lớn tập trung vào tác động trong việc thay đổi chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế mới nổi khu vực ASEAN (Abdel-Baki, 2010; Devereux, Lane, & Xu, 2006); và sự cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và điều hành chính sách tiền tệ tại các quốc gia đang phát triển (Morgan, 2012; Yoshimi, 2014); hay tác động của hiệu quả hoạt động ngân hàng và hoạt động chứng khoán hoá khoản vay đến khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ ở các nước châu Âu (Altunbas, Gambacorta, & Marques- Ibanez, 2009, 2012). Nhiều kết quả cho thấy mức độ hiệu quả truyền dẫn phụ thuộc vào giới hạn trong hoạt động cho vay hay tài trợ đầu tư (Devereux & cộng sự, 2006). Altunbas & cộng sự (2009) chỉ ra việc chứng khoán hoá các khoản vay sẽ ảnh hưởng đến khả năng cung ứng tín dụng phục vụ cho mục tiêu của chính sách tiền tệ. Hoạt động này tuy làm tăng khả năng của ngân hàng trong việc cung ứng các khoản vay mới, nhưng lại phụ thuộc vào điều kiện và chu kì kinh doanh, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động ngân hàng mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 là một ví dụ. Bên cạnh đó, tác động của phần chênh lệch không mong đợi giữa lãi suất cho vay và tiền gửi đối với việc truyền dẫn chính sách tiền tệ phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế (Yoshimi, 2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa cho thấy tác động của quyền lực thị trường đến khả năng cung ứng tín dụng và hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ. Vấn đề mở này sẽ là trọng tâm nghiên cứu của bài viết. Điều này rất có ý nghĩa trong việc điều hành chính sách tiền tệ tại các quốc gia khu vực ASEAN, nơi mà nguồn vốn cho khu vực sản suất kinh doanh cũng như tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào kênh cho vay của ngân hàng. 28 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 2. Cơ sở lí thuyết 2.1. Truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng Lí thuyết về truyền dẫn chính sách tiền tệ cho rằng chính sách tiền tệ có tác động trực tiếp đến nguồn cung tín dụng của ngân hàng và do đó tác động đến nền kinh tế, bởi vì những khoản tài trợ thông qua hoạt động cho vay của ngân hàng chính là nhân tố quan trọng tạo nên lượng tiền lưu thông trong xã hội (Bernanke & Gertler, 1995; Kashyap & Stein, 1994, 2000). Quy mô những khoản cho vay này có đặc điểm là gắn liền với tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng như lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu hay tái cấp vốn của ngân hàng trung ương. Như vậy, khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hay điều chỉnh tăng lãi suất, các ngân hàng thương mại chịu áp lực điều chỉnh giảm quy mô hoạt động cho vay (do tác động của việc tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc) hay điều chỉnh tăng lãi suất cho vay và do đó làm giảm doanh số cho vay của ngân hàng. Khi ngân hàng thương mại điều chỉnh như vậy, chính sách thắt chặt tiền tệ của ngân hàng trung ương đã được truyền dẫn tốt đến nền kinh tế qua kênh tín dụng ngân hàng. Những ngân hàng thương mại có sự điều chỉnh nhiều hơn (nhạy cảm hơn) với những thay đổi về lãi suất hay tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ được xem là truyền dẫn chính sách tiền tệ hiệu quả hơn, so với những ngân hàng ít có sự thay đổi hay điều chỉnh. Việc xác định tác động truyền dẫn qua kênh tín dụng thông thường được ước tính với mô hình tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Theo đó, chính sách tiền tệ sẽ có những tác động khác nhau lên hoạt động cho vay của ngân hàng, phụ thuộc vào quy mô hoạt động, mức độ vốn hoá, khả năng thanh khoản và rủi ro trong hoạt động ngân hàng (Kashyap & Stein, 2000; Gambacorta & cộng sự, 2004). Chẳng hạn như đối với hai ngân hàng giống nhau về phạm vi hoạt động và quy mô nhưng lại khác nhau về khả năng thanh khoản sẽ có khả năng chống đỡ khác nhau trước các thay đổi đột ngột trong chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng những nguồn thanh khoản dự phòng để tài trợ cho hoạt động cho vay trong tương lai. Tương tự như vậy, những ngân hàng có mức độ rủi ro khác nhau trong hoạt động tín dụng sẽ chịu những tác động khác nhau từ chính sách tiền tệ (Kashyap & Stein, 2000; Ashcraft, 2006). Nhiều nghiên cứu khác cũng xem xét tác động của quy mô vốn tự có (tỉ lệ vốn trên tổng tài sản) đến hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ của ngân hàng (Gambacorta & Mistrulli, 2004; Meh & Moran, 2010; Van den Heuvel, 2002). Theo đó, việc truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng sẽ ít có hiệu quả hơn khi quy mô vốn tự có của ngân hàng bằng hoặc thấp hơn tỉ lệ vốn theo quy định. Điều này được giải thích là do quy định Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 29 mức vốn tối thiểu, ngân hàng không thể mở rộng hoạt động cho vay của mình (trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng) nếu không có khả năng tăng vốn tự có. Việc tăng vốn tự có không dễ trong khi chi phí lại rất cao. Trong điều kiện này, truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng sẽ trở nên kém hiệu quả. 2.2. Quyền lực thị trường và hiệu quả truyền dẫn chính sách tiền tệ Bên cạnh những yếu tố truyền thống liên quan đến đặc điểm hoạt động ngân hàng (tỉ lệ vốn tự có, tính thanh khoản, quy mô ngân hàng, hay mức độ rủi ro) có tác động đến khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng, thì mối liên hệ giữa quyền lực thị trường hay mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng với khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ cũng là vấn đề rất được quan tâm. Theo các nghiên cứu trước đây, quyền lực thị trường của ngân hàng (Bank Market Power) thể hiện khả năng của ngân hàng trong việc điều chỉnh giá cao hơn chi phí biên (Agoraki, Delis, & Pasiouras, 2011; Soedarmono, Machrouh, & Tarazi, 2011). Ngân hàng có quyền lực thị trường càng lớn, nghĩa là có khả năng tăng giá cao hơn so với chi phí biên của chính mình, và như vậy có vị thế độc quyền càng cao (Turk Ariss, 2010). Hiện nay tồn tại hai quan điểm đối lập nhau khi xem xét mối liên hệ giữa quyền lực thị trường của ngân hàng với hiệu quả truyền dẫn tiền tệ. Quan điểm thứ nhất cho rằng khi quyền lực thị trường giảm đi, có nghĩa là mức độ cạnh tranh của thị trường tăng lên thì khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ sẽ trở nên kém hiệu quả (Freixas & Rochet, 1997; Gunji, Miura, & Yuan, 2009; Stiglitz & Greenwald, 2003). Quan điểm thứ hai, đối lập với quan điểm thứ nhất, lập luận trong điều kiện quyền lực thị trường của mỗi ngân hàng rất nhỏ hay thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thì ngân hàng càng nhạy cảm với những biến động trong lãi suất và như vậy việc truyền dẫn chính sách tiền tệ càng trở nên hiệu quả. Nghiên cứu của Leroy (2014) và Olivero, Li, & Jeon (2011) cho thấy hệ thống ngân hàng càng ít tập trung hay có mức độ cạnh tranh càng cao thì càng có khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ tốt hơn. Tương tự, Amidu & Wolfe (2013) cũng chỉ ra khi mức độ cạnh tranh trên thị trường tăng lên thì chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng càng trở nên kém hiệu quả. Trong khi quan điểm thứ nhất chủ yếu dựa vào giải thích liên quan đến cấu trúc và mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng - vốn bị chỉ trích là không thể đại diện cho mức độ cạnh tranh hay quyền lực thị trường của ngân hàng (Soedarmono, Machrouh, & Tarazi, 2013) thì những lập luận dựa trên quan điểm thứ hai tập trung giải thích quyền lực thị trường và lí thuyết cạnh tranh không hoàn hảo. Theo đó, nếu ngân hàng có quyền 30 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 lực thị trường lớn sẽ dễ dàng tiếp cận những nguồn tài chính khác nhau, bao gồm cả nguồn tài chính không được bảo hiểm. Điều này giúp cho quy mô hoạt động tín dụng của ngân hàng trở nên ít phụ thuộc vào cung ứng vốn từ ngân hàng trung ương; do đó ít chịu tác động của những thay đổi đột ngột trong chính sách tiền tệ. Ngoài ra, ngân hàng có quyền lực thị trường lớn thông thường sẽ có lợi nhuận cao hơn, và ít có xu hướng gia tăng rủi ro trong hoạt động (Wu, Luca, & Jeon, 2011). Vì vậy, việc nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ ít có tác động mạnh đến những ngân hàng này; theo nghĩa các ngân hàng không nhất thiết phải tìm kiếm những nơi đầu tư có suất sinh lời cao (đồng thời rủi ro cũng cao) khi lãi suất định hướng của ngân hàng trung ương giảm. Theo lí thuyết về chi phí cận biên trong kinh tế học vi mô, trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, giá cả tín dụng (lãi suất) sẽ chịu tác động trực tiếp bởi chi phí biên của việc cung ứng tín dụng. Trong khi chi phí biên lại chịu tác động trực tiếp của lãi suất trên thị trường tiền tệ (thường là lãi suất qua đêm), vốn thể hiện mức giá mà các ngân hàng chấp nhận để có được nguồn vốn có thể cho vay (den Haan, Sumner, & Yamashiro, 2007). Tuy nhiên, những ngân hàng có quyền lực thị trường lớn không phụ thuộc vào những nguồn vốn này, vì có khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác trên thị trường, hoặc huy động tiền gửi ngắn hạn từ khách hàng một cách dễ dàng. Điều này dẫn đến việc tăng chi phí biên trong ngắn hạn, ngược lại với mục tiêu của chính sách tiền tệ; do đó sẽ ít có tác động đến hoạt động cho vay (Bhaumik, Dang, & Kutan, 2011). Như vậy, trên cơ sở những lập luận đã phân tích, tác giả tập trung vào giả thuyết nghiên cứu theo quan điểm thứ hai, cho rằng quyền lực của ngân hàng càng lớn thì việc truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng ngân hàng càng trở nên kém hiệu quả. 3. Phương pháp nghiên cứu Mô hình nghiên cứu được tác giả sử dụng dựa trên lí thuyết nền do Bernanke & Mihov (1998) phát triển và phổ biến trong các bài nghiên cứu cùng lĩnh vực (Altunbas & cộng sự, 2009; Bhaumik & cộng sự, 2011; Fungáčová, Solanko, & Weill, 2014; Leroy, 2014; Olivero & cộng sự, 2011; Wu & cộng sự, 2011). Theo đó chính sách tiền tệ thắt chặt (hay nới lỏng) được thể hiện bằng việc tăng (hoặc giảm) lãi suất. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng được sử dụng trong trường hợp này cho 5 quốc gia khu vực Đông Nam Á. Nếu lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không được cung cấp, lãi suất tín phiếu kho bạc hoặc lãi suất chiết khấu được sử dụng để thay thế. Những lãi suất này được lựa chọn trong các nghiên cứu trước đây về chính sách tiền tệ ở các nền kinh tế trên thế giới1. Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 31 Việc nghiên cứu ở cấp độ ngân hàng đối với cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ cho phép tác giả phân định rõ giữa kênh tín dụng ở phía cung của việc truyền dẫn chính sách tiền tệ và kênh lãi suất ở phía cầu. Ngoài ra, điều này cũng cho phép tác giả xác định kênh tín dụng bằng cách nghiên cứu các ứng dụng thực tiễn dưới góc nhìn tín dụng - đó là sự phản ứng lại của cung tín dụng đối với những cú sốc của chính sách tiền tệ, vốn được kì vọng sẽ là khác nhau giữa từng ngân hàng với các đặc điểm và thế mạnh tài chính khác nhau. Như thảo luận ở trên, mô hình nghiên cứu được áp dụng trong bài viết (mô hình 1) xem xét tác động của quyền lực thị trường và những đặc điểm khác của ngân hàng đến khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ. Mô hình này biểu diễn hàm hồi quy của tỉ lệ tăng trưởng tín dụng (y) của ngân hàng i tại quốc gia j vào năm t với chỉ số của chính sách tiền tệ (MP), quyền lực thị trường của ngân hàng (LERNER) và biến tương tác giữa chính sách tiền tệ với quyền lực thị trường của ngân hàng (MP*LERNER). Biến tương tác nhằm ghi nhận tác động biên của quyền lực thị trường của ngân hàng lên tác động của chính sách tiền tệ đối với tăng trưởng tín dụng. Ngoài biến quan tâm chính là quyền lực thị trường của ngân hàng, đo bằng chỉ số LERNER và tương tác của biến này với biến chỉ số chính sách tiền tệ MP, các biến SIZE, LIQ, CAP và RISK trong mô hình (1) nhằm kiểm soát quy mô, khả năng thanh khoản, tỉ lệ vốn hoá và rủi ro trong hoạt động của ngân hàng lên tác động đối với tăng trưởng tín dụng. Theo đó, ngân hàng có quy mô (SIZE) lớn hơn được kì vọng sẽ chịu chi phí thấp hơn (phần bù rủi ro được yêu cầu thấp hơn) và dễ dàng đối phó với những cú sốc trong nguồn tiền gửi của khách hàng bằng cách chuyển sang các hình thức huy động vốn khác và vẫn đảm bảo tăng trưởng tín dụng của mình. SIZE được đo lường dựa trên giá trị Logarit của tỉ lệ tài sản ngân hàng so với tổng tài sản của tấ ... tính thanh khoản cao (tiền mặt, các khoản dự trữ) trên tổng nguồn tiền gửi ngắn hạn. Tăng trưởng tín dụng là tỉ lệ % thay đổi của tổng tín dụng hàng năm. Chỉ số LERNER mô tả quyền lực thị trường của ngân hàng, giá trị càng cao nghĩa là ngân hàng có quyền lực thị trường càng lớn và mức độ cạnh tranh của thị trường là kém. Bảng 3 trình bày kết quả nghiên cứu theo mô hình (1). Cột 1 và 2 trong Bảng 3 mô tả kết quả hồi quy sử dụng phương pháp ước lượng ngẫu nhiên bình phương nhỏ nhất trong khi cột 3 và 4 trình bày kết quả hồi quy sử dụng phương pháp GMM hệ thống. Bảng 3 Kết quả hồi quy - Tác động của quyền lực thị trường đến khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng Biến phụ thuộc: Tăng trưởng tín dụng (LOANGR) (1) (2) (3) (4) MP -1,034*** -1,280*** -1,045*** -1,765*** (5,42) (5,35) (4,06) (3,56) LERNER -12,431* -13,976** -12,516** -13,852** (2,38) (2,64) (3,27) (3,03) 38 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 Biến phụ thuộc: Tăng trưởng tín dụng (LOANGR) (1) (2) (3) (4) MP * LERNER 0,018*** 0,019*** 0,162*** 0,169*** (3,53) (3,73) (12,62) (13,14) GDPG 2,123*** 2,107*** 1,975** 1,615* (7,47) (7,41) (2,67) (2,19) SIZE -2,720*** -2,679*** -2,542*** -2,968*** (4,64) (4,55) (3,97) (6,48) LIQ -15,356** -16,388** -10,302** -10,302** (3,07) (3,25) (-3,18) (-3,20) CAR 4,088*** 3,661* 6,430** 8,224*** (5,59) (2,37) (3,24) (3,71) CRISIS -3,588** -3,349* -5,921 -7,795* (2,68) (2,49) (1,72) (2,26) L. LOANGR 0,071** 0,072** 0,236*** 0,231*** (3,22) (3,26) (10,32) (10,18) RISK 0,066* 0,069* 0,650*** 0,642*** (2,34) (2,42) (8,74) (8,71) MP * RISK -1,799 1,202*** (1,70) (5,07) Hằng số 27,483*** 26,208*** 22,495*** 24,157*** (4,77) (4,50) (5,14) (7,29) Số quan sát 2,389 2,389 2,389 2,389 Số ngân hàng 206 206 206 206 R2 0,387 0,312 Wald χ2 67,84 48,31 289,01 115,74 Prob, 0,000 0,000 0,000 0,000 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 39 Biến phụ thuộc: Tăng trưởng tín dụng (LOANGR) (1) (2) (3) (4) AR(1) test (p-value) 0,011 0,009 AR(2) test (p-value) 0,312 0,253 Hansen test of over-identification 0,509 0,424 Diff-in-Hansen tests of exogeneity 0,377 0,235 Ghi chú: (*)(**) và (***) theo thứ tự cho biết mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%. LOANGR là tăng trưởng tín dụng hàng năm (%). L.LOANGR là tăng trưởng tín dụng năm trước. Các biến khác như được định nghĩa ở Bảng 1. Theo đó, kết quả từ cột 1 đến 4 (Bảng 3) cho thấy hệ số tương quan của biến tương tác giữa chính sách tiền tệ và quyền lực thị trường (MP * LERNER) trong mối tương quan với tăng trưởng tín dụng của ngân hàng (LOANGR) là dương (>0) và đạt mức ý nghĩa thống kê 1%. Điều này chỉ ra những ngân hàng có quyền lực thị trường lớn sẽ ít nhạy cảm trước các thay đổi trong lãi suất (trên thị trường liên ngân hàng hoặc tín phiếu kho bạc). Ví dụ, khi so sánh tác động của chính sách tiền tệ đối với hai ngân hàng, ngân hàng A có quyền lực thị trường lớn, LERNER =1 (độc quyền hoàn toàn), và ngân hàng B có quyền lực thị trường nhỏ, LERNER = 0 (cạnh tranh hoàn toàn); lúc này hệ số tương quan đối với tác động của chính sách tiền tệ (sự thay đổi trong lãi suất, biểu thị bằng biến MP) lên tăng trưởng tín dụng tại ngân hàng A sẽ là (ρ+π) = (-1,034 + 0,018) = - 1,016, nhỏ hơn hệ số tương quan của tác động đó đối với ngân hàng B với ρ = -1,034 (cột 1 - Bảng 3). Bên cạnh đó, tung độ góc của hàm tăng trưởng tín dụng tại ngân hàng A là (𝛼𝑖 + 𝛿) sẽ nhỏ hơn tung độ góc của hàm tăng trưởng tín dụng tại ngân hàng B (𝛼𝑖) vì δ <0. Việc sử dụng phương pháp ước lượng khác nhau và các biến kiểm soát khác nhau, thể hiện ở cột (2) đến (4), cũng không làm thay đổi kết quả này. Như vậy, khi giá trị LERNER càng lớn, thì hiệu quả truyền dẫn của việc thay đổi MP lên tăng trưởng tín dụng ngân hàng sẽ giảm xuống, thể hiện ở hệ số (ρ+π*LERNER) sẽ càng nhỏ với π >0 và 0 < LERNER <1 và ngược lại. Kết quả này phù hợp với giả thuyết nghiên cứu thảo luận ở phần 2, cho rằng quyền lực thị trường của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định nguồn cung tín dụng và khả năng điều chỉnh từ những thay đổi trong chính sách tiền tệ. Những ngân hàng có quyền lực thị trường lớn có khả năng điều chỉnh linh hoạt hơn đối với hoạt động tín dụng của mình trước các cú sốc tiền tệ bởi vì những ngân hàng này dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn thay thế. Kết quả nghiên cứu của bài viết đóng góp vào những thảo luận hiện tại về các yếu tố tác động đến hiệu quả truyền 40 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 dẫn của chính sách tiền tệ vào nền kinh tế. Kết quả khá phù hợp với quan điểm hiện đại trong chính sách tiền tệ, thường biết đến là “quan điểm tín dụng”. Theo quan điểm này, cấu trúc tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đóng vai trò trung tâm trong việc gia tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ. Những biến số khác trong mô hình, như rủi ro, quy mô ngân hàng, tính thanh khoản và mức độ vốn hoá cũng phù hợp với kì vọng ban đầu và các kết quả nghiên cứu trước đây. 6. Kết luận và gợi ý chính sách Bài viết sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính của ngân hàng để đánh giá tác động của quyền lực thị trường của ngân hàng đến khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng ngân hàng tại 5 quốc gia khu vực ASEAN trong giai đoạn từ năm 1999–2013. Tác giả sử dụng mô hình hồi quy với biến tăng trưởng tín dụng là biến phụ thuộc và chỉ số về vị thế của chính sách tiền tệ, rủi ro ngân hàng, các đặc điểm của ngân hàng (quy mô, khả năng thanh khoản, tỉ lệ vốn hoá và quyền lực thị trường) và tốc độ tăng trưởng GDP là những biến độc lập trong mô hình. Bằng việc tập trung vào kênh tín dụng, kết quả nghiên cứu cho thấy quyền lực thị trường của ngân hàng có quan hệ nghịch chiều với hiệu quả truyền dẫn của chính sách tiền tệ. Những ngân hàng có quyền lực thị trường lớn dễ dàng trong việc ứng phó với các thay đổi đột ngột trong chính sách tiền tệ và do đó hiệu quả truyền dẫn chính sách kém hơn. Kết quả này càng đúng đối với những ngân hàng có quy mô lớn, khả năng thanh khoản tốt hơn và tỉ lệ vốn hoá cao hơn. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số gợi ý chính sách đối với hệ thống ngân hàng thương mại VN nói riêng và các quốc gia khu vực ASEAN nói chung như sau: - Dưới góc độ quản lí ngân hàng, cần thiết phải tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường nhằm giảm quyền lực thị trường của những ngân hàng đơn lẻ, từ đó góp phần vào việc thực thi chính sách tiền tệ (trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước muốn thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng). Bên cạnh đó, dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả cũng kì vọng việc thường xuyên giám sát hoạt động ngân hàng, cùng với những yêu cầu gia tăng về vốn và khả năng thanh khoản sẽ làm tăng khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh tín dụng của ngân hàng và từ đó đạt được những mục tiêu đề ra trong điều hành chính sách tiền tệ. Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 41 Ngoài ra, ngân hàng cũng cần chú trọng đến việc tăng cường quản trị rủi ro ở cấp độ ngân hàng. Mỗi ngân hàng thương mại nên rà soát lại bộ máy quản trị rủi ro của ngân hàng mình, từ quản trị rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro thanh khoản đến quản trị nội bộ. Mặt khác, một quy trình quản trị rủi ro hoàn thiện nhưng nếu không thực hiện đúng thì cũng không mang lại kết quả mong đợi. Do vậy, với những nhân viên, những nhà quản lí trong lĩnh vực này cần được đào tạo đúng, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và quan trọng hơn là phải có đạo đức nghề nghiệp. Nhìn chung, để tăng sức mạnh thị trường cho các ngân hàng nhằm giảm những tác động tiêu cực đến hoạt động tín dụng khi Ngân hàng Nhà nước có những thay đổi quá nhanh trong điệc điều hành chính sách tiền tệ cần nhiều giải pháp từ vĩ mô đến vi mô. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ gợi ý một số vấn đề, liên quan đến quyền lực thị trường và mức độ cạnh tranh của các ngân hàng thương mại, hy vọng góp phần nhỏ vào những giải pháp lớn trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế quan trọng của đất nước Chú thích 1 Tuy vẫn có những tranh cãi rằng một số quốc gia có thể sử dụng các chỉ số khác ngoài lãi suất để thể hiện vị thế trong việc áp dụng chính sách tiền tệ (thắt chặt hoặc nới lỏng), việc dựa vào những chỉ tiêu này là không khả thi vì các mục tiêu sẽ thay đổi theo thời gian và theo từng quốc gia. Sự khác biệt trong các chỉ số đo lường này rất khó thực hiện được khi nghiên cứu trong cùng một mô hình ở những giai đoạn khác nhau (Olivero & cộng sự, 2011). 2 Mặc dù dữ liệu của ngân hàng được thu thập từ năm 1995–2013 nhưng kết quả chạy hồi quy chỉ dựa trên dữ liệu từ năm 1999–2013 và dữ liệu từ năm 1995–1998 được sử dụng để tính các giá trị trung bình và độ lệch chuẩn di động. Điều này là do trong bài sử dụng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn di dộng với vòng lặp là 5 năm. Ví dụ như: Giá trị của biến RISK (đo lường bằng chỉ số Z-SCORE) của năm 1999 được tính dựa trên tỉ suất lợi nhuận trên 3 BankScope cung cấp dữ liệu tài chính của 90% thị phần ngân hàng trên thế giới. Tài liệu tham khảo Abdel-Baki, M. (2010). The effects of bank reforms on the monetary transmission mechanism in emerging market economies: Evidence from Egypt. African Development Review, 22(4), 526-539. Agoraki, M. E. K., Delis, M. D., & Pasiouras, F. (2011). Regulations, competition and bank risk- taking in transition countries. Journal of Financial Stability, 7(1), 38-48. Altunbas, Y., Gambacorta, L., & Marques-Ibanez, D. (2009). Securitisation and the bank lending channel. European Economic Review, 53(8), 996-1009. 42 Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 Altunbas, Y., Gambacorta, L., & Marques-Ibanez, D. (2010). Bank risk and monetary policy. Journal of Financial Stability, 6(3), 121-129. Altunbas, Y., Gambacorta, L., & Marques-Ibanez, D. (2012). Do bank characteristics influence the effect of monetary policy on bank risk? Economics Letters, 117(1), 200-222. Amidu, M., & Wolfe, S. (2013). The effect of banking market structure on the lending channel: Evidence from emerging markets. Review of Financial Economics, 22(4), 146-157. Bernanke, B. S., & Gertler, M. (1995). Inside the black box: The credit channel of monetary policy transmission. Journal of Economic Perspectives, 9(4), 27-48. Bernanke, B. S., & Mihov, I. (1998). Measuring monetary policy. Quarterly Journal of Economics, 113(3), 869-902. Bhaumik, S. K., Dang, V., & Kutan, A. M. (2011). Implications of bank ownership for the credit channel of monetary policy transmission: Evidence from India. Journal of Banking and Finance, 35(9), 2418-2428. Caprio, G., Jr., Klingebiel, D., Laeven, L. A., & Noguera, G. (2005). Appendix: banking crisis database. In P. Honohan & L. A. Laeven (Eds.), Systemic financial crises: containment and resolution (pp. 307-340). Cambridge, UK: Cambridge University Press. Chen, X. (2012). The dampening effect of bank foreign liabilities on monetary policy: Revisiting monetary cooperation in East Asia. Journal of International Money and Finance, 31(2), 412-427. den Haan, W. J., Sumner, S. W., & Yamashiro, G. M. (2007). Bank loan portfolios and the monetary transmission mechanism. Journal of Monetary Economics, 54(3), 904-924. Devereux, M. B., Lane, P. R., & Xu, J. (2006). Exchange rates and monetary policy in emerging market economies. Economic Journal, 116(511), 478-506. Freixas, X., & Rochet, J.-C. (1997). Microeconomics of banking (Vol. 2): MIT press Cambridge, MA. Fungáčová, Z., Solanko, L., & Weill, L. (2014). Does competition influence the bank lending channel in the euro area? Journal of Banking and Finance, 49(1), 356-366. Gambacorta, L., & Mistrulli, P. E. (2004). Does bank capital affect lending behavior? Journal of Financial Intermediation, 13(4), 436-457. Gambacorta, L. (2005). Inside the bank lending channel. European Economic Review, 49(7), 1737- 1759. Goodhart, C., & Schoenmaker, D. (1995). Should the functions of monetary policy and banking supervision be separated? Oxford Economic Papers, 47(4), 539-560. Gunji, H., Miura, K., & Yuan, Y. (2009). Bank competition and monetary policy. Japan and the World Economy, 21(1), 105-115. Kashyap, A. K., & Stein, J. C. (1994). Monetary policy and bank lending. Monetary Policy, 221-261. The University of Chicago Press. Nguyễn Thị Thùy Linh & cộng sự. Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(9), 26-43 43 Kashyap, A. K., & Stein, J. C. (2000). What do a million observations on banks say about the transmission of monetary policy? The American Economic Review, 90(3), 407-428. Laeven, L. A., & Valencia, F. V. (2013). Systemic banking crises database. IMF Economic Review, 61(2), 225-270. Leroy, A. (2014). Competition and the bank lending channel in Eurozone. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 31(1), 296-314. Meh, C. A., & Moran, K. (2010). The role of bank capital in the propagation of shocks. Journal of Economic Dynamics and Control, 34(3), 555-576. Mishkin, F. S. (2010). Monetary policy flexibility, risk management, and financial disruptions. Journal of Asian Economics, 21(3), 242-246. Morgan, P. J. (2012). The role of macroeconomic policy in rebalancing growth. Journal of Asian Economics, 23(1), 13-25. Nguyen, M., Skully, M., & Perera, S. (2012). Market power, revenue diversification and bank stability: Evidence from selected South Asian countries. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 22(4), 897-912. Olivero, M. P., Li, Y., & Jeon, B. N. (2011). Competition in banking and the lending channel: Evidence from bank-level data in Asia and Latin America. Journal of Banking and Finance, 35(3), 560-571. Soedarmono, W., Machrouh, F., & Tarazi, A. (2011). Bank market power, economic growth and financial stability: Evidence from Asian banks. Journal of Asian Economics, 22(6), 460-470. Soedarmono, W., Machrouh, F., & Tarazi, A. (2013). Bank competition, crisis and risk taking: Evidence from emerging markets in Asia. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 23(0), 196-221. Stiglitz, J., & Greenwald, B. (2003). Towards a new paradigm in monetary economics: Cambridge University Press. Turk Ariss, R. (2010). On the implications of market power in banking: Evidence from developing countries. Journal of Banking & Finance, 34(4), 765-775. Van den Heuvel, S. J. (2002). Does bank capital matter for monetary transmission? Economic Policy Review, 8(1), 259-265. Wu, J., Luca, A. C., & Jeon, B. N. (2011). Foreign bank penetration and the lending channel in emerging economies: Evidence from bank-level panel data. Journal of International Money and Finance, 30(6), 1128-1156. Yoshimi, T. (2014). Lending rate spread shock and monetary policy arrangements: A small open economy model for ASEAN countries. Asian Economic Journal, 28(1), 19-39.
File đính kèm:
- quyen_luc_thi_truong_cua_ngan_hang_va_kha_nang_truyen_dan_ch.pdf